back to top
27 C
Chư Sê
Thứ Tư, 8 Tháng Năm, 2024
Home Blog

Thư Ngỏ – Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo Tượng Đài Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát

THƯ NGỎ
V/v Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo Tượng Đài Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Kính thưa quý Phật tử,

Nam Mô U Minh Giáo Chủ Cứu Khổ Bổn Tôn Cứu Bạt Minh Đồ Đại Thánh Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Kính Bạch chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni

Kính Thưa quý Phật tử thiện nam tín nữ gần xa,

Nhân ngày Vía Bồ Tát Quán Thế Âm 19/09 vừa qua, Chùa Phước Viên H’Bông đã tổ chức Khóa Tu Mùa Thu và đặt đá kiến lập tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát. Vừa rồi, sau Khóa Tu An Lạc Một Ngày 14/10 hoàn mãn, đến Rằm tháng 10, Bổn tự Chùa Phước Viên đã chính thức khởi công giải phóng mặt bằng và múc móng Kiến lập Tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát.

Thời gian qua, Bổn tự đã nhận được những tấm lòng phát tâm Bồ đề cúng dường kiến lập Tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát: TT. Thích Giác Nhàn cúng 100 triệu, quý Phật tử tham dự Khóa Tu An Lạc vừa qua 75 triệu đồng, (đệ tử TT. Giác Nhàn phát tâm 100 triệu, sẽ chuyển cúng vào đầu tháng tới). Gia đình cô Hảo và quý Phật tử Hà Nội cúng sắt và một phần công thợ trị giá 250 triệu, quý Phật tử Chùa Mỹ Thạch, Chùa Phước Viên, và Pleiku… cúng chung khoảng 110 triệu…….

Tổng số tịnh tài Bổn tự đã nhận được là 550 triệu. Dự kiến Công trình Tượng Đài Địa Tạng gần 2 tỉ đồng.

Hiện tại công trình đang thi công và rất cần Xi Măng (tổng công trình khoảng 100 tấn xi măng), xi măng đang làm là xi măng Hoàng Thạch, một bao là 100 ngàn (một tấn là 2 triệu).

Tượng Đài Địa Tạng Bồ Tát là Công trình tâm linh đặc biệt hồi hướng báo hiếu Ông Bà, Cha Mẹ, Cửu huyền Thất tổ, pháp giới chúng sanh: Chúng Sanh Độ Tận Phương Chứng Bồ Đề, Địa Ngục Vị Không Thệ Bất Thành Phật, Đại Từ Đại Bi, Đại Thánh Đại Nguyện, Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát…

Bổn tự rất mong được đón nhận sự phát tâm cúng xi măng từ quý Tôn đức và quý nam nữ Phật tử gần xa. Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát.

H’Bông ngày 19/10/Quý Mão
Trụ Trì Chùa Phước Viên
Đại Đức Thích Quảng Phước

Quý Phật tử phát tâm cúng dường có thể gửi trực tiếp tại bàn trực khách, văn phòng Ban liên lạc hoặc thông qua số tài khoản của chùa:
Tiếp nhận thông qua số tài khoản:

  • Ngân hàng: Vietinbank
  • Tên chủ tài khoản: NGUYEN TAN LOI (Đại Đức Thích Quảng Phước)
  • Số tài khoản VNĐ: 1008 6212 8777
  • SWIFF: ICBVVNVX182
  • Nội dung chuyển khoản: PTXMHPKT (Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo)

Xin cảm niệm công đức mọi sự quan tâm và đóng góp về vật chất lẫn tinh thần quý phật tử dành cho Phật Giáo Chư Sê. Mọi sự phát tâm cúng dường sẽ được nhà chùa phương danh sau khi khóa tu kết thúc.
Nguyện cầu mười phương chư Phật gia hộ cho quý Phật tử thân an tâm lạc, vạn sự kiết tường, sở cầu sở nguyện đều được như ý.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Vì sao gọi Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi quý báu?

Đức Thế Tôn trong kinh Niệm Phật Ba La Mật thuyết: “Tam bảo là chỗ về nương tựa của muôn loài, là ngọn đèn phá tan mọi hắc ám, là con thuyền đưa chúng sinh qua thấu bờ bên kia.”

Tam bảo là gì?

Nhân loại thường cho vàng bạc, ngọc ngà châu báu hay quyền cao chức trọng là quý. Nhưng thử hỏi khi gặp chuyện mất mát đau thương, quyến thuộc xa lìa hoặc bị giặc cướp, bệnh tật trầm kha… thì các thứ ấy có thể làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau cho ta được hay không?

Phật là con người đã hoàn toàn tự tại, giải thoát nhờ phước huệ song tu với tinh thần vô ngã vị tha. Pháp là những lời dạy chân chính của Phật qua sự trải nghiệm trong tu chứng nên thấy rõ chúng sinh sống chết luân hồi đều do mình tạo lấy. Tăng là những người truyền thừa thay Phật hoằng dương Chánh pháp, sống trong tinh thần Lục hòa, đoàn kết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần chia vui sớt khổ, phục vụ vì lợi ích chúng sinh.

Tam Bảo là ba ngôi quý báu; gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
Tam Bảo là ba ngôi quý báu; gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.

Tăng là những người hiến trọn đời mình cho mục đích trên cầu thành Phật, dưới hoằng hóa độ sanh vì lợi ích con người. Nhờ có chư Tăng, Ni thay Phật hoằng truyền những lời dạy của Ngài khiến cho Chánh pháp được mở mang rộng rãi đến với tất cả mọi người. Những ai hấp thu được tinh ba của Phật pháp sẽ ngày càng được an vui, hạnh phúc hơn và sẵn sàng an ủi, sẻ chia, giúp đỡ tha nhân vì tình người trong cuộc sống.

Nhưng Tăng cũng có nhiều loại, đại khái lược có ba là Bồ Tát Tăng, Thanh Văn Tăng và Phàm Phu Tăng. Đây là Tăng bảo chân chánh xứng đáng được mọi người y chỉ tu học và tôn kính cúng dường.

Chúng ta nên hiểu đúng về Tam Bảo

Phật tùy duyên giáo hóa và đã nhập Niết bàn, nay chỉ còn lại những lời vàng ngọc của Ngài. Chư Tăng thay Phật truyền trì Chánh pháp, hiến trọn đời mình cho sự nghiệp vì lợi ích chúng sinh.

Tăng phàm phu là những người chân thật nguyện hiến đời mình cho lý tưởng giác ngộ và giải thoát, đang kế thừa con đường Phật đạo, tuyên dương Chánh pháp giúp cho mọi người bớt khổ thêm vui, luôn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Phàm phu Tăng tuy chưa thành tựu đạo quả nhưng vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn mọi người biết cách dứt ác làm lành nhờ tin sâu nhân quả nên chính vì vậy ai phát tâm cúng dường phàm phu Tăng vẫn được phước báo không thể nghĩ bàn.

Pháp là những lời dạy của Đức Phật để chúng sinh nương tựa vào giáo Pháp của Ngài
Pháp là những lời dạy của Đức Phật để chúng sinh nương tựa vào giáo Pháp của Ngài

Thực tế trong cuộc đời này phàm phu Tăng là số đông gần gũi với chúng ta nhất. Phàm phu Tăng chân thật tu hành thuyết pháp độ sanh mang tinh thần của các vị thánh Tăng Bồ Tát và thánh Tăng Thanh Văn.

Phàm phu Tăng là số đông nên quý Phật tử dễ gần gũi và tiếp cận hơn, chúng ta vẫn học hỏi được những điều hay lẽ phải để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày.

Nói tóm lại, tin sâu Tam Bảo là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Khi chúng ta tin thì không nên thần tượng hóa vì thần tượng hóa dễ sụp đổ và mất tín tâm. Ta chỉ thấy thầy mình hay, thầy mình giỏi nên dễ dẫn đến tư tưởng phê bình, chỉ trích người khác, do đó làm mất đi sự hoà hợp trong Tăng đoàn gây sự chia rẽ.

Tăng là đoàn thể sống trong an vui, hòa hợp. Vì lợi ích số đông mà nhiều người cùng sống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết với tinh thần vô ngã vị tha.

Quy y Tam Bảo, ý nghĩa và tầm quan trọng

Trong cõi đời vô thường này mới thấy đó nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh mà nay đã tán gia bại sản, cửa nát nhà tan, con cái chia lìa. Duy chỉ có Tam bảo Phật-Pháp-Tăng mới giúp chúng ta vượt qua biển khổ sông mê, vươn lên vượt qua số phận tối tăm để làm mới lại chính mình bằng cách dứt ác làm lành, giữ tâm ý trong sạch nên mới gọi là ba ngôi báu.

Tam bảo là ngọn đèn sáng giúp cho con người vượt qua si mê, tối tăm, mờ mịt. Tam bảo có khả năng chuyển hóa phiền não, khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Nhờ Tam Bảo ta biết được điều hay lẽ phải, biết rõ sự thật cuộc sống con người và muôn loài vật đều phải nương nhờ vào nhau mới bảo tồn mạng sống.

Chính vì vậy, người Phật tử chân chính cần phát triển lòng từ bi thương yêu bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Do đó, Tam bảo Phật-Pháp-Tăng như ba viên ngọc quý không gì có thể so sánh được. Và Tam bảo có sáu ý nghĩa không thể nghĩ bàn:

Một là nghĩa hy hữu, tức là hiếm có, khó được như vàng bạc, kim cương, ngọc quý… người nghèo không thể có được. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, dù người ở sát bên chùa nhưng thiếu phước cũng khó gặp, không thể thân cận với Tam bảo để tu học nên gọi là hy hữu.

Khóa thu mùa hè 2023
Ngôi báu thứ ba chính là Tăng Bảo, là những nhà tu hành dành trọn cuộc đời thực hành theo giáo pháp của Đức Phật, hướng đến sự giải thoát.

Học Phật tại gia như thế nào?

Hai là nghĩa ly cấu, tức lìa xa những việc xấu ác mà hay làm những việc thiện lành, tốt đẹp như ngọc ma ni trong sáng, sạch đẹp không tỳ vết, khó vấy bẩn. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, giúp cho chúng ta xa lìa phiền não tham-sân-si nên gọi là ly cấu.

Ba là nghĩa thế lực, như châu báu ở thế gian có thế lực lớn giúp con người vượt qua nghèo khó, còn có thể dùng để trị bệnh trúng độc. Tam Bảo cũng lại như thế, có đủ Tam minh Lục thông tùy cơ ứng biến dứt kiếp nghèo khổ, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi nên gọi là thế lực.

Bốn là nghĩa trang nghiêm, như châu báu ở thế gian làm đồ trang sức cho thân thể trở nên xinh đẹp, lộng lẫy, ai cũng muốn ngắm nhìn. Tam Bảo cũng lại như vậy, lấy nhân quả, nghiệp báo, nhân duyên làm nền tảng để giúp con người làm chủ bản thân, tâm trí trở nên sáng suốt, thanh tịnh, làm việc chân chính nên gọi là trang nghiêm.

Năm là nghĩa tối thắng, như châu báu ở thế gian quý hơn tất cả mọi vật nhưng xét cho cùng không quý bằng mạng sống con người. Tam Bảo cũng lại như vậy, là pháp thù thắng hơn hết có khả năng giúp đỡ mọi người vượt qua biển khổ sông mê, sống an vui, bình yên và hạnh phúc nên gọi là tối thắng.

Sáu là nghĩa bất biến (không thay đổi), như vàng ròng ở thế gian dù đập, nấu, mài, dũa vẫn không thay đổi bản chất. Tam Bảo cũng lại như vậy, người thân cận Tam Bảo tất được an vui, bình yên, hạnh phúc nhờ sống trở lại Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý nên không bị vô thường chi phối, nước không thể cuốn trôi, lửa không thể thiêu đốt, do đó gọi là bất biến.

Ý nghĩa 3 nén hương trong Phật giáo

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Quý Phật Tử có thể tìm hiểu thêm: Quy Y Tam Bảo – TT. Thích Chân Quang

Lịch Sử Hình Thành Xe Hoa, Kiệu Hoa Phật Đản

Hằng năm cứ mỗi độ xuân qua hạ về, ngàn muôn đóa bạch liên khoa sắc, vạn ức hồng liên tỏa hương thơm ngát là hàng trăm triệu người con Phật khắp mọi nơi trên thế giới hân hoan đón mừng một sự kiện vô cùng quan trọng trong Phật giáo, sự kiện đức Phật đản sanh kéo dài hàng tuần lễ gọi là tuần lễ Phật đản (từ mùng 08 đến 15 tháng tư âm lịch).

uần lễ Phật đản (từ mùng 08 đến 15 tháng tư âm lịch)
uần lễ Phật đản (từ mùng 08 đến 15 tháng tư âm lịch)

Vào những ngày này khắp mọi quốc gia Phật giáo trên thế giới: Từ cao nguyên thanh tạng nóc nhà thế giới ngàn năm tuyết phủ của Tây Tạng huyền bí, cho đến hải đảo phù tang rợp bóng anh đào của quốc gia Nhật Bản; từ đại lục Trung Hoa mênh mông cho đến quốc đảo sư tử giọt lệ đài trang của nước Tích Lan yên bình; từ đại ngàn đầy nắng gió của quốc gia Miến Điện cho đến đất kinh kì triệu voi nước Lào; từ đại lục xứ Ấn trầm hùng quê hương Phật giáo cho đến quốc gia duyên hải hình chữ S thân yêu nước Việt mến thương… trong các tự viện, chùa chiền, tịnh xá… đều long trọng tổ chức đại lễ Phật Đản cờ hoa muôn phương, phướng lọng rợp trời… cho đến nhiều nhà dân Phật tử cũng treo đèn kết hoa, biểu ngữ, trên các nẻo đường nhiều khi còn có cả xe hoa, kiệu hoa, thuyền hoa… tạo nguồn sinh khí an lành, mang nguồn an vui hạnh phúc đến cho nhân loại.

Sự hình thành xe hoa, kiệu hoa rước Phật trong ngày Phật đản

Nguồn gốc ý nghĩa về đại lễ Phật Đản phần lớn mọi người đều biết đến, nhưng ý nghĩa sự hình thành xe hoa, kiệu hoa rước Phật trong ngày Phật đản lại ít người được tri tường.

Ngược dòng thời gian xuôi về quá khứ với gần ba ngàn năm về trước, tại một vùng bình nguyên rộng lớn của dãy Hy mã lạp sơn có một quốc gia hùng cường thanh bình thịnh trị mang tên Ca-tỳ-la-vệ, dưới sự trị vì của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma-ya. Lịch sử Phật giáo ghi rằng: Vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-ya tuổi ngoài bốn mươi vẫn chưa có con nối dỗi…

Vua và hoàng hậu hằng ao ước, cầu nguyện, làm bao điều phước thiện hằng mong có một người con tiếp nối điện ngọc, ngai vàng… Một đêm nọ hoàng hậu Ma-ya nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà khai hông bên hữu đi vào trong bụng, chợt mình tỉnh giấc thấy người khoan khoái an lạc vô cùng biết mình có mang thánh thai. Các nhà tiên tri, đạo sĩ đều cho biết rằng Hoàng hậu sẽ sớm sanh một hoàng thái tử tài trí siêu việt, lớn lên sẽ trở thành một bậc đế vương cai trị cùng khắp bốn châu thiên hạ…

Gần đến ngày sanh hạ, theo phong tục bấy giờ, Hoàng hậu đã xin phép vua Tịnh Phạn và hoàng gia về lại quê hương mình đợi ngày sinh hạ. Trên đường về lại quê hương vua Thiện Giác (Vua cha của mình), giữa đường đến một hoa viên tú lệ tên Lâm-tỳ-ni, muôn hoa khoe sắc, muôn chim ca hót, hương thơm ngạt ngào… Hoàng hậu cho đoàn tùy tùng dừng bước thưởng ngoạn cảnh sắc tuyệt vời của hoa viên, lúc dạo chơi đến gốc cây tên gọi Vô-ưu, hoa thơm lạ thường, sắc đẹp huyền ảo, Hoàng hậu vừa đưa cánh tay phải lên hái đóa hoa Vô-ưu, ngay lúc ấy Thái tử Đản sanh, bước đi bảy bước, có bảy đóa hoa sen đỡ chân …

Thái tử đưa một tay lên chỉ trời, một tay chỉ xuống đất tuyên bố cùng nhân loại: Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn….  Có chín rồng phun nước, chư thiên trỗi nhạc tung hoa cúng dường Thái tử… Sau đó Thái tử nằm trong hoa sen như bao em bé bình thường… Hoàng hậu lập tức cho người báo về hoàng cung, vua Tịnh Phạn liền cho đoàn tùy tùng cùng với những kiệu hoa, xe hoa được kéo bởi đoàn voi ngựa trang nghiêm trọng thể rời hoàng cung đi rước Thái tử và Hoàng hậu từ Hoa viên Lâm-tỳ-ni trở về hoàng cung Ca-tỳ-la-vệ.

Sự kiện này là một sự kiện lịch sử trọng đại đã trở thành hình tượng và ý nghĩa để hàng triệu người con Phật thời sau khắp nơi trên thế giới trang hoàng xe hoađể tái hiện lại hình, kiệu hoa  ảnh thiêng liêng: Lễ Rước Phật Đản Sanh. 

Lịch sử lễ rước Phật Đản Sanh bằng xe hoa, kiệu hoa có nguồn gốc từ Ấn Độ xa xưa. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, những người con Phật xuất gia và tại gia muốn tái hiện lại hình ảnh rước Phật Đản Sanh từ vườn Lâm-tỳ-ni về thành Ca-tỳ-la-vệ; đặc biệt dưới sự phát tâm hộ pháp của những vị vua Phật tử thuần thành, lễ rước Phật được diễn ra vô cùng trang nghiêm và trọng thể.

Vua A Dục Vương (273-233 BC), sau khi quy ngưỡng về Phật pháp, đã trở thành Hộ Pháp A Dục ủng hộ Phật pháp tuyệt vời, hằng năm không những nhà Vua tổ chức lễ Rước Phật long trọng trang nghiêm, còn ra Chiếu chỉ khắc vào bia đá nhắc nhở thần dân phải tổ chức lễ Rước Phật… Chỉ dụ số 4 của vua A Dục được các nhà Khảo cổ học phát hiện tại Kandaha ghi rằng: “Vào ngày lễ Đản Sanh mỗi năm phải tổ chức trọng thể thiết lập lễ Rước Phật.”

Ngài Pháp Hiển (319-414) người Trung Hoa, gần 16 năm Tây du Ấn Độ đã kể lại lễ Rước Phật tại nước Vu Điền (Khotan, một quốc gia thuộc Ấn Độ cổ) trong tác phẩm Phật Quốc Kí của mình như sau: “Lễ rước Phật từ mùng 01 đến hết tháng tư, lễ rước rất long trọng, xe kiệu nâng Phật cao hơn ba trượng, trang hoàng lộng lẫy…” Ngài Huyền Trang (596-664), gần 17 năm tu học nghiên cứu tại Ấn Độ cũng kể lại lễ Rước Phật tại Ấn Độ xưa trong tác phẩm Đại Đường Tây Vực Kí: “Tại nước Dao Tần (Kucha) lễ Rước Phật được tổ chức cực kì hoành tráng có đến 100 xe hoa nghinh Phật sơ sinh diễu hành trên khắp phố để toàn thể dân chúng được chiêm ngưỡng và lễ bái Phật.”

Lễ rước Phật nhân ngày Phật Đản tại các nước trên thế giới

Tại Trung Quốc và một số quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Nhật Bản…. lễ rước Phật được gọi là lễ Hành Tượng, có nghĩa là dùng các loại xe kiệu trang hoàng lộng lẫy bằng bảy báu, hoa hương, cờ phướng, lồng đèn… chở tượng Phật đi xung quanh khắp phố phường, cung thành… vào dịp lễ Phật Đản. Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm: Thời Đông Tấn (318-420) đã đúc năm tượng Phật Sơ Sinh để rước trong lễ rước Phật. Thời Nam Bắc Triều, Thái Võ Đế nhà Ngụy (408-452) đã có chiếu chỉ thiết lễ rước kiệu Phật, chính vua và hoàng hậu rải hoa cúng dường đoàn xe kiệu rước Phật Sơ Sinh.

Theo sách Phật Tổ Thống Kí, Hiếu Võ Đế nhà Tây Ngụy (467-499) hạ chỉ: “Vào ngày Đản Sanh, các ngôi chùa lớn ở tại Lạc Dương phải trần thiết xe kiệu rước Phật vào cung đình; đồng thời chiếu chỉ quy định mỗi năm phải thiết lễ Phật Đản long trọng như thế, không khí lễ Phật thật hùng vĩ và tưng bừng.” Đặc biệt thời nhà Đường (618-907), thời đại hoàng kim của Trung Hoa, quốc gia hùng cường Phật giáo rất Phát triển, lễ rước Phật được diễn ra càng trọng thể to lớn và linh đình hơn…

Tại xứ sở hoa Anh đào, quốc gia Nhật Bản, từ thời Thánh Đức (574-622), lễ Phật Đản đã được phát triển và thịnh hành, ngoài việc trần thiết xe hoa, kiệu hoa rước Phật đản sanh, các ngôi chùa còn tổ chức phát chẩn, tế bần… đặc biệt là việc phát tâm kết hoa cúng Phật… Ngày nay, ngày Đản sanh đã trở thành ngày cắm hoa, còn gọi là lễ Hội hoa tại quốc gia này.

Tại các nước Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia… ngày lễ Phật Đản, lễ Rước Phật còn tổ chức trọng thể hơn; vì các quốc gia này, ngày Đản sanh còn được kết hợp với ngày lễ đức Phật thành đạo và Niết bàn còn gọi là lễ Tam Hợp, lễ Vesak. Ngày Lễ này đã được cả nhân loại tôn vinh là ngày lễ vô cùng thiêng liêng, lễ Hòa bình, lễ quốc tế Vesak Liên hợp Quốc… và được gần như các nước trên thế giới vinh danh tổ chức tại các trụ sở Liên Hợp Quốc của quốc gia mình từ năm 2000 đến nay.

Tìm Hiểu Lịch Sử Hình Thành Xe Hoa, Kiệu Hoa Phật Đản
Tìm Hiểu Lịch Sử Hình Thành Xe Hoa, Kiệu Hoa Phật Đản

Chính vì thế, ngày nay vào tuần lễ Phật Đản sanh (khoảng từ mùng tám đến 15 tháng tư âm lịch), tại các nước như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào… lễ Rước Phật được tổ chức trang nghiêm và hoành tráng, từng đoàn người kéo dài hàng vài km với kiệu hoa, xe hoa chở tượng Phật được kéo bởi những thớt voi, trang hoàng lộng lẫy, hương hoa, cờ hoa, phướng lọng, trống chiêng vang vọng khắp phố phường…

Lễ rước Phật nhân ngày Phật Đản tại Việt Nam từ xưa tới nay

Tại Việt Nam, lễ rước Phật cũng có lịch sử gần hai ngàn năm; Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỉ thứ nhất, và còn lưu dấu lại những ngôi chùa cổ kính thăng trầm cùng dân tộc như cùa Dâu, chùa Keo… Sách Ngô Chí có đoạn chép: “…Ở Giao Châu, khi ra đường người ta thường nghe tiếng kiểng, lẫn tiếng trống kèn những người rợ Hồ (chỉ các vị Tăng và Phật tử người Ấn) đi theo thắp hương hai bên có từng đoàn xe có mười người…” Đến triều đại nhà Lý (1009-1225) và nhà Trần (1225-1400), hai triều đại thịnh trị quốc gia thái bình phát triển, Phật giáo đã trở thành Quốc giáo, Phật giáo phát triển hy hoàng các nghi thức Phật Đản, rước Phật cũng đã được tổ chức trang nghiêm trọng thể.

Đại Việt Sử Kí Toàn Thư III, tờ 15A, tr.37: “Vua Lý Nhân Tông sau khi cho xây dựng trùng tu chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), hàng tháng cứ đến ngày Rằm, mùng một và mùng tám tháng tư Phật Đản, xa giá ngự đến đặt lễ Cầu an và nghi thức tắm Phật hàng năm làm lệ thường. Ngoài ra thời bấy giờ có tục nghinh rước Phật Pháp Vân, Pháp Vũ rất linh đình…” Đại Việt Sử Kí Toàn Thư IV, tờ 20B, tr.92 chép: “Đích thân vua Lý Cao Tông đến chùa Pháp Vân nghinh rước Phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên để làm lễ cầu mưa, tục này còn duy trì đến thời Hậu Lê.” 

Sách Thơ Văn Lý Trần dịch văn bia Tháp Sùng Thiện Diên Linh đã miêu tả rất chi tiết không khí lễ hội: “Nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an, bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng; tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa…. Sai phụng thường chỉnh đốn kiệu xe, khiến phong bá quét sạch bụi bặm. Khói trầm đàn như mây toả khắp sơn khê, bóng cờ phướng như ráng phô đầy các ngả. Chuông trống vang ầm, khánh tiêu rộn rã. Phía trước xe mây Tam bảo, đằng sau kiệu báu thánh hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung, về hết trẻ già muôn nước. Điện hoa vắt ngang phía trước, chùa Phật mở rộng bên trong. Hội Tăng Ni trai khiết, diễn Giác Đế chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang, đọc kệ đoạn cúi đầu tạ lễ. Cung nga khép nép, nghe kinh xong dâng sữa múa ca…”        

Theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo luôn thăng trầm đồng hành cùng dân tộc; từ thuở các vị vua Hùng dựng nước và giữ nước đã có hình ảnh của ông Bụt (Buddha – Phật) truyền dạy tâm ấn giúp Tiên Dung và Chữ Đồng Tử vượt qua những khó khăn thử thách giữa cuộc đời, lập nghiệp giúp dân… cho đến thời Việt Nam thể hiện chủ quyền dân tộc gần như các vị vua anh minh là những Phật tử anh dũng kiên cường tỏa rạng vinh quang dòng giống con Hồng cháu Lạc: Từ Lý Nam Đế (503-548, Vị vua lập nên nhà Tiền Lý, với khai quốc Vạn Xuân) cho đến Ngô Quyền (898-944, vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam, với chiến thắng  Bạch Đằng nổi tiếng, kết thúc gần một thiên niên kỷ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam). Từ Đinh Bộ Lĩnh (968-979, dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc, với Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập), đến Lý Công Uẩn (974-1028) khai sinh nhà Lý dời Đô từ Hoa Lư về Thăng Long, mở ra một thời đại vàng son thái bình thịnh trị của dân tộc Việt. Từ Trần Thái Tông, Phật Hoàng Trần Nhân Tông… khai sinh một nền quốc giáo, Phật giáo với danh lam Yên Tử thiêng liêng… một triều đại huy hoàng uy danh của Đại Việt ba lần đại thắng Mông Nguyên… đến các đời chúa Nguyễn tiếp nối chí nguyện Phật hoàng Trần Nhân Tông (mở đất: Châu Ô, Châu Rí – mở mang đất Việt – phụng thờ Phật pháp), với Nguyễn Hoàng được mệnh danh là Chúa Tiên, với Nguyễn Phúc Nguyên mệnh danh là Chúa Sãi, Nguyễn Phúc Lan mỹ danh là chúa Hiền, Nguyễn Phúc Tần danh xưng chúa Nghĩa, Nguyễn Phúc Chu – vị vua Phật tử mỹ hiệu là Chúa Phật….. tất cả đều là những người con anh dũng và uy danh của dân tộc Việt, là đệ tử của đức Phật, cho nên họ phát tâm làm phúc thiện, hộ trì chánh pháp cũng như cung kính, long trọng tổ chức các đại Lễ Phật giáo như Phật Đản, Vu Lan… cầu nguyện quốc gia thái bình nhân dân an lạc đúng theo truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.

Xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Phật Giáo như gắn chặt, có mặt hầu hết trên các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, triết học, nghệ thuật, âm nhạc, đạo đức, v.v… đâu đâu cũng lưu lại hình ảnh của Phật Giáo. Đến khi Chúa Nguyễn Hoàng phát nguyện vào Nam khai hoang mở cõi kiến lập chùa Thiên Mụ…. một dãi trời Nam lại hiện bóng từ bi, Phật Giáo lại cùng với dân tộc vào miền đất mới, trong quá trình mở cõi tạo tác sơn hà, Phật Giáo lại chứng minh truyền thống đồng hành cùng dân tộc của mình, và chính nơi miền đất mới, dãi đất miền Trung mến yêu đã hình thành hai trung tâm Phật Giáo mới của Phật Giáo Việt Nam đó là: Trung tâm Phật Giáo thần kinh Thuận Hóa và Phật giáo Bình Định đất võ uy linh.

Việt Nam trong những thập niên trở lại đây, lễ Rước Phật tại đất thần kinh xứ Huế được xem là trang nghiêm ý nghĩa và long trọng nhất. Hình ảnh bảy đóa hồng liên nở rạng tỏa sáng trên dòng hương giang núi ngự, bên chùa Thiên Mụ cổ kính trầm hùng có thể được xem là biểu tượng thiêng liêng cho dân tộc Việt.

Hình ảnh của từng đoàn xe hoa, kiệu hoa rước Phật
Hình ảnh của từng đoàn xe hoa, kiệu hoa rước Phật

Hình ảnh của từng đoàn xe hoa, kiệu hoa rước Phật, cờ phướng rợp trời, có cả ngàn vạn chư Tăng cùng Phật tử thành kính trang nghiêm đưa rước từ chùa Diệu Đế đi khắp phố phường sông Hương qua Tràng Tiền, Đông Ba… về chùa Từ Đàm kéo dài hàng vài cây số quả thật là thiêng liêng và trọng thể biết dường nào. Ngày nay, với sự quan tâm của Chính phủ, của hầu hết người dân Việt, Phật giáo đã thật sự hưng thịnh, lễ rước Phật xe hoa, kiệu hoa… được tổ chức long trọng trang nghiêm cả ba miền Nam Trung Bắc.

Đặc biệt năm nay, PL. 2563 – DL. 2019, Đại lễ Phật Đản Vesak Liên Hợp Quốc lại được long trọng tổ chức ngay trên quê hương Việt Nam, có hơn 100 quốc gia trên thế giới về tham dự, hàng trăm triệu người con Phật trên khắp thế giới đang hân hoan đón mừng ngày Đản Sanh của đức Từ Phụ, và chắc chắn hình ảnh ý nghĩa của lễ Rước Phật bằng xe hoa, kiệu hoa sẽ có mặt khắp mọi tỉnh thành, phố phường trên cả nước.

Trong đó xe hoa, kiệu hoa đặc biệt long trọng và hoành tráng nhất chắc chắn sẽ là trung tâm văn hóa Phật giáo chùa Tam Chúc, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam.

Mùa Phật Đản Vesak LHQ, PL. 2363 – DL. 2019

TK. Thích Quảng Phước, cẩn soạn

Đức Phật nói về nguyên nhân thất bại ở đời

Đức Phật Nói

Có vị Thiên nhân nghĩ đến nỗi khổ của thế gian nên đến thỉnh vấn Đức Thế Tôn về nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của con người sống ở trên đời.

Đức Phật nói về nguyên nhân thất bại ở đời
Đức Phật nói về nguyên nhân thất bại ở đời

Với lòng thương tưởng chúng sinh, Phật(1) lần lượt đưa ra những lời giải đáp, nêu rõ các nguyên nhân khiến con người rơi vào cửa bại vong. Bao giờ cũng thế, lời Phật giản dị nhưng rất thực tế và bổ ích, rất đáng cho chúng ta suy nghĩ và học tập:

Vị Thiên nhân

Về bại vong con người,

Con hỏi Gotama!

Con đến hỏi Thế Tôn,

Cửa vào của bại vong?

Đức Thế Tôn

Thật dễ hiểu thành công, 

Thật dễ hiểu bại vong,

Ưa mến pháp, thành công,

Thù ghét pháp, bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ nhất về bại vong,

Thứ hai, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Ai mến kẻ bất thiện,

Không ái luyến bậc thiện,

Thích pháp kẻ bất thiện,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ hai về bại vong,

Thứ ba, mong Ngài nói, 

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Ngưới tánh ưa thích ngủ,

Thích hội chúng, thụ động,

Biếng nhác, thường phẫn nộ,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy chúng con rõ,

Thứ ba về bại vong,

Thứ tư, mong Ngài nói,

Cửa vào cửa bại vong?

Thế Tôn

Ai với mẹ hay cha,

Già yếu, tuổi trẻ hết,

Tuy giàu không giúp đỡ,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ tư về bại vong,

Thứ năm, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Ai nói dối lường gạt,

Sa-môn, Bà-la-môn, 

Hay các khất sĩ khác,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vây, chúng con rõ,

Thứ năm về bại vong,

Thứ sáu, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Người giàu có tài sản,

Có vàng bạc thực vật,

Hưởng  vị ngọt một mình,

Chính cửa vào bại vong?

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ sáu về bại vong,

Thứ bảy, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong. 

Thế Tôn

Người tự hào về sanh,

Về tài sản giòng họ,

Khinh miệt các bà con,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ bảy về bại vong,

Thứ tám, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Người đắm say nữ nhân,

Đắm sau rượu, cờ bạc,

Hoang phí mọi lợi sắc,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ tám về bại vong,

Thứ chín, mong ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Không vừa đủ vợ mình,

Được thấy giữa dâm nữ,

Được thấy với vợ người,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ chín về bại vong,

Thứ mười, xin Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Người trẻ tuổi đã qua,

Cưới cô vợ vú tròn,

Ghen nàng không ngủ được,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ mười về bại vong,

Thứ mười một, xin nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Đàn bà, hay đàn ông,

Rượu chè, tiêu hoang phí,

Được địa vị quyền thế,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy chúng con biết,

Thứ mười một bại vong,

Thứ mười hai, xin nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Tài sản  ít, ái lớn,

Sanh gia đình hoàng tộc,

Ở đây muốn trị vì,

Chính cửa vào bại vong.

Bại vong này ở đời,

Bậc trí khéo quán sát,

Đầy đủ với chánh kiến,

Sống hạnh phúc ở đời.

Lời Phật dạy – Những lời vàng ngọc của Đức Phật

Lời Phật dạy – Những lời vàng ngọc của Đức Phật truyền dạy, chúng ta hãy cùng chiêm nghiệm để giác ngộ cuộc sống và hành xử có văn hóa.

Luận Đại Trí Độ: “Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được.”
Luận Đại Trí Độ: “Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được.”

Lời Phật dạy

[ssredlist]
  • Kinh Đại Thừa Nghĩa: “Quay về nương dựa nên gọi là quy y. Hành tướng quy y như con theo cha mẹ, nương dựa phục tùng; như dân nương nhờ vua, như người yếu nương nhờ kẻ mạnh. Nương Phật như thầy, nên gọi là quy y Phật. Nhờ pháp như thuốc, nên gọi là quy y Pháp. Nương Tăng là bạn, nên gọi là quy y Tăng.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Như người có tay, vào trong núi báu, tự do lấy ngọc; người có lòng tin cũng vậy, vào trong Phật pháp, tự do lấy của báu vô lậu.”
  • Kinh Tâm Địa Quán: “Như người không tay tuy đến núi báu, không lấy được gì. Người không lòng tin, dầu gặp Tam bảo cũng không ích gì.”
  • Luận Đại Trí Độ: “Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được.”
  • Kinh Tiểu Địa Quán: “Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền.”
  • Kinh Trung A Hàm: “Ví như nhà vua, tạo lâu đài nơi bên thành, xây đắp chắc chắn, khiến không thể hư nát; bề trong quốc gia yên ổn, bề ngoài ngự phòng oán địch. Phật tử cũng vậy, phải kiên cố lòng tin tưởng đức Như Lai, khi lòng tin đã vững vàng thì quyết không theo những kẻ sa môn ngoại đạo phạm chí ác ma và ác thế gian. Ấy là đã xây dựng được lòng tin như lâu đài bền chắc. Là Phật tử phải bỏ điều ác, điều xấu mà tu các pháp lành.
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh mờ ám, người hiểu giáo lý mà không lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải cùng đủ mới làm cội gốc tu hành.”
[/ssredlist]
Kinh Tiểu Địa Quán: "Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền.”
Kinh Tiểu Địa Quán: “Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền.”
[ssredlist]
  • Kinh Lăng Nghiêm: “Tin chơn lý thường trú gọi là lòng tin.”
  • Kinh Tăng Nhứt A Hàm (văn Ba lị): “Vì muốn đến niết bàn, nên tin Phật pháp, cần phải nghe mới được trí huệ, chẳng phải buông lung mà thông suốt; được như vậy thì lo gì đời nầy không vào được cảnh giới cao tột.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Lòng tin làm nhơn cho nghe pháp, nghe pháp làm nhơn cho lòng tin.”
  • Kinh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội: “Đến bạn lành, được nghe pháp mầu nhiệm là được pháp các bậc thánh tôn yêu quí. Đức Như Lai trí tuệ hơn hết, trùm khắp hư không, nói ra giáo pháp, duy có Phật mới có thể hiểu thấu được. Vậy nên các ngươi cần phải nghe nhiều hiểu rộng chánh pháp, mới tin nổi lý chơn thiệt chánh pháp của Ta. Được làm thân người trong cõi người rất khó, mà được gặp giáo pháp Như Lai lại càng khó hơn. Vậy nên nghe được giáo pháp phải tinh tấn tu trì.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nhơn duyên được nghe chánh pháp, là gần gũi bạn lành; nhơn duyên gần gũi bạn lành đó là lòng tin vậy. Phát được lòng tin có hai nhơn duyên là: nghe pháp và suy nghĩ nghĩa lý của pháp.”
  • Luận Khởi Tín: “Nói lòng tin có 4 món: một là lòng tin cội gốc, nghĩa là ưa nghĩ pháp chơn như; hai là tin đức Phật có vô lượng công đức, thường nhớ gần gũi, cúng dường, cung kính phát khởi căn lành để cầu xin nhất thế trí; ba là tin Pháp có nhiều lợi ích, thường nhớ tu hành cho rốt ráo; bốn là tin Tăng hay tu hành hạnh lợi mình và người, thường ưa gần gũi các vị Bồ tát cầu học hạnh như thật.”
  • Kinh Niết Bàn: “Lòng tin lại có 2 món: một là từ nghe mà sanh, hai là từ nghĩ mà sanh. Những người từ nghe sanh mà chẳng từ nghĩ sanh, thì gọi là lòng tin chẳng đầy đủ. Còn có 2 món nữa: một là tin có Đạo, hai là tin có chứng Đạo. Lòng tin người nào chỉ tin có Đạo mà chẳng tin có các người chứng Đạo, ấy gọi là lòng tin chẳng đầy đủ.”
  • Kinh Vô Lượng Thọ: “Nếu có chúng sanh rõ tin Phật trí cho đến thắng trí, rồi tu các công đức để hồi hướng lòng tin. Những chúng sanh này ở trong hoa bảy báu, tự nhiên hóa sanh: xếp bằng mà ngồi trong chừng giây lát, thân thể sáng rực, trí tuệ công đức như các Bồ tát đầy đủ trọn vẹn.”
  • Kinh Đại Bảo Tích: “Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin.”
  • Kinh Xuất Sanh Bồ Đề Tâm: “Nếu cầu Bồ đề để làm lợi ích chúng sanh, ấy là những kẻ vì chúng sanh hơn hết vậy; hạng nầy còn không thể so sánh huống là bậc trên nữa. Vậy nên đã được nghe các pháp này, kẻ trí thường sanh tâm vui pháp sẽ được đại phước không lường và mau được chứng đạo vô thượng.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Hoặc có người nói: Quả vô thượng chánh đẳng chánh giác, do lòng tin làm nhơn. Thật ra chánh nhơn của bồ đề (tức chánh đẳng giác) tuy còn nhiều vô lượng, nhưng nếu nói lòng tin, tức đã bao quát hết rồi vậy.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Bồ đề Tâm là con đường lớn, vì có thể đưa người được vào cõi Nhất thế trí. Bồ đề Tâm là con mắt sáng, vì có thể xem thấy hết thảy đường chánh nẻo tà. Bồ đề Tâm là mặt trăng sáng, vì soi rõ các tịnh pháp đều viên mãn. Bồ đề Tâm là nước sạch, vì rửa sạch tất cả dơ bẩn phiền não. Bồ đề Tâm là ruộng tốt, vì nuôi dưỡng chúng sanh trong sạch.Bồ đề Tâm là hạt giống tất cả đức Phật, vì có thể sanh tất cả pháp các đức Phật.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: ” Đại tín tâm tức là Phật tánh, Phật tánh tức là Như Lai.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Trăng Bồ đề trong mát, soi rốt ráo hư không, chúng sanh tâm nước sạch, bóng Bồ đề hiện ngay.”
[/ssredlist]
Kinh Đại Bảo Tích: “Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin.”
Kinh Đại Bảo Tích: “Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin.”
[ssredlist]
  • Kinh Tăng Nhứt A Hàm (Văn Ba-lị): Đức Phật biết mở giây sanh tử cho tất cả chúng sanh: Ngài đích thân đối với thần nhơn, chỉ rõ pháp hiểu biết, khiến họ thấy hoặc nghe, đều được an tâm. Đức Phật thật là bậc Đạo nhơn, là Thiện nhơn, là Quyết định nhơn, là Vô lậu nhơn, vì Ngài thấu suốt thân mệnh, chính là bậc Đại nhơn trí tuệ cao cả vậy.
  • (Cũng kinh này) Tỳ kheo nương Phật pháp mà sanh lòng tin: tin Đức Như Lai là: Thế Tôn, đẳng Chánh giác, Minh hạnh Túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng Phu, Thiên nhơn sư. Ngài chứng quả an lành không bệnh; tu nhẫn nại và tinh tấn mức trung đạo, chứng quả chẳng hư ngụy, chẳng mê hoặc. Đúng như thật đối trước các bậc sư chủ: Chỉ rõ đạo nghĩa, an trụ tinh tấn, bỏ pháp bất thiện, phát khởi thiện pháp, nương thiện pháp mà quyết định gắng gỗ bền chắc. Thế mới thành tựu bậc trí huệ chứng Vô thượng trí vậy.
  • Kinh Tiểu A Hàm: “(Văn Ba lị) Ta, tuy trong một nháy mắt, cũng chẳng rời trí lực sâu sắc của Phật Đà mà tỏ rõ nói pháp; nói pháp không ái và không phiền não của Phật Đà; với kẻ khác không còn so sánh. Ta chẳng phân biệt ngày, đêm, lấy con mắt tâm xem thấy hết. Ta tự tin rằng thoạt qua là hết đêm, cho nên trong giây lát chẳng bỏ rời. Ta tin và thích, tâm và niệm, khiến ta quy y Phật giáo vậy. Những người trí huệ cao cả như thế chẳng luận là nơi chỗ nào ta cũng vẫn đến quy y. Dầu cho thân ta già, sức ta yếu, không thể đi đến chỗ ấy được, nhưng tâm ta quyết định thường đi đến chỗ ấy. Thế thì tâm ta và tâm kẻ ấy phù hợp vậy.”
  • Kinh Pháp Hoa: “Hết lòng muốn thấy Phật, chẳng tiếc gì thân mạng, khi Ta và chúng Tăng, đồng đến núi Linh Thứu.”
  • Kinh Đại Bửu Tích: “Phật dạy: Nếu có Bồ Tát đem vui thắng ý, đến chỗ Ta phát khởi ý nghĩ như gặp cha, người kia sẽ được vào trong hàng ngũ Như Lai, như Ta không khác gì.”
  • Kinh Trung A Hàm: “(Văn Ba lị) Thưa Thế Tôn: Nếu pháp này chỉ có Thế Tôn thành tựu, mà Tỳ kheo chẳng đặng thành tựu, hay Tỳ kheo đặng thành tựu mà Tỳ kheo ni chẳng đặng thành tựu; hoặc Tỳ kheo ni đặng thành tựu mà các người tại gia Ưu bà tắc, Ưu bà di và các người còn dục lạc chẳng đặng thành tựu, thời pháp ấy chẳng được hoàn toàn. Nhưng pháp này đức Thế Tôn được thành tựu, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đều được thành tựu. Hơn nữa, những người tại gia nam nữ và các kẻ còn dục lạc thảy đều được thành tựu, cho nên ta tin pháp này là hoàn toàn.”
[/ssredlist]
Kinh Hoa Nghiêm: "Nếu có chúng sanh nào, chưa phát tâm Bồ đề, một khi nghe tên Phật, quyết định thành Bồ đề.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu có chúng sanh nào, chưa phát tâm Bồ đề, một khi nghe tên Phật, quyết định thành Bồ đề.”
[ssredlist]
  • Kinh Tạp A Hàm: “(Văn Ba lị) Vì muốn đến Niết Bàn, tin, vâng các Thánh pháp, nghe, cầu được trí huệ, tinh tấn hay thông suốt.”
  • Kinh Phạm Võng: “Đứng đầu tất cả hạnh là đức tin, vì cội gốc các đức vậy.”
  • Kinh Đại Trang Nghiêm: “Tất cả các công đức, đức tin là sứ mạng; trong các của báu, của đức tin đứng đầu.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Tin là nguồn Đạo, mẹ công đức, nuôi lớn tất cả các pháp lành, dứt trừ lưới nghi, thoát dòng ái, mở chỉ Niết Bàn, đạo Vô thượng; tin lòng trong sạch không dơ bẩn, dứt trừ kiêu mạn gốc cung kính, là của thứ nhất trong kho Pháp, là tay trong sạch lãnh các hạnh; tin hay huệ thí tâm không tham; tin hay vui mừng vào Phật pháp; tin hay thêm lớn trí công đức; tin hay quyết đến cõi Như Lai; tin khiến các căn lành sáng suốt; tin sức bền chắc không thể hư; tin hay dứt hẳn gốc phiền não; tin hay hướng về Phật công đức; tin đối cảnh giới không tham lam, xa lìa các nạn, được không nạn; tin hay vượt khỏi các đường ma, thị hiện đạo Vô thượng giải thoát; tin chẳng phá hư giống công đức; tin hay nuôi lớn cây Bồ đề; tin hay thêm ích trí tối thượng; tin hay thị hiện tất cả Phật.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu có chúng sanh nào, chưa phát tâm Bồ đề, một khi nghe tên Phật, quyết định thành Bồ đề.”
  • Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa: “Nếu người trồng căn lành, nghi thời hoa chẳng nở; lòng tin được trong sạch, hoa nở liền thấy Phật.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Bồ tát đối sanh tử, khi đầu tiên phát tâm, một bề cầu Giác đạo, bền chắc chẳng khá lay. Kia một niệm công đức, sâu rộng không ngằn mé, Như Lai phân biệt nói, trọn kiếp không thể hết.
  • Tất cả tâm chúng sanh đều phân biệt hết, tất cả cõi vi trần hãy còn tính được số; mười phương cõi hư không, mảy lông cũng lường được, Bồ Tát sơ phát tâm, rốt ráo chẳng lường được.
  • Kinh Xuất Sanh Bồ Đề Tâm: “Như đấng Đại Phước rất cao kia, chẳng bằng phần mười sáu Đạo tâm; nếu muốn cầu phước như Tu Di, như cát sông Hằng ở cõi Phật, thảy đều tạo chúa, xây các tháp chẳng bằng Đạo tâm mười sáu phần.”
  • Kinh Đại Bảo Tích: “Công đức Bồ Đề tâm, nếu có chất hẳn hỏi, khắp cả cõi hư không, không thể dung chứa hết.”
[/ssredlist]
Kinh Hoa Nghiêm: "Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới.”
[ssredlist]
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới.”
  • Kinh Vô Lượng Thọ: “Đức Phật bảo Ngài Di Lặc rằng: Nghe danh hiệu Đức Phật kia, vui mừng nhảy nhót, cho đến một niệm. Phải biết người ấy ắt được lợi lớn. Ấy là đủ công đức cao tột.”
  • Đức Phật dạy: Nghe pháp hay chẳng quên, thấy kinh được rất mừng, ấy bạn lành ta vậy.
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Ví như vàng Diêm phù đàn, chỉ thua ngọc Như ý, hơn tất cả các ngọc. Bồ Đề tâm như vàng Diêm phù đàn, cũng như vậy, chỉ thua Nhất thế trí, hơn tất cả các công đức.”
  • Ví như chim Ca lăng tần già, khi còn nằm trong trứng, đã có thế lực mạnh, các loài chim chẳng bằng. Vị Đại Bồ tát cũng như vậy. Còn ở trứng sanh tử, đã phát tâm bồ đề, công đức rất thế lực, hàng Thanh văn Duyên giác làm gì so sánh kịp.
  • Ví như hoa cây Ba Lợi Chất Đa, xông áo một ngày, hoa Chiêm Bồ, hoa Bà Sư, tuy xông ngàn năm, chẳng hay sánh nổi. Hoa Bồ đề tâm cũng lại như vậy, đem công đức xông một ngày, mùi thơm thấu mười phương cõi Phật, hàng Thanh văn Duyên giác, dùng trí vô lậu xông các công đức đến trăm ngàn kiếp cũng chẳng làm sao kịp được.
  • Nghe Pháp khởi lòng tin, vui mừng không nghi ngại, chóng thành Đạo vô thượng; ngang hàng các Như Lai. Tâm trong sạch như đồ đựng nước, hình bóng thường hiển hiện. Nhưng tâm chúng sanh nhơ bẩn như đồ bị nứt, thì chẳng thấy hình bóng Như Lai Pháp Thân. Nếu hay tin, biết trừ kiêu mạn, phát tâm liền được thấy Như Lai, nếu còn dua vậy tâm chẳng sạch, ức kiếp tìm cầu khó gặp thay.
  • Kinh Vô Lượng Thọ: “Kiêu mạn, si tệ, biếng nhác, khó tin nổi pháp này, nhờ đời trước thấy Phật, như vậy ưa nghe Pháp.”
[/ssredlist]

Phật Dược Sư Như Lai là ai?

Phật Dược Sư Như Lai là ai?

Phật Dược Sư(1) Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não vè thân và tâm của chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ đau. Vì Dược Sư Như Lai có bổn nguyện thanh tịnh như vậy nên ánh sáng trong suốt hoàn toàn thanh tịnh như lưu ly vô ngại hiển hiện trên thân của Ngài.

Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử. Vì chúng sinh vô lượng vô biên nên chư Phật cũng thị hiện vô số, tùy theo nghiệp lực, căn tánh của chúng sinh mà các Ngài kiến tạo quốc độ và lập đại nguyện để giáo hóa, đưa chúng sinh thoát khỏi phiền não khổ đau, có đời sống an lạc tự tại. Đức Phật Dược Sư là 1 trong vô số chư Phật có quốc độ và hạnh nguyện riêng của mình.

Dược Sư Như Lai tiếng Phạm gọi là: Bhaisajya-guru Vaidurya-prabharajyah, gọi đủ là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, người ta thường gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, gọi tắt là Dược Sư Phật. Theo Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Kinh chép: “về phương Đông cách thế giới Ta Bà khoảng 10 hằng hà sa Phật độ có cõi Phật tên là Tịnh Lưu Ly, tên của Đức Phật đó là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”.

Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử.
Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử.

Vì sao có tên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai?

Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, nhờ trong khi tu hành Bồ tát đạo phát 12 đại nguyện giải trừ hết thảy bệnh khổ cho chúng sinh, khiến họ đầy đủ căn lành và hướng về giải thoát nên khi thành Phật, Ngài trụ ở thế giới Tịnh lưu ly, trang nghiêm như thế giới Cực lạc, cùng với 2 vị Đại Bồ tát là Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu làm quyến thuộc để giáo hóa chúng sinh.

Bổn nguyện của Dược Sư Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não vè thân và tâm của chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ đau. Vì Dược Sư Như Lai có bổn nguyện thanh tịnh như vậy nên ánh sáng trong suốt hoàn toàn thanh tịnh (Lưu Ly Quang) như lưu ly vô ngại hiển hiện trên thân của Ngài, và quốc độ của Ngài cũng như vậy nên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang.

Cũng như các Đức Phật trong mười phương, Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.

Phật Dược Sư Như Lai là ai? Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là ai?
Phật Dược Sư Như Lai là ai? Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là ai?

12 đại nguyện của Đức Dược Sư Như Lai

Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.
Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.
  1. Nguyện khi Ta thành đạo Bồ-đề, thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, hào quang sáng khắp vô lượng thế giới, khiến các chúng sinh cũng được như Ta.
  2. Nguyện khi Ta thành Phật, trong ngoài sáng chói hơn ánh sáng mặt trời, tự tại làm Phật, khiến các chúng sinh ở chỗ tối tăm đều nhờ ơn khai thị.
  3. Nguyện khi Ta thành Phật, đầy đủ vô lượng phương tiện trí tuệ, làm cho chúng sinh đầy đủ các món thọ dụng nơi thân tâm.
  4. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu các chúng sinh tu theo tà đạo đều xoay về chánh đạo, hàng Nhị thừa thì đều hướng về Nhất thừa.
  5. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh theo giáp pháp của Ta mà tu hành, thì đều được hoàn hảo, dù có phạm giới mà nghe đến tên Ta thì cũng trở thành thanh tịnh giới khỏi phải sa vào ác đạo.
  6. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh nào có thân thể hèn yếu hay xấu sa, đui điếc hay câm ngọng, một phen nghe tên Ta, niệm tên Ta thì được khỏi bệnh, lại được tốt đẹp khôn ngoan
  7. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh không bà con thân thuộc, nghèo thiếu ốm đau, không ai giúp đỡ, mà nghe được tên Ta thì thân tâm yên lành quyến thuộc giúp đỡ cho, đến chứng đạo Bồ-đề.
  8. Nguyện khi Ta thành Phật, các nữ nhân thường bị khinh dể thấp kém, nếu nghe được tên Ta thì bỏ thân nữ nhân, thành tướng trượng phu cho đến chứng quả.
  9. Nguyện khi Ta thành Phật, thì các chúng sinh thoát vòng ma đạo ác kiến, về nơi chánh đạo, tu Bồ-tát hạnh mau chứng đạo Bồ-đề.
  10. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh bị pháp vua trừng trị, trói buộc đánh đập, giam vào ngục tối, cắt xẻ v.v. mà nghe tên Ta thì đều thoát khỏi.
  11. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh bị đói khát, cầu ăn mà tạo nghiệp dữ, nếu nghe tên Ta, chuyên niệm thọ trì, thì Ta trước hết cấp cho món ăn được no đủ, sau nói pháp khiến họ tu hành được hoàn toàn an vui.
  12. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh nghèo không có áo mặc, muỗi mòng chích đốt, nóng lạnh, ngày đêm khổ sở, nếu nghe tên Ta chuyên niệm thọ trì, thì Ta theo tâm mong cầu ấy khiến được đầy đủ y phục hoa hương.

Trì tụng và thờ cúng  Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Tranh tượng của Phật Dược Sư hay được vẽ với tay trái cầm thuốc chữa bệnh và tay phải giữ Ấn thí nguyện. Phật Dược Sư thường được thờ chung với Phật Thích Ca Mâu Ni và A Di Đà, trong đó Phật Dược Sư đứng bên trái còn Phật A Di Đà đứng bên phải Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong kinh Dược Sư, hiện nay chỉ còn bản chữ Hán và chữ Tây Tạng, người ta đọc thấy 12 lời nguyện của Ngài, thệ cứu độ chúng sinh, với sự giúp đỡ của chư Phật, Bồ Tát và 12 vị Hộ Pháp và Thiên vương.

Tại Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản và Việt Nam, Phật Dược Sư được thờ cúng rộng rãi.

Về công phu trì niệm hồng danh Đức Phật Dược Sư, mặc dù Ngài có nhiều danh hiệu nhưng trì niệm hồng danh thường là Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật hay Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Theo sách Dược Sư kinh sám (HT.Trí Quang dịch), phần Niệm Phật ghi rõ niệm Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật. Các hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh và niệm đến nhất tâm. Cũng vậy, khi tu tập pháp môn Dược Sư, hành giả niệm danh hiệu Phật Dược Sư cũng phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh. Có thể niệm thầm, niệm ra tiếng, lần tràng hạt v.v… và niệm cho đến nhất tâm giống như các phương thức niệm Phật A Di Đà.

Về ý nghĩa Thánh hiệu

Dược Sư, nghĩa đen là thầy thuốc chữa bệnh. Lưu ly là một loại ngọc màu xanh trong suốt. Quang là ánh sáng. Lưu ly quang là ánh sáng ngọc lưu ly. Dược Sư Lưu Ly Quang Phật là vị Phật có danh hiệu Thầy thuốc chữa bịnh, ánh sáng như ngọc lưu ly. Phật Dược Sư hiểu biết và thông suốt tất cả y dược của thế gian và xuất thế gian, Ngài có thể chữa trị hết tất cả những thứ bệnh khổ của chúng sinh, những điên đảo vọng tưởng do tham, sân, si phiền não gây ra. Ánh sáng của Phật Dược Sư thật không nghĩ bàn “Trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn, không có chút nhơ bợn, ánh quang minh chói lọi khắp nơi”. Ánh sáng ấy chiếu đến đâu đều phá hết tăm tối vô minh của chúng sinh, đem lợi lạc và diệt tất cả những bệnh khổ thân tâm của chúng sinh, khiến cho họ xa lìa mê vọng mà hướng đến giác ngộ, giải thoát.

Về công năng của việc trì niệm danh hiệu Phật Dược Sư, có thể nói là không thể nghĩ bàn. Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, đại dụng của danh hiệu Phật Dược Sư, điển hình có năm vấn đề sau:

Diệt sự tham lam mà phát tâm bố thí: Nhờ trì niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà mở rộng tấm lòng, không còn tham lam, ích kỷ chỉ lo tích cóp cho riêng mình đồng thời luôn chia sẻ, ca ngợi và thực hành bố thí.

Công năng của việc trì niệm danh hiệu Phật Dược Sư, có thể nói là không thể nghĩ bàn.

Diệt sự phạm tội mà được sự giữ giới: Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.

Diệt sự ganh ghét mà được sự giải thoát: Do nghiệp lực ganh ghét, đố kỵ người khác nên chịu quả báo hèn hạ, thống khổ. Niệm Phật Dược Sư sẽ khiến cho hành giả phát tâm tu học, diệt trừ khổ não, thành tựu giải thoát.

Diệt sự hại nhau mà được sự thương nhau: Những ý niệm oán kết, thù hận dẫn đến hành động tiêu diệt lẫn nhau, nhờ niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà được hóa giải. Không những không còn làm hại nhau mà còn hiểu biết, thương yêu và tôn trọng lẫn nhau.

Được sinh Cực lạc hay các sự chuyển sinh khác: Đối với những hành giả phát tâm niệm Phật A Di Đà, cầu vãng sinh Cực lạc thì niệm Phật Dược Sư là một sự trợ duyên rất quan trọng. Chư Phật, các Đại Bồ tát trong pháp hội Dược Sư luôn trợ hóa cùng Phật A Di Đà, tiếp dẫn chúng sinh về Cực lạc. Ngoài ra, nhờ công đức tu tập Thánh hiệu Phật Dược Sư mà hành giả được đầy đủ phước báo, sinh về các thế giới an lành.

Ngoài ra, nhờ năng lực bổn nguyện của Phật Dược Sư, những chúng sinh thọ trì danh hiệu Ngài được tiêu trừ tất cả bệnh khổ và thành tựu mọi sở nguyện, sở cầu.

Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.
Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.

Bảy tôn tướng của Đức Dược Sư Như Lai

Đức Phật Dược Sư là một đấng giác ngộ có lòng bi mẫn vô biên đối với hết thảy chúng sinh. Ngài hộ trì chúng sinh tránh khỏi những đớn đau về tâm hồn và thể xác, khỏi những hiểm nguy và chướng ngại, và giúp họ trừ diệt ba độc tố – tham trước, sân hận và si mê – cội nguồn của mọi bệnh tật và nguy hại. Ngài là đấng Y vương Toàn giác.

Theo các Kinh điển Phật Giáo thì Đức Dược Sư Như Lai có 7 tôn tượng. Có thuyết cho là mỗi vị có mỗi đại nguyện và ứng thân riêng từng vị. Có thuyết cho là các Ngài từ nhất thể là Đức Dược Sư Như Lai mà phân thân ứng hiện (ứng thân), danh hiệu của các Ngài là: Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai; Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai; Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai; Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai; Pháp Hải Lôi Âm Như Lai; Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai; Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai
Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai
Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai
Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai
Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai
Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai
Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai;
Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai
Pháp Hải Lôi Âm Như Lai
Pháp Hải Lôi Âm Như Lai
Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai
Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai

Lược sử tóm tắt về cuộc đời Đức Phật – Thích Ca Mâu Ni

Đức Phật là aiLời người dịch bài viết

Bài viết này được trích dịch từ một tập sách nhỏ có tựa đề “101 điều về Giáo lý” (Dharma 101) – là những câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình tu học của người Tây Phương.

Những câu hỏi như Đức Phật là ai? Đức Phật ở đâu?Niềm tin quan trọng ra sao?tại sao chúng ta phải cúi chào? Bạn là ai? Nghiệp là gì? ….có thể nghe quen thuộc đối với nhiều người nhưng câu trả lời có thể không quen thuộc. Điều này có thể do có sự khác biệt về quan điểm hay về sự hiểu biết giữa các vị Thầy, hoặc sự khác biệt giữa các truyền thống. Ba Thừa chính yếu (Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa) của Phật giáo tại Á Châu có sự khác nhau về lý tưởng, pháp tu và cách trình bày. Ví dụ những câu hỏi về sự giác ngộ có thể có câu trả lời của một vị Thầy Đại Thừa ở Đông Á khác với câu trả lời của một đạo sư Kim Cang Thừa của Tây Tạng.

Một câu hỏi về ý niệm của tánh không Phật giáo sẽ có hai câu giải đáp khác nhau bởi một vị Sư Nam Tông ở Đông Nam Á và một vi Thầy bên Đại Thừa. Nhưng ở Tây Phương, nơi các tông phái của ba truyền thống này đang phân phát bên cạnh nhau, chúng ta nhận cả ba thừa đều gợi lên những câu hỏi chung và những giáo lý căn bản cũng ứng dụng cho tất cả. Bản dịch này được thực hiện để tưởng nhớ 10 năm sau ngày mất của người bạn đạo, đó là đạo hữu Rick Fields (1942-1999) vốn là một biên tập viên của tạp chí Tricycle (Tam Thừa) và tạp chí Yoga Journal.

Dịch giả liên lạc với ông Rick Fields từ năm 1996 đến lúc ông qua đời vào năm 1999 vì bệnh ung thư phổi. Ông Rick Fields đã gởi tặng cho người dịch nhiều tài liệu về Phật giáo thế giới, trong đó có tập sách mà chính ông là tác giả, đó là quyển “Lịch sử Phật giáo Hoa Kỳ” (How the Swans came to the Lake, A Narrative History of Buddhism in America) (Shambhala, 1981), trong đó “Đức Phật là ai ?” cũng được trích dịch từ tập sách dày 450 trang này.

Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm

Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm(1) (sau này là Đức Phật) ra đời năm 624 trước Tây Lịch tại một vương quốc nhỏ ngay dưới chân rặng núi Hy Mã Lạp Sơn. Cha của Ngài là vua của bộ tộc Thích Ca (Skakya). Mười hai năm trước khi ra đời, các tu sĩ Ấn Giáo đã tiên tri rằng Ngài sẽ là một vị vua vĩ đại hoặc sẽ trở thành một nhà hiền triết lừng danh của thế giới loài người. Vì không muốn Ngài trở thành tu sĩ, cha của Ngài đã giữ Ngài bên trong cung điện. 

Đức Phật là ai - Lược sử tóm tắt về cuộc đời Đức Phật - Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật là ai – Lược sử tóm tắt về cuộc đời Đức Phật – Thích Ca Mâu Ni

Thái tử Tất Đạt Đa lớn lên trong sự xa hoa của một bậc vua chúa, không được phép nhìn thấy thế giới bên ngoài, được các vũ nữ giúp vui, và được các tu sĩ Bà La Môn dạy học. Thái tử còn học cưỡi ngựa, bắn cung, đánh kiếm, đánh vật, bơi lội… Khi đến tuổi trưởng thành, Thái tử thành hôn với công chúa Gia Du Đà La và có một con trai.

Ngày nay chúng ta có thể nói là Ngài là người có tất cả mọi thứ trên đời, nhưng Ngài cảm thấy mình thiếu một cái gì đó, và chính điều đó đã lôi kéo Ngài ra khỏi những bức tường của cung điện. Ở ngoài đó, trên những đường phố của kinh thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài đã trông thấy ba cảnh tượng thông thường nhất đối với mọi người khác: một người bị bệnh, một người già yếu, và một xác chết đang được người ta đưa đi hỏa thiêu. Ngài chưa bao giờ được sửa soạn để chứng kiến những cảnh bi thảm như thế này, cho đến khi người đánh xe nói với Ngài rằng tất cả mọi người đều phải chịu sự già yếu, bệnh tật và chết chóc, Ngài cảm thấy mình không thể nào an tâm sống trong sự xa hoa như trước nữa. Trên đường trở về cung điện, Ngài trông thấy một tu sĩ đang bước đi một cách thong dong trên đường phố, và Ngài đã quyết định rời khỏi cung điện để đi tìm giải pháp cho vấn đề đau khổ của cuộc đời.

Trong đêm khuya Ngài lặng lẽ từ giã vợ con mà không đánh thức họ, rồi phi ngựa đến một khu rừng, nơi đó Ngài đã dùng gươm cắt tóc và thay bộ trang phục vua chúa bằng một chiếc áo tu sĩ đơn sơ. Đó là năm Ngài 29 tuổi, (595 BC).

Với hành vi này Thái tử Tất Đạt Đa đã gia nhập vào hạng người từ bỏ xã hội Ấn Độ để tìm giải thoát. Thái tử đã tìm đến học hỏi với nhiều vị thầy khác nhau, từ những vị theo chủ nghĩa duy vật, cho đếnnhững người theo chủ nghĩa lý tưởng và phái ngụy biện. Từ rừng núi đến thị thành, đâu đâu cũng sôi nổi với những cuộc tranh luận và triết lý. Sau cùng Thái tử đã theo học hai vị Thầy nổi tiếng, vị thứ nhất là Đạo Sư Alara-Kalama, thuộc phái Samkhya (phái Số luận), đang có ba trăm đệ tử theo tu học.

Với vị này, Thái tử đã học và đắc ngũ thần thông, đạt đến bậc thiền Vô Sở Hữu Xứ. Nhưng sau đó dù Đạo SưArada Kalama mời Ngài ở lại để dạy đạo như một người đồng đẳng với ông, nhưng Ngài thấy đây không phải là pháp giải thoát tối hậu, nên Ngài đã ra đi. Ngài đến học với vị thầy thứ hai là Đạo SưUddaka Ramaputta (Uất-đầu-lam-phất), người đang có 700 đệ-tử theo học. Sau vài ngày tu học, Ngài đã chứng được tầng thiền Phi-tưởng phi-phi-tưởng. Nhưng đây không phải là con đường giải thoát sinh tử khổ đau, và Tất Đạt Đa cũng đã quyết định từ giả vị thầy này.

Trong sáu năm, Thái tử Tất Đạt Đa cùng với năm người bạn Kiều Trần Như cùng tu khổ hạnh và thiền định, chỉ ăn một hạt cơm mỗi ngày, lấy tâm trí thi đua với thể xác, và chỉ còn da bọc xương. Khi Ngài quyết định dùng nhiều thực phẩm hơn và không áp dụng pháp tu khổ hạnh nữa, năm người bạn kia đã từ bỏ Ngài.

Ngài đến một ngôi làng để khất thực, ở đó một cô gái tên là Sujata mời Ngài dùng một bát cháo sữa với mật ong. Khi sức khỏe phục hồi, Ngài xuống tắm dưới sông Nairanjana (Ni Liên Thiền) rồi ngồi thiền dưới cội Bồ Đề, trên một tấm tọa cụ làm bằng cỏ kusha. Ngài ngồi đó sau khi đã nghe tất cả các vị thầy, học tất cả những kinh sách và thực hành tất cả pháp môn, bây giờ không có gì vướng bận, không có ai để nương tựa, không có nơi nào để đi nữa. Ngài thiền tọa bất động và cương quyết như một quả núi, cho đến bảy ngày sau, Ngài mở mắt ra, trông thấy sao mai vừa mọc trên bầu trời và Ngài hiểu ra rằng mình đã tìm ra cái chưa bao giờ mất, dù là đối với Ngài hay bất cứ một người nào khác trên thế gian này. Vì vậy không có gì để chứng đắc, không có gì để tìm kiếm nữa.

Ngài nói: “Điều kỳ diệu nhất là sự giác ngộ này vốn là chân tánh của chúng sanh, nhưng họ lại không an lạc vì thiếu nó”. Vậy Thái Tử Tất Đạt Đa đã giác ngộ vào năm ba mươi lăm tuổi (589 BC) và trở thành một vị Phật, tức đấng giác ngộ, được tôn vinh là Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), tức là nhà hiền triết thuộc bộ tộc Thích Ca.

Trong bảy tuần lễ sau đó, Đức Phật thọ hưởng pháp lạc tự tại giải thoát của chính mình. Lúc đầu Ngài không có ý định nói về sự chứng ngộ của mình, vì Ngài thấy đây là điều khó hiểu đối với phần lớn loài người, nhưng khi Phạm Thiên (Brahma), vị vua của ba ngàn thế giới, thỉnh cầu Ngài thuyết pháp, vì cũng có những người :’’mắt chỉ bị mờ một chút mà thôi”. Đức Thế Tôn đã chấp thuận.

Hai vị thầy của Đức Phật, Udaka và Ramaputra đều đã qua đời trước đó mấy ngày, vì vậy Ngài đi tìm năm người bạn đồng tu khổ hạnh mà trước kia đã rời bỏ mình. Khi thấy Ngài đi tới Vườn Nai ở thành Ba La Nại (Benares), họ làm lơ với Ngài, vì Ngài đã không tiếp tục thực hành khổ hạnh với họ. Nhưng rồi họ thấy có một cái gì tỏa sáng trong sự hiện diện của Ngài, họ đứng lên, sửa soạn chỗ ngồi và lấy nước cho Ngài rửa chân, rồi ngồi xuống nghe Ngài thuyết pháp. Đó là bài pháp đầu tiên của Đức Phật. Đức Phật đã nói bài pháp Tứ Diệu Đế cho các vị này.

Trong Tứ Diệu Đế của Đức Phật, chân lý thứ nhất, Khổ đế, nói rằng bản chất của cuộc đời này là đau khổ và không thỏa mãn, ngay cả những lúc hạnh phúc cũng có mầm móng của khổ đau nếu chúng ta bám giữ vào chúng, hay khi chúng đã đi vào ký ức, chúng vẫn bóp méo hiện tại vì tâm trí của chúng tacố gắng dựng lại quá khứ một cách tuyệt vọng. Giáo lý của Đức Phật dựa trên sự quan sát trực tiếp đời sống, và là lời phê bình cấp tiến đối với lối suy nghĩ mơ mộng cũng như vô số những lối thoát ly, như chủ nghĩa không tưởng chính trị, môn tâm lý trị liệu, chủ nghĩa hưởng lạc, hay thuyết cứu rỗi hữu thầncủa thần bí học, đây là điểm chính yếu phân biệt giữa Phật giáo với đa số những tôn giáo khác trên thế giới.

Khổ là chân lý thứ nhất và là nền móng để hiểu một cách trọn vẹn chứ không phải để trốn tránh hay để giải thích. Kinh nghiêm về sự khổ, về sự hoạt động của tâm trí, đưa đến chân lý thứ hai là nguyên nhân của Khổ (Tập Đế), thường được mô tả là tham muốn lạc thú, nhưng cũng được giải thích một cách căn bản hơn là bám giữ vào sự sống hoặc sự không hiện hữu, tức chấp có và chấp không.

Việc nghiên cứu tính chất của sự tham muốn này dẫn đến tâm điểm của chân lý thứ hai, đó là ý tưởng tự ngã hay cái ta, với tất cả những điều mong cầu và những điều lo sợ của nó, và chỉ khi nào hiểu đúng về tự ngã này và thấy nó không có tự tính, không có thật một cách vĩnh cữu), thì mới có thể hiểu chân lý thứ ba, sự diệt khổ (Diệt Đế).

Năm tu sĩ nghe bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật ở Vườn Nai trở thành hạt nhân của cộng đồng các tu sĩ Phật giáo, tức là Tăng đoàn (Sangha), là những người đi theo con đường mà Đức Phật đã trình bày trong chân lý thứ tư, con đường đưa đến sự diệt khổ (Đạo Đế), đó là Bát Chánh Đạo, chân chánh trong tám phương diện: ý kiến, ý nghĩ, lời nói, hành vi, nghề nghiệp, nỗ lực, ý thức và thiền định.

Các tu sĩ Phật giáo, tức Tỳ kheo (Bikkhu), sống rất đơn giản, chỉ có một bình bát, một cái áo, một cây kim, một cái lọc nước, một con dao cạo đầu, đó là dấu hiệu của sự ly gia cắt ái. Họ đi khắp miền đông bắc Ấn Độ, hành thiền một mình hay trong những nhóm nhỏ và khất thực.

Tuy nhiên giáo lý của Đức Phật không chỉ dành cho đoàn thể các tu sĩ, Ngài đã dạy họ truyền bá giáo lýcho mọi người “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường, đi khắp nơi vì lợi lạc, vì hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người”.

Trong bốn mươi lăm năm, Đức Phật đã đi qua những thôn làng và những thành phố của Ấn Độ, nói bằng ngôn ngữ phổ thông, dùng những lối nói giản dị mà ai cũng có thể hiểu. Ngài dạy dân làng thực hành chánh niệm trong khi kéo nước giếng, và khi một bà mẹ đau khổ ôm xác một đứa con đến xin Ngài cứu cho nó sống lại, Ngài đã không làm một phép lạ mà bảo bà ta mang về cho Ngài một nắm hạt cải của một nhà nào đó không có ai chết trước đó. Sau khi đi tìm, bà ta trở về tay không, nhưng hiểu ra một sự thật rằng cái chết đến với tất cả mọi người.

Khi được nghe nói đến Đức Phật, từ phú gia đến các bậc vua chúa đều phát tâm cúng dường những khu vườn ngự uyển để xây dựng tinh xá. Đức Phật tiếp nhận những khu vườn này, nhưng Ngài vẫn tiếp tục sống như mình đã từng sống từ năm hai mươi chín tuổi: một tu sĩ khất thực và thiền định dưới gốc cây. Bây giờ chỉ có một điều khác là gần như mỗi ngày sau khi thọ trai vào giữa trưa Ngài thuyết pháp. Không có một bài pháp nào được ghi chép lại trong khi Ngài còn tại thế.

Năm 544 (Trước Tây lịch), Đức Phật nhập Niết Bàn tại thành Câu Thi Na (Kusinagar) ở tuổi tám mươi sau khi ăn một bữa ăn có nấm. Trong số những người tu tập bên cạnh Đức Phật có những người đau buồn. Đức Phật nằm giữa hai cây Sala, đầu hướng về phương bắc, mình nghiêng về bên phải, bàn tay phải để ngửa lót dưới mặt, tay trái để xuôi trên hông trái, chân trái nằm dài trên chân phải, hơi thở nhẹ nhàng đều đặn.

Ngài nhắc với các đệ tử rằng mọi vật đều vô thường và khuyên họ hãy nương tựa vào chính mình và vào giáo pháp. Ngài hỏi có ai muốn hỏi điều gì lần cuối cùng thì hỏi. Sau đó Ngài nói lời di chúc cuối cùng: “Này các đệ tử, hãy nghe Như Lai nói đây: Vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt. Các thầy hãy tinh tấn lên để đạt tới giải thoát”.

Vào mùa mưa đầu tiên sau khi Đức Phật nhập diệt, năm trăm đệ tử Tỳ kheo hội họp tại một hang núigần thành Vương Xá để ôn tụng lại những lời dạy của Ngài. Tại cuộc kiết tập Kinh Điển lần thứ nhất này, Tôn giả A Nan, vốn là thị giả của Đức Phật, được mời nói lại tất cả những bài thuyết pháp của Phật mà mình đã nghe. 

Tôn giả Ưu Ba Ly ôn tụng lại các giới điều của tu sĩ, còn Ngài Đại Ca Diếp thì nhắc lại Luận Tạng, gồm những điều nói về tâm lý và siêu hình học Phật Giáo. Ba loại sưu tập này được viết trên lá bối vài thế kỷ sau đó và được gọi là “Tripitaka” tức là Tam Tạng Kinh Điển, đã trở thành những giáo lý cốt lõi cho tất cả những giáo điển nhà Phật ngày nay.

Dịch giả Thích Nguyên Tạng

Nói thêm về Đức Phật

Đức Phật trong lịch sử, tức Phật Thích Ca Mâu Ni, hay Đức Phật Cồ Đàm (Gautama), sống cách đây khoảng 2.500 năm tại Ấn Độ. Tuy nhiên, Ngài không phải là đức Phật đầu tiên, và sẽ không phải là đức Phật cuối cùng. Ngài thuyết giảng rằng trong thời đại này (eon – một khoảng thời gian rất dài, có thể so sánh với thời gian từ lúc hình thành của vũ trụ mà chúng ta biết), sẽ có 1.000 vị Phật toàn giác thuyết giảng về Phật giáo (sau khi Phật giáo đã bị hoàn toàn lãng quên). Theo các kinh sách Phật giáo, Đức Phật thứ nhất, thứ hai, thứ ba là Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda), Câu Na Hàm Mâu Ni Phật (Kanakamuni), Ca Diếp Phật (Kashyapa), sau đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), Đức Phật trong lịch sử sống cách đây khoảng 2.500 năm, và Đức Phật tiếp theo sẽ là Đức Phật Di Lặc (Maitreya).

Một vị Phật khác với “Chúa trời”, “thần linh” hay “đấng tối cao”… theo cách hiểu của các tôn giáo Ki tô, Do Thái, Hồi giáo và nhiều tôn giáo khác ở chỗ, Đức Phật không phải là đấng sáng tạo ra vũ trụ, không phải là đấng toàn năng có thể ban phúc giáng họa cho con người. Trái lại, Phật là người đã giác ngộ, thấu đạt được sự thật – chân lý – và mang chân lý đó truyền giảng lại cho những người khác, giúp chúng sinh nhờ thực hành tu tập, trưởng dưỡng tâm linh mà cũng thành tựu giác ngộ được như vậy. Nhờ năng lực giác ngộ, một vị Phật có hiểu biết toàn tri, thấu đạt vạn pháp và có thể bằng cách đó đem lại lợi ích to lớn cho các chúng sinh khác. Như vậy, mọi chúng sinh đều tự chủ về cuộc sống cũng như khả năng thành tựu giác ngộ của bản thân, đều có thể đạt đến trạng thái Phật quả (mặc dù có thể phải mất nhiều kiếp). Đức Phật đã chỉ ra con đường đến với chân lý, nhưng không ai khác ngoài mỗi người phải tự mình tiến bước trên hành trình tâm linh của chính mình.

Mỗi người là chủ nhân của chính mình

Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường ít có thời gian để sống trọn vẹn cho chính mình và cho người thân của mình.

Chúng ta nếu không bị những hình ảnh quá khứ lôi kéo thì cũng bị những dự tính, nhũng lo lắng về tương lai dắt dẫn chúng ta đi. Đôi lúc chúng ta đánh mất chính mình, không biết là mình đang nghĩ gì, nói gì và làm gì nữa. Bi kịch của con người thời đại chúng ta là ở chỗ: chúng ta sống mà không thật sự sống và càng ngày chúng ta càng đi xa dần sự sống. Chúng ta đánh mất phương hướng, đánh mất chính mình mà không hay.

Chúng ta giao phó thân mạng mình cho hoàn cảnh bên ngoài quyết định, mặc cho tương lai như thế nào cũng được. Chính vì thế mà chúng ta cần phải thức tỉnh trở lại để nhìn lại chính mình và hoàn cảnh của mình để tìm ra con đường cho chính mình và con người của thời đại chúng ta. Chúng ta phải nắm lấy vận mạng của mình bằng chính trí tuệ của chúng ta. Như Đức Phật đã dạy: “Các ngươi hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi và cùng thắp đuốc lên để soi rọi cho nhau.”

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Sở dĩ chúng ta đánh mất chính mình bởi vì hàng ngày chúng ta quá bận rộn với nhiều công việc và nhiều lo lắng.Vì muốn cho đời sống vật chất có đầy đủ tiện nghi và mức sống sung túc nên chúng ta đã không ngần ngại lao mình vào công việc, tiền tài và danh vọng lôi kéo cho đến lúc chúng ta không có khả năng dừng lại được nữa. Đến một ngày nào đó gia đình chúng ta không có hạnh phúc, con cái của ta hay người thân của chúng ta lâm vào tình trạng khủng hoảng và cô đơn, lúc đó chúng ta mới thấy được sự thật vô cùng quan trọng mà trước đây ta không thấy là: tiền tài và những tiện nghi vật chất xa hoa không thể giải quyết mọi vấn đề, đôi khi chính vì những thứ đó mà chúng ta đánh mất chính mình, đánh mất những người thân thương của mình.

Hẳn nhiên là sống thì chúng ta cần phải làm việc, làm việc là một phần của sự sống, nhưng chúng ta cũng phải học cách làm việc như thế nào mà ta vẫn giữ được sự an lạc, sự tự do của mình mới được. Chúng ta phải biết sắp xếp như thế nào để sau thời gian làm việc căng thẳng tại công xưởng, tại sở làm ta vẫn có đủ thời gian để đi bách bộ, bước từng bước chân thanh thản, ngắm từng cánh hoa nở, nhìn bầu trời xanh ngắt, nghe tiếng chim hót, chơi với trẻ thơ và tiếp xúc với những gì mầu nhiệm, tươi đẹp đang hiện hữu quanh ta. Nghĩa là chúng ta vẫn có được sự an lạc và tự do, vẫn giữ được sự hồn nhiên, vui tươi và hạnh phúc của mình. Đây là điều vô cùng cần thiết mà bạn cần phải lưu tâm. Nếu không bạn sẽ đánh mất mình lúc nào mà không hay.

Để có được một đời sống an lạc thật sự, bạn cần phải biết tu tập để có thể làm chủ chính mình và không để hoàn cảnh bên ngoài lôi kéo. Hơn thế nữa, Đức Phật dạy chúng ta nên sống một nếp sống thiểu dục và tri túc, nghĩa là sống đơn giản, ít tham muốn và biết vừa lòng với những gì mà chúng ta đang có. Một đời sống đơn giản, tiêu thụ ít nhưng có một đời sống tâm linh phong phú để có thể chế tác ra nguồn hạnh phúc chân thật cho chính mình và những người xung quanh.

Để làm được điều này bạn cần thực tập hơi thở, thực tập mỉm cười và biết dừng lại những mong muốn không cần thiết, những sự đi hoang trong tâm hồn, bạn mới thật sự có được một đời sống an lạc, tự do được. Chúng ta phải cùng nhắc nhở nhau nhất quyết không để cho nếp sống xa  hoa phóng túng làm lung lạc mình và cũng tìm cách giúp mọi người thấy được sự nguy hại của tiền tài vật chất, của ngũ dục có thể làm cho tinh thần ta không sáng suốt, cơ thể ta bạc nhược và đời sống của ta không có được hạnh phúc.

Cuộc đời của chúng ta là do chính chúng ta quyết định. Khổ đau hay hạnh phúc, an lạc hay không an lạc đều do chúng ta định đoạt. Chính chúng ta là chủ nhân của cuộc đời mình. Vậy muốn có một đời sống hạnh phúc chân thật, bạn phải biết lựa chọn môi trường lành mạnh để thân cận sinh hoạt và tu tập. Nơi đó bạn có cơ hội để học hỏi và thực hành theo những điều hay lẽ đẹp, những kinh nghiệm quý báu trong cuộc sống từ thầy, từ bạn, từ những người đi trước. Mọi người đều đến với nhau trong tình thân ái, dưới ánh sáng chiếu soi của Tam Bảo, cùng nhau ngồi thiền, tụng kinh, đọc sách hay đi thiền hành trong chánh niệm. Những giờ phút như thế sẽ đem đến cho chúng ta rất nhiều chất liệu bổ dưỡng và trị liệu.

Cuộc đời tuy có nhiều khổ đau nhưng cuộc đời cũng có nhiều điều mầu nhiệm. Chỉ cần chúng ta mở lòng ra để tiếp nhận thì bao nhiêu phép lạ sẽ hiển bày. Khổ đau hay hạnh phúc đều do nhận thức và cách sống của chúng ta. Nếu chúng ta biết sống trọn vẹn những giây phút của mình trong tỉnh thức thì niềm vui có mặt. Ngược lại, nếu chúng ta sống  trong tham đắm, trong thất niệm, mê mờ thì khổ đau sẽ đến với chúng ta.

Vậy sống như thế nào là do chúng ta quyết định và lựa chọn. Thầy, bạn hay cha mẹ, anh chị em chỉ là những người giúp đỡ, hỗ trợ cho ta một phần mà thôi. Chính chúng ta là người thừa tự “nghiệp” của chúng ta. Chúng ta là người chịu trách nhiệm cuộc đời mình, là chủ nhân của chính mình và cũng là người họa sĩ vẽ ra đời sống của mình chứ không ai khác. Cho nên bạn cần cẩn trọng trong mỗi hành động, lời nói và suy tư của mình.

Hãy là nguồn an vui, nguồn hạnh phúc cho chính mình và những người xung quanh. 

Vì sao con người cần phải yêu thương nhau?

Ái là sự trìu mến, luyến thương nhau mà không muốn xa rời. Người nữ có chất “ái” nhiều hơn người nam gấp trăm lần, người nam thì có “dục” ham muốn mạnh mẽ không phải chỉ riêng người mình yêu mà có thể ham muốn nhiều người.

Audio

Khi hai chữ này được ghép lại thì trong tình yêu sẽ giữ được chất lửa lâu dài, nếu tách rời chúng ra thì có nguy cơ không thủy chung trong tình yêu. 

Có một con cá nhìn thấy miếng mồi ngon liền nhanh chóng đớp lấy mà không cần đắn đo suy nghĩ, miếng mồi chưa kịp nuốt vào bụng thì cổ họng của nó đã rỉ máu bởi lưỡi câu oan nghiệt, con cá càng vùng vẫy bao nhiêu thì lại càng đau đớn bấy nhiêu. Con mồi có thể làm bằng con giun hay một loại côn trùng nào đó nhưng con cá lại tưởng miếng mồi ngon nên đớp lấy không ngần ngại và bị mắc câu. Con người được sinh ra bởi luyến ái sắc dục và cũng chết bởi sắc dục là lẽ thường tình của thế gian. Cứ như thế mà con người chết đi sống lại triền miên trong dòng lục đạo luân hồi không có ngày thôi dứt.

Người xuất gia đi ngược lại với dòng đời nên phải cố gắng xa lìa ái dục để thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát. Người thế gian tham thì người xuất gia phải không tham, người thế gian mê thì người xuất gia phải có trí tuệ, như vậy mới có thể vượt qua những gì người đời yêu thích. Ái dục như một lưới sắt nhốt con người vào đó nên ái dục là một thứ ngục tù kiên cố hay cái cần câu có miếng mồi thơm ngon nhưng ăn vào thì mắc nghẹn, nuốt không được và tiêu hóa cũng không xong. 

Nếu vì tiếng sét ái tình mà chúng ta biết yêu quá sớm trước khi có nghề nghiệp và việc làm ổn định do nhận thức không đúng đắn thì coi chừng vỡ mộng. Tiếng sét ái tình có thể làm chúng ta đam mê men say tình ái, nhất là mối tình đầu. Ta sẽ choáng váng, sẽ đau thương, sẽ mất mát, sẽ hụt hẫng, sẽ chới với, chơi vơi, lạc lõng giữa dòng đời như mất đi một cái gì đó rất thiêng liêng, cao quý. Chúng ta phải tự gượng dậy và đứng lên để những đam mê buổi đầu không làm cho ta gục ngã, nếu không ta sẽ mất ăn, mất ngủ và không học hành gì được. Ta cứ ngơ ngơ, ngáo ngáo, cho đến xanh xao, ốm o, gầy mòn, bỏ bê hết tất cả mọi việc. 

Người nam hấp dẫn người nữ bởi sự nam tính, bản lĩnh, rộng lượng, mạnh mẽ và trí thông minh. Người nữ hấp dẫn người nam bởi sự nữ tính, dịu dàng, kiên nhẫn, chịu đựng và lòng bao dung, cùng các yếu tố khác nữa. Luật hấp dẫn như một quy luật tự nhiên của vũ trụ, như vạn vật phải nương vào nhau mà sống.

Chúng ta là nam hay nữ đều có chung một nỗi lo là sợ già, sợ xấu, sợ không người thương, sợ cô đơn, sợ chết và đủ thứ nỗi sợ khác. Do sợ cô đơn nên chúng ta muốn tìm kiếm nhau để khỏa lấp sự trống trải đang dày vò tâm trí mình. Nhiều người cũng tưởng tượng theo kiểu như vậy; nếu xuất gia sau này già nua, không gia đình người thân, khi bệnh tật thì ai sẽ chăm sóc, giúp đỡ. Con người ta thường sợ bị miệng đời chê trách “cô mà đi tu thì sau này già, bệnh, khổ thì ai lo cho”.  

Vì không thấy rõ sự thật về thân nên chúng ta có khuynh hướng chiều chuộng thân nhiều quá. Do phải ăn uống để bồi bổ thân này nên phải giết hại nhiều con vật, đến khi bệnh đau thì than trời trách đất đủ thứ. Chúng ta đừng quá luyến ái và tham đắm vào thân vì xác thân này trước sau gì cũng già-bệnh-chết, không một ai tránh khỏi điều này. Một ngày trôi qua là ta đang gần kề với thần chết, thời gian giết chết thân này trong từng sát na sinh diệt nên nếu đam mê thân thì ta sẽ khổ khi nó không còn.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Con người càng đẹp bao nhiêu thì càng khổ bấy nhiêu vì cứ muốn gìn giữ nó mãi mà có giữ được đâu. Khi tâm ta đã không luyến ái, tham chấp thì thân có bệnh tật hay khỏe mạnh, đẹp hay xấu cũng không làm cho ta đau lòng. Chúng ta đừng tưởng ai đẹp mới sinh luyến ái, những người xấu lại càng luyến ái hơn vì muốn người khác yêu thương mình. Ta xấu mà người khen đẹp thì lỗ mũi lại phình to ra và chúng ta không thể sống tách rời nhau vì sợ cô đơn, buồn tủi nên mới tìm đến nhau vì đang cần có nhau. 

Điên dại và cuồng si nhất vẫn là thứ tình yêu đơn phương mù quáng. Không gì đau khổ hơn việc mình yêu người mà người không đáp lại, người đi yêu người khác và người khác cũng chẳng yêu người. Đúng là theo tình tình phụ, phụ tình tình theo, sự đời có nhiều cái tréo ngoe như vậy. Bạn bè cùng chung một lớp nhưng hai người bạn trai lại đi thương cùng một người bạn gái, vậy hẳn nhiên là có người được, kẻ mất.

Khi vướng vào vòng này con người hầu như mất hết năng lực sống, không còn thiết tha việc gì, chỉ nằm vùi vật mê man trong men say tình ái. Chúng ta hãy nên thận trọng, dè dặt trong tình yêu của buổi ban đầu khi còn trẻ. Rất nhiều người bị khủng hoảng tinh thần, mất hết niềm tin trong cuộc sống nên đã lao vào các cuộc vui chơi trác táng suốt sáng thâu đêm để trả thù đời. Càng như thế thì ta càng tự dìm chết đời mình trong hoan lạc, vô bổ và chắc chắn trong nay mai ta sẽ rơi vào vòng vây tội lỗi.

Nếu trong quan hệ tình yêu lứa đôi mà một trong hai người dính vào vòng si mê nghiện ngập thì thường xuyên làm đau khổ cho nhau. Sau một thời gian tận tụy hy sinh để thuyết phục người bạn đời của mình dứt khoát chừa bỏ nhưng không có hiệu quả thì ta phải biết mối tình của mình sẽ mang đến nhiều phiền muộn, khổ đau vô cùng cực.

Ai đã từng dính vào vòng này cũng đều phải bỏ cuộc nên phải mạnh dạn chia tay, cắt đứt quan hệ thì họa may mới còn con đường sống; bằng không thì anh chích xì ke, em bán ma túy, hai người cùng đi vào con đường tội lỗi và cuối cùng vướng vào vòng tù tội. Khi hai người yêu nhau mà không có cùng quan điểm, chí hướng, tức là không có sự đồng cảm với nhau, không biết lắng nghe, không biết bao dung và độ lượng thì những nỗi khổ, niềm đau sẽ có mặt làm cho tình yêu rạn nứt và cuối cùng dẫn đến chia tay. 

Đời sống lứa đôi lúc nào cũng đề cao hạnh thủy chung vì đó là phẩm chất cao đẹp của tình yêu và hôn nhân. Nhưng vì sao người ta lại ngoại tình, không giữ được sự thủy chung rồi tạo nghiệp tà dâm, chỉ vì lòng tham muốn quá mạnh mẽ nên có thễ dẫn đến tan nhà nát cửa. Có thể chúng ta sẽ không thấy hạnh phúc khi sống với người bạn đời quá tham lam, ích kỷ vì họ sợ mất ta, thành ra ta càng bị trói chặt vào đó như con tằm làm kén; cho đến khi tức nước vỡ bờ, hạnh phúc gia đình tan vỡ vì chuyện không đâu, càng quá yêu nhau, sợ mất nhau thì càng vô tình làm khổ cho nhau.

Nguyên nhân khác của ngoại tình là sự nhàm chán, giống như ăn cơm hoài thì cũng thèm phở, thèm hủ tíu hay ít nhất cũng là bún riêu hoặc bánh canh. Hôn nhân như một bộ đồ, khi mặc hoài sẽ sờn rách đi nên phải mua bộ đồ mới hay phải thay đổi quần áo thường xuyên. Vì sao chúng ta lúc nào cũng muốn được yêu thương trong sự ích kỷ của riêng mình, thậm chí có người còn tranh giành nhau để được bày tỏ tình yêu. Chúng ta thường tạo nội kết với ánh mắt làn môi, với sự luyến ái trong tình dục. Và sự thật là chúng ta khổ vì những nội kết đó, càng yêu nhiều thì càng khổ nhiều, khi yêu không được thì lại ghét bỏ rồi muốn trả thù. 

Những ham muốn của con người trong tình ái không bao giờ dừng lại vì chúng ta chưa bao giờ thỏa mãn thực sự, nội kết sẽ phình to ra bởi trong ta đang chất chứa sự vô minh. Khi hai người nam nữ quan hệ tình dục thì sự luyến ái hết sức cùng tột và nó làm duyên cho nhau để kiếp sau tiếp tục gặp gỡ nhau. Suy nghĩ không chân chính sẽ dẫn đến hành động nông nổi và nghiệp được tạo ra không như mong muốn.

Tình yêu thường là sự lợi dụng lẫn nhau qua xác thịt nếu chúng ta không có hiểu biết chân chính, không có tình yêu thương chân thành, chỉ một bề biết hưởng thụ cho riêng mình mà không có sự hòa hợp của con tim. Tình yêu ấy chỉ mang nhiều hệ lụy khổ đau vì không có sự cảm thông, chia sẻ. Muốn cho tình yêu được bền vững, lâu dài thì khi yêu nhau ta phải biết quý kính và tôn trọng lẫn nhau. Người con gái phải tự giữ gìn, người con trai cũng phải biết gìn giữ cho người con gái, giữa hai người cần có sự thông cảm và độ lượng.

Trong tình yêu chân thật chúng ta không nên đưa tình dục lên hàng đầu; ngoài việc chăn gối ta còn có trách nhiệm và bổn phận thương yêu, bảo bọc cho nhau; còn phải quan tâm nuôi dạy con cái hướng về chân-thiện-mỹ để chúng biết thương người và vật. Không có gì đẹp hơn bằng tình yêu chân thật khi hai người biết lo lắng cho nhau, biết chia sẻ để làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau, biết vun bồi để càng ngày càng thêm hiểu và thương nhau hơn. 

Tình yêu lứa đôi là sự kết hợp của hai con tim bằng sợi dây ân ái, nhưng ân ái phải có sự hiểu biết, tôn trọng, tiết chế chừng mực mới bảo đảm hạnh phúc lâu dài. Chúng ta nên nhớ một điều, dục là một loại đam mê ham muốn rất mạnh, nó như một thứ lửa rơm bừng cháy và tàn lụi cũng rất nhanh. Dục chỉ là phần thô thiển bên ngoài, ái mới là điều quan trọng thiết yếu, là sự cảm thọ, nhận thức thuộc về phần tinh thần.

Hôn nhân không có sự làm mới thì người trong cuộc bỗng chốc phiền não vì ham muốn sự thay đổi theo kiểu thay đổi khẩu vị. Hành động ngoại tình diễn ra nhưng có ai ngờ nó chỉ là đam mê thoáng qua mà kéo theo sau là việc đánh mất niềm tin giữa vợ với chồng, dẫn đến ly dị, con cái bơ vơ không ai chăm sóc và không còn chỗ nương tựa.

Sự thiếu tôn trọng lẫn nhau cũng làm cho chúng ta thất vọng trong đời sống hôn nhân. Chồng không tôn trọng vợ và vợ không tôn trọng chồng, ban đầu chưa cưới thì bao nhiêu lời ngon tiếng ngọt được tuôn ra, khi cưới nhau rồi thì bao nhiêu lời ác ngữ cứ bùng phát ra mãi. Tại vì sao? Vì lúc này “cái ngã” của mình phình to ra nên ta đánh mất chính mình và người bạn đời cũng vậy.              

Khi ba nghiệp thanh tịnh nhờ biết buông xả dính mắc vào mọi thứ thì tâm ta an nhiên mà thường biết rõ ràng. Khi trong suy nghĩ mình có hiểu biết thì hành động ác sẽ không còn nữa, từ đó ta chấm dứt vọng động lăng xăng, từ suy nghĩ mà phát ra lời nói và hành động trong sáng. Một người sống có hiểu biết và yêu thương bằng tình người trong cuộc sống sẽ thấy sắc là Thiền, nghe tiếng là Thiền.

Sống chung dưới một mái ấm gia đình là nhân duyên nhiều đời nên khi chúng ta còn gặp nhau thì hãy biết thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau để mai này không còn gặp nhau nữa thì ta không hối tiếc, bởi đó là lẽ đương nhiên của sự sinh ly tử biệt. 

Khi tâm ta luyến ái

Làm khổ đau cho nhau

Ai thân thiết ruột rà

Ai người dưng kẻ lạ

Nguyện tất cả chúng sinh 

Ba nghiệp hằng thanh tịnh

Luôn sống đời an lành

Trong yêu thương hiểu biết.

Đối diện và nhận thức bản chất của vô minh, tiến bước trên con đường chánh kiến

Vô minh không chỉ là nguyên nhân chính của sự chuyển động và thúc đẩy “bánh xe luân hồi”, mà còn là nguồn gốc của sự mê đắm và bất lực.

Trong vô lượng kiếp sống, chúng ta mãi mãi bị cuốn vào thế giới của ảo mộng. Những suy tư, lời nói và hành động của chúng ta, dù có mang tính thiện hay ác, đều chìm trong vô minh.

Vô minh, đây là trạng thái không nhận thức được bản chất thực tướng của vạn pháp, hay không thấu hiểu sâu sắc về chân tướng của chính mình.

Chính màn vô minh, như một lớp mây mờ bao phủ, làm che lấp mọi hiểu biết chân chính, điều này còn được gọi là tà Kiến.

Vô minh và tuệ giác

278329701_170871488644711_2209947331523539_n

Vô minh không chỉ là nguyên nhân chính của sự chuyển động và thúc đẩy “bánh xe luân hồi”, mà còn là nguồn gốc của sự mê đắm và bất lực.

Khi chúng ta bị lôi cuốn vào thế giới của vô minh, ta dễ dàng bị mất phương hướng và mất đi khả năng nhìn nhận đúng về thực tại.

Trong hành trình tìm kiếm sự tỉnh thức và giải thoát, việc nhận ra và vượt qua vô minh là vô cùng quan trọng.

Chỉ khi ta đối diện và nhận thức được bản chất của vô minh, ta mới có thể tiến bước trên con đường của Chánh Kiến, nơi mà mọi thứ trở nên rõ ràng và sáng tỏ. Điều này đòi hỏi sự trọn vẹn nhận biết, để từng bước một, chúng ta có thể đánh bại sự mê hoặc của vô minh và hướng về ánh sáng của tuệ giác và sự hiểu biết sâu sắc chân tướng của ái dục.

Mùa Phật đản, núi Bà Đen thành miền đất hành hương tại Nam bộ

Tháng 5, núi Bà Đen, Tây Ninh trở thành miền đất hành hương được nhiều Phật tử và du khách tại Nam bộ tìm đến bởi những trải nghiệm thiêng liêng trong mùa Phật đản cùng thế giới Phật giáo lần đầu tiên có tại Việt Nam.

Toàn cảnh đỉnh núi Bà Đen. Ảnh: Nguyễn Minh Tú

Toàn cảnh đỉnh núi Bà Đen. Ảnh: Nguyễn Minh Tú

Lên núi Bà Đen tưởng nhớ Đức Phật trong mùa đản sinh

Từ đầu tháng 4 âm lịch, Phật tử trên cả nước đã tìm đến núi Bà Đen để hướng đến ngày Phật đản sinh – ngày lễ Phật giáo trọng đại nhất trong năm, đưa ngọn núi cao nhất Nam bộ thành  miền đất hành hương trong mùa Phật đản.

Diễn ra vào tháng 4 âm lịch hàng năm, Đại lễ Phật Đản là sự kiện trọng đại nhất với Phật tử trên khắp thế giới nhằm kỷ niệm ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được sinh ra ở thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên. 

Năm 2024, Phật lịch 2568, lễ Phật đản được tổ chức từ ngày 8/5 đến 22/5 (nhằm ngày 1/4 đến 15/4 năm Giáp Thìn) tại các chùa và các cơ sở tự viện trên cả nước. Tại núi Bà Đen, Tây Ninh, chương trình đại lễ kính mừng Phật Đản chính thức diễn ra vào ngày 18/5 (nhằm 11/4 Âm lịch) với các nghi thức trang trọng, thiêng liêng. Đây là dịp để các Phật tử tìm về ngọn núi biểu tượng trong đời sống tâm linh của người Nam bộ để tưởng nhớ và tri ân đức Phật – người đã mang lại ánh sáng giác ngộ cho nhân loại. 

Đại lễ dâng đăng kính mừng Phật đản sẽ được tổ chức vào ngày 18/5 trên núi Bà Đen. Ảnh: Nguyễn Minh Tú

Đại lễ dâng đăng kính mừng Phật đản sẽ được tổ chức vào ngày 18/5 trên núi Bà Đen. Ảnh: Nguyễn Minh Tú

Đặc biệt, trên đỉnh núi Bà Đen, đại lễ dâng đăng kính mừng ngày Đức Phật đản sinh được tổ chức vào tối Thứ 7, ngày 18/5 với hàng ngàn ngọn đăng được thắp sáng trên quảng trường rộng lớn dưới chân tượng Phật Bà Tây Bổ Đà Sơn và dưới chân đại tượng Bồ Tát Di Lặc. Các ngọn đèn đăng bằng gỗ đặc biệt đã được Sun World Ba Den Mountain làm riêng để các Phật tử và du khách tự tay ráp đèn, viết lời khấn nguyện dâng lên Đức Phật.

Ngoài nghi thức dâng đăng, chương trình nghệ thuật đặc sắc cũng sẽ được tổ chức trên đỉnh núi với sự hòa quyện hấp dẫn giữa những điệu múa truyền thống và những giai điệu du dương gợi nhắc về ngày đức Phật đản sinh và công đức của Ngài.

Khám phá thế giới Phật giáo giữa miền tiên cảnh

Mùa Phật đản cũng là mùa để rất nhiều Phật tử và du khách đến núi Bà Đen khám phá thế giới Phật giáo độc đáo chỉ có trên đỉnh núi cao nhất Nam bộ. 

Dưới chân Tượng Phật Bà Tây Bổ Đà Sơn cao nhất châu Á trên đỉnh núi là không gian triển lãm Phật giáo có tổng diện tích lên tới 4,410 m2. Triển lãm sẽ đưa du khách theo dấu chân đức Phật đến với thế giới Phật giáo nhiệm màu và khám phá bản ngã của chính mình. Tại đây, du khách được thăm quan những cổ vật trong kiến trúc Phật giáo bằng gỗ, đá có niên đại từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII và 38 phiên bản mô phỏng những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo kinh điển, trong đó có nhiều pho tượng Phật nổi tiếng của Việt Nam và Thế giới. Du khách cũng có cơ hội tìm hiểu và khám phá vũ trụ trong quan niệm của Phật giáo thông qua công nghệ chiếu phim 3D  mapping với các thiết bị trình chiếu, âm thanh hiện đại hàng đầu thế giới.

Xem phim 3D mapping tại khu triển lãm Phật giáo trên đỉnh núi Bà Đen. Ảnh: Sun World Ba Den Mountain

Xem phim 3D mapping tại khu triển lãm Phật giáo trên đỉnh núi Bà Đen. Ảnh: Sun World Ba Den Mountain

Theo PGS.TS Phạm Trung Lương – nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Du lịch (Tổng cục Du lịch): “Với hệ thống triển lãm và những trải nghiệm độc đáo về văn hoá Phật giáo, núi Bà Đen có thể được xem là nơi đầu tiên tại Việt Nam để người dân đến và có những hiểu biết rất cơ bản, cần thiết về các giá trị Phật giáo”. 

Đặc biệt, một trải nghiệm vô cùng ý nghĩa khi đến với núi Bà Đen vào mùa Phật đản là chiêm bái, đảnh lễ trước xá lợi Đức Phật Thích Ca do Liên đoàn Phật giáo thế giới tại Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ trao tặng Việt Nam vào năm 2014. Với các Phật tử, được chiêm bái ngọc xá lợi của Đức Phật là một phép nhiệm màu, cũng giống như được thấy Đức Phật vẫn đang hiện diện giữa thế giới này, với lòng từ bi hỷ xả, phổ độ chúng sinh. 

Hệ thống chùa Bà gắn liền với huyền thoại Linh Sơn Thánh Mẫu. Ảnh: Sun World Ba Den Mountain

Hệ thống chùa Bà gắn liền với huyền thoại Linh Sơn Thánh Mẫu. Ảnh: Sun World Ba Den Mountain

Là một trong số các đỉnh núi thiêng nhất Việt Nam, núi Bà Đen với hệ thống chùa Bà 300 năm tuổi cùng các công trình Phật giáo kỳ vĩ trên đỉnh núi được biết đến là miền đất hành hương, nơi gieo thêm những mối duyên lành của Phật pháp, mang đến cơ duyên để Phật tử và du khách thập phương tìm kiếm sự an yên và niềm hạnh phúc viên mãn.

Bạn có phải là người khôn khéo?

Sự khôn khéo không phải do trời ban, mà nhờ biết cách rèn luyện tu dưỡng mỗi ngày.

201138765_1511006605916814_7695423528026380475_n

Người khôn khéo rất nhiều khi giả ngốc để tránh những chuyện rắc rối bất an không cần thiết, trong khi những kẻ khác cứ cứng đầu lao tới để chứng tỏ mình bản lĩnh.

Người khôn khéo bỏ qua một lựa chọn không phải vì lười, vì khó mà bởi họ đã có mục tiêu tốt hơn để phấn đấu.

Người khôn khéo không bao giờ lấy tiêu chuẩn bản thân để bình phẩm kẻ khác, vì họ biết mỗi người là một cá thể riêng.

Người khôn khéo sẽ không dùng sự thiếu sót để phê phán khiếm khuyết của người, vì họ hiểu tương lai còn rất dài, trước khi nắp quan tài đậy lại thì không thể nói trước ai hay hơn ai.

Người khôn khéo không có nhu cầu kết giao nhiều bạn bè mà luôn tập trung nâng cao bản thân. Vì họ hiểu thời gian rất quý giá, bạn hữu quan trọng ở chất lượng, nếu kết giao rộng thì không thể sâu. Có quá nhiều người qua lại chỉ đánh mất sự yên tĩnh quý giá để tu sửa chính mình.

Người khôn khéo sẽ không bao giờ cố nói thêm một câu vô nghĩa hay một lời tổn thương ai đó. Vì họ biết lời nói không giải quyết được vấn đề bằng im lặng và hành động.

Người khôn khéo không có nhu cầu chứng tỏ mình bằng miệng lưỡi, mà thường để sự chú ý vào thái độ của người khác, làm thay đổi cảm nhận của đối phương về mình hay một vấn đề nào đó.

Người khôn khéo luôn chọn cách tha thứ cho người, khoan dung cho mình. Họ không cầu giàu sang, chỉ mong không thẹn với lòng.

Người khôn khéo dù nhận biết nhân tình lạnh nhạt nhưng không nói, hiểu rõ cuộc đời vốn khổ đau mà không than, thấy được mạng người ngắn ngủi nên trân trọng mỗi phút giây được sống… Bạn có phải là người khôn khéo?

Thật lòng đối đãi, tình nghĩa sẽ đậm sâu

Tiêu tai diên thọ Dược Sư Phật

Dược Sư nghĩa là thầy thuốc, nói đủ là Tiêu tai diên thọ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai. Tiêu tai diên thọ là mục tiêu của Phật Dược Sư.

Tu hành cần phải đặt mục tiêu để hướng tới. Nếu chúng ta đặt mục tiêu quá cao thì sẽ không đến được. Đức Phật đặt mục tiêu trong tầm tay nên Ngài tiến đến được. 

Tôi luôn đặt mục tiêu phấn đấu trên bước đường tu hành và tôi nhìn lên Phật, Bồ-tát thấy các Ngài cũng đặt mục tiêu, nhưng không phải một ngày, một đời, mà phải trải qua nhiều kiếp thì cũng làm được. Vì vậy, các Ngài là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Chúng ta chọn một vị Phật để làm mục tiêu phấn đấu đi tới, cũng tới được. Nếu chọn Phật Dược Sư làm mục tiêu phấn đấu đi tới thì chúng ta bắt đầu tìm hiểu hành trạng là việc làm của Ngài. Hoặc chọn Phật Thích Ca là đối tượng gần chúng ta hơn, Ngài ở ngay Ta-bà và cũng là biểu tượng mà chúng ta tôn thờ kính trọng.

Tôi tụng kinh Dược Sư thấy chư Phật mười phương khen ngợi Phật A Di Đà và cũng khen ngợi Phật Thích Ca. Phật mười phương khen Phật Di Đà khéo tạo phương tiện cho người tu hành, như có tiếng suối reo, chim hót, v.v… tất cả đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, không làm ác. Phật Thích Ca nói thọ mạng ở thế giới Cực lạc dài lâu, có trước Phật Thích Ca mười kiếp và hiện vẫn tồn tại và còn tồn tại lâu nữa. 

Tâm Phật Dược Sư ví như viên ngọc lưu ly, tức hoàn toàn thanh tịnh sáng suốt, nên Ngài thấy được người đáng cứu, đáng giúp.

Tâm Phật Dược Sư ví như viên ngọc lưu ly, tức hoàn toàn thanh tịnh sáng suốt, nên Ngài thấy được người đáng cứu, đáng giúp.

Ngược lại, Phật Di Đà cũng khen Phật Thích Ca ở thế giới ngũ trược mà thành Vô thượng Chánh đẳng giác và Ngài cũng khéo dùng phương tiện dìu dắt chúng sanh ra khỏi Nhà lửa tam giới. Chư Phật mười phương thường tùy hỷ, khen nhau để sách tấn nhau. Chúng ta theo dấu chân Phật cũng phải tập như vậy, ai có hạnh tốt, chúng ta đều tùy hỷ, khen ngợi, còn ganh tỵ nói xấu nhau là ác ma. Dưới mắt tôi, không có người xấu. Trước mặt tôi, quý thầy này đi xuất gia tu hành được là điều tốt và các Phật tử ngày Chủ nhật không đi chơi mà về đây tu học là điều tốt.

Muốn đi con đường tốt thì phải thấy việc tốt của người và khen điều tốt; đừng thấy xấu, vì đem cái xấu vô lòng là mình xấu rồi và chê bai người thì sẽ bị chê lại. Theo kinh nghiệm, tôi thấy người hay chê thường sẽ làm những gì như họ đã chê. Thấy tốt để chúng ta tùy hỷ và trong đời, chúng ta thấy tốt nhiều là chúng ta kết duyên được với Phật, Bồ-tát, thì sẽ không thấy nhân gian và ta ra khỏi Nhà lửa, nên người thấy ta, họ cũng thoát khỏi tham lam ích kỷ và cũng theo ta ra khỏi Nhà lửa. Còn ta không ưa họ thì họ cũng khó chịu với ta, là biến thành Nhà lửa tam giới.

Phật Thích Ca cho biết Đức Dược Sư đặt mục tiêu phấn đấu thủ tiêu tất cả tai họa của chúng sanh và thành tựu mục tiêu đó, nên Ngài thành Phật Dược Sư, chính cái tên của Ngài đã thể hiện mục tiêu đó. Chư Phật đều do hạnh mà thành danh. Cũng như Phật Thích Ca nghĩa là vạn năng, đó là mục tiêu phấn đấu của Ngài như vậy, việc nào Ngài cũng làm được, người theo hay người chống Ngài đều độ được, điều gì Ngài cũng biết nên có tôn danh như vậy. Hay Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đặt mục tiêu có ánh sáng như mặt trời, mặt trăng và ngọn đèn. Mặt trời và mặt trăng là ánh sáng phổ biến, tức là chân lý; nhưng mặt trời mặt trăng không chiếu vô đường hầm sanh tử được, nên phải nhờ ánh sáng của ngọn đèn rọi soi. Phật phát tâm tu và bừng sáng chân lý, ví như mặt trời và từ ánh mặt trời chiếu qua hành tinh khác để hành tinh đó phát ánh sáng thành mặt trăng có ánh sáng mát dịu hơn, tức là có sự điều tiết. 

Nói cách khác, thành Phật, Ngài không đem sự hiểu biết cao tột cho chúng sanh được, vì ánh sáng mặt trời đó mà chiếu vô ta là ta thành tro bụi, nên phải qua hành tinh khác chiếu ngược lại ta để ta không bị nóng bức. Vì vậy, khi Phật đến với chúng ta, Ngài phải hiện ứng thân là thân người giống như ta mới chung sống được và Ngài phải sử dụng ngôn ngữ của loài người để truyền bá giáo pháp, ví như ngọn đèn.

Mục tiêu của Phật Dược Sư là tiêu trừ nghiệp chướng trần lao cho chúng sanh, gọi là tiêu tai; nhưng pháp tiêu tai nghiệp chướng này của Dược Sư không hiểu được, nên gọi là thần chú tiêu tai, hay Dược Sư quán đảnh chơn ngôn, ta không hiểu, nhưng biết đây là chỗ tu chứng của Ngài. Ta đọc thần chú này để cảm được bi lực của Phật Dược Sư, nên cảm thấy chấn động trong lòng và có sự thay đổi là tất cả tai họa bị đốt sạch. Ta có thể tạm hiểu nó là sức nóng từ bản thể tâm ta, khi ta đọc thần chú, nó có thể thiêu đốt tai họa. Hoàn cảnh khó khổ, không vượt được, nhưng trì tụng thần chú Dược Sư với lòng chí thành tin tưởng công phu tu hành vô thượng của Phật Dược Sư và nương nhờ vào uy lực của Ngài mà họa tai tiêu tan và làm cho lòng chúng ta sáng lên, kinh gọi là các vị tinh tú hiện trong lòng chúng ta khiến cho bầu trời đen tối của tâm tan mất. Còn ta tụng Dược Sư thần chú, nhưng nghĩ người này xấu, người kia ác thì ác đã ngự trị lòng ta, nên tai họa chẳng những không tiêu mà còn giáng xuống ta.

Ngoài ra, Phật Thích Ca cho biết rằng Phật Dược Sư còn đạt mục tiêu là diên thọ, tức làm cho mạng sống của người được kéo dài. Muốn kéo dài mạng sống, song song với việc cảm hạnh của Phật Dược Sư, còn phải giữ tám phần trai giới. Không giữ như vậy, kinh Dược Sư không linh nghiệm, hay Phật Dược Sư không gia bị chúng ta được. Tám phần trai giới chính yếu là tu Bát quan trai. Các Phật tử về chùa tu Bát quan trai làm lễ thọ giới một ngày một đêm phải giữ giới thanh tịnh thực sự. Không giữ tám phần trai giới thì cầu diên thọ không được và còn phải mở kho bố thí cúng dường trai tăng. Bố thí cúng dường tùy theo sức của mình đến đâu làm đến đó, không phải vay mượn. Làm đúng pháp thì trước tiên tai họa mất, kế đến mạng sống chúng ta kéo dài, tất cả khó khăn nguy hiểm không đến, tâm được an thì được trường thọ.

Tại sao ta bệnh và chết yểu, vì nhiều đời ta phạm tội sát sanh. Trong bao tử chúng ta là nghĩa địa chứa không biết bao nhiêu sinh mạng. Ăn chay là bắt đầu cải táng “cái nghĩa địa bao tử”. Tu đúng pháp trải qua tối thiểu ba năm là ta ăn chay được, vì cải táng được một phần ba cái mồ trong Thức của chúng ta. Ăn chay được sáu năm là cải táng được một nửa. Chúng ta tồn tại do thức ăn và hơi thở. Mỗi ngày chúng ta chôn sinh mạng của chúng sanh trong bao tử đến hết chỗ chứa mới thôi. Ăn chay cải táng mồ chôn này thì trải qua mười hai năm, nghĩa địa trong tâm thức được cải táng hết, nên cơ thể khỏe và phiền muộn không còn. Lúc mới ăn chay còn thèm mặn và mệt mỏi.

Bác sĩ Trần Vạn Kim bảo tôi rằng: “Chú ăn chay thì tôi không chữa bệnh”, vì tôi bị nám phổi, ho lao, ăn chay không đủ dinh dưỡng, làm sao sống. Lúc đó tôi nghĩ mình phải cải táng nghĩa địa này, sống cũng tu, chết cũng tu và cuối cùng tôi sống, còn bạn sợ ăn chay chết thì chết hết.

Ba năm đầu, chúng ta bắt đầu cải táng nghĩa địa thì cơ thể chúng ta chưa quen, chưa tiếp thu đồ chay được, nên nó hành hạ ta. Cơ thể chúng ta, dòng họ chúng ta, ông bà chúng ta, tế bào của chúng ta đã quen nuôi dưỡng bằng thịt cá rồi. Tôi có suy nghĩ tại sao con voi, con bò ăn cỏ mà khỏe; phải chăng vì ông bà tổ tiên nó cũng ăn cỏ. Theo tôi, ta tu hành phải tìm cách thay đổi truyền thống và thay đổi tế bào để nó có sức tiếp thu đồ chay. Chúng ta nhận thấy không phải ăn thịt chúng sanh mà khỏe mạnh. Ngày nay, thấy rõ ăn thịt có nhiều độc tố hơn.

Phật khuyên chúng ta nên phóng sanh, nhưng phóng sanh cũng có hai mặt. Vì ta sát sanh, nên phóng sanh để thay đổi nghiệp; nhưng thấy vật bị bắt và sắp chết, ta cứu nó, như ông Trần Quang Nhị là thân sinh của ngài Huyền Trang mua con cá sắp bị giết để phóng sanh. Ngày nay, Phật tử nghĩ phóng sanh có phước, chẳng hạn người 80 tuổi đặt mua 80 con chim để thả cho có phước. Việc làm này hoàn toàn sai, vì chúng ta không đặt hàng thì những con chim đó đã không bị bắt và chúng bị nhốt lâu, đói khát kiệt sức, thả ra bay không nổi, làm mồi cho các con mèo. 

Mùa hạ năm nào, chùa Phổ Quang cũng có nhiều con mèo hoang tập trung về để bắt chim phóng sanh. Phóng sanh như vậy không có phước, còn có tội và tụng Dược Sư cầu nguyện, bệnh không hết, nhưng nặng hơn. Trên đường đi, gặp người mắc nạn, hoặc bị hàm oan, ta cứu, hay gặp con vật bị bắt giết, ta cứu là phóng sanh, không phải đặt hàng để phóng sanh.

Bố thí, giúp người nghèo bị thiên tai, đói khổ, giúp họ kéo dài mạng sống thì Phật gia hộ kéo dài mạng sống của ta. Bố thí phải đúng như pháp thì tai họa mất và mạng sống kéo dài.

Đức Phật Dược Sư làm được việc tiêu tai diên thọ, Ngài còn kèm thêm “Lưu ly quang”. Quang là ánh sáng của viên ngọc tâm. Tâm Phật Dược Sư ví như viên ngọc lưu ly, tức hoàn toàn thanh tịnh sáng suốt, nên Ngài thấy được người đáng cứu, đáng giúp.

Phật Thích Ca dạy một năm ba tháng là tháng 1, tháng 5 và tháng 9 chúng ta tu theo Dược Sư. Trong tháng Giêng khởi đầu của năm, chúng ta cố gắng tu một tháng này để Phật Dược Sư rọi tâm ta thành lưu ly trong sáng thì Phật huệ mới rọi vô được. Chúng ta tu tháng Giêng giữ tám phần trai giới thì Phật rọi tâm ta sáng suốt, thấy được tháng 2, tháng 3 và tháng 4 nên làm gì. 

Hết tháng 4, viên ngọc lưu ly của chúng ta mờ lại, vì ba tháng tiếp cận xã hội sẽ cho chúng ta những vui buồn vinh nhục của cuộc đời, nên viên ngọc trong lòng chúng ta bị mờ. Vì vậy, chúng ta phải giữ tám phần trai giới, tu thêm một tháng là tháng 5, thì lòng chúng ta sáng lên, thấy được tháng 6, 7, 8 làm gì. Và tháng 9, ta lại tu thêm một lần nữa thì tháng 10, 11, 12 sẽ hành xử không sai lầm.

Mong rằng tất cả đệ tử Phật đốt sáng ngọn đèn tâm, thấy việc đáng làm để công đức sanh ra và mạng sống được kéo dài, không gặp tai họa. 

Nói về Giảng sư và vấn đề đào tạo Giảng sư trong Phật giáo

Một vị giảng sư trước hết phải có phẩm chất đạo hạnh tư cách đạo đức; học hỏi kỹ càng thông đạt Kinh Luật Luận, nắm vững, thực hành giáo lý Phật giáo, sống đúng với tinh thần từ bi trí tuệ của đạo Phật thì mới được gọi là vị giảng sư chân chính của Phật giáo.

Giảng sư trong Phật giáo là những người am hiểu Phật pháp, thuyết giảng kinh Phật, chân lý Phật, tư tưởng giáo lý Phật giáo cho nhân dân đồng bào Phật tử nghe hiểu và thực hành theo để có đời sống lương thiện tích cực ý nghĩa theo tinh thần của Phật giáo.

Giảng là trình bày cụ thể rõ ràng cặn kẽ cho người nghe dễ hiểu, dễ nắm bắt vấn đề.

Sư ở đây là thầy, chỉ cho những người xuất gia tu hành theo Phật giáo. Giảng sư tiếng Hán là 法師 (Pháp sư) tức người giảng Phật pháp. 

Trách nhiệm của một người xuất gia tu hành, không chỉ học hỏi cặn kẽ, hiểu thông Kinh, Luật, Luận, sống thực hành theo chân lý Phật mà còn phải đem những điều mình hiểu, mình thực hành có kết quả chia sẻ, giảng giải cho đồng bào Phật tử và những người có duyên muốn nghe.

Phật dạy thuyết Pháp cho người phải có đủ năm đức

02

Trong Đại phẩm, đức Phật thường dạy: “Này các thầy Tỳ-kheo, hãy đi đi, đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, vì lòng từ bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của chư thiên và loài người. Chớ đi hai người chung đường với nhau. Này các thầy Tỳ-kheo, hãy thuyết giảng giáo pháp cao thượng ở phần đầu, cao thượng ở phần giữa và cao thượng ở phần cuối, cả về ý nghĩa lẫn văn cú.

Hãy giảng giải sự trọn vẹn viên mãn, đời sống thanh tịnh của trạng thái cao thượng. Có những người mà trí óc chỉ bị lu mờ vì đôi chút bụi bặm, nếu không được nghe pháp thì họ không thể được giải thoát; những người ấy sẽ hiểu pháp”.

Đức Phật đã tuyên thuyết điều Ngài biết, Ngài làm. Đấy là sự chân thật. Kinh Phật thuyết Như vậy, Đức Phật dạy: “Điều gì Như Lai nói, tuyên bố, nói rõ lên; tất cả là như vậy, không có khác được nên được gọi Như Lai”. “Này các Tỳ-kheo, Như Lai nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy, nên được gọi là Như Lai”.

Trưởng lão Xá-lợi-phất tuân theo lời Đức Phật, huấn luyện chỉ bảo cho các vị tỳ kheo giảng sư sắp đi hoằng pháp ở phương xa. Tôn giả vừa giả định các câu hỏi sẽ được đặt ra cho các giảng sư rồi tự nói câu trả lời: “Đạo sư của Tôn giả nói gì, tuyên bố gì? Được hỏi như vậy, này các Hiền giả, các Hiền giả phải trả lời: Này chư vị, bậc Đạo sư của chúng tôi nói đến sự điều phục dục và tham. (Tương ưng bộ).

Tuân theo lời dạy của Đức Phật, các thầy Tỳ-kheo đã đi khắp nơi, đến các làng mạc, vùng sâu vùng xa, các thành thị, các xứ sở; đến với mọi người thuộc mọi thành phần, đẳng cấp để giảng nói chân lý nhiệm mầu của đức Phật.

Vị giảng sư cần giữ 5 nguyên tắc về việc thuyết giảng Phật pháp:

Một là, thuyết pháp theo thứ lớp, từ thấp đến cao;

Hai là thuyết y theo các pháp môn của kinh điển, không được sai lầm

Ba là thuyết pháp vì lòng từ bi, muốn lợi ích cho mọi người;

Bốn là thuyết pháp không phải vì lợi ích cá nhân của mình, không mong được đền đáp

Năm là không được tự khen mình, chê bai người khác, tôn giáo khác

Trong kinh Ưu Bà tắc giới đức Phật còn chỉ dạy chi tiết 16 điều cần ghi nhớ trong việc thuyết giảng Phật pháp : 1. Thuyết giảng tùy thời; 2. Thuyết giảng hết lòng; 3.Thuyết giảng theo thứ tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao; 4. Thuyết giảng một cách hòa hợp; 5. Thuyết giảng đúng theo nghĩa lý; 6. Thuyết giảng với tâm hoan hỷ; 7. Tùy ý thuyết giảng; 8. Không khinh thường thính chúng; 9. Không mắng chửi thính chúng; 10. Giảng đúng như pháp; 11. Nói pháp lợi mình và lợi người; 12. Nói pháp không tán loạn; 13. Nói pháp hợp nghĩa lý; 14. Nói chân chính; 15. Giảng pháp với tâm không kiêu mạn; 16. Giảng Phật pháp không cần người đền ơn.

Nói tóm lại một vị giảng sư trước hết phải có phẩm chất đạo hạnh tư cách đạo đức; học hỏi kỹ càng thông đạt Kinh Luật Luận, nắm vững, thực hành giáo lý Phật giáo, sống đúng với tinh thần từ bi trí tuệ của đạo Phật thì mới được gọi là vị giảng sư chân chính của Phật giáo.

Hiện nay có 2 nơi, một là ở khu vực phía Nam (chùa Hoà Khánh) hai là ở phía Bắc (chùa Vạn Phúc) chuyên đào tạo Cao cấp Giảng sư và Trung cấp Giảng sư thuộc Ban Hoằng pháp trung ương, Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra, khoa Hoằng pháp thuộc Học viện Phật giáo Việt Nam TP. HCM cũng đào tạo chuyên ngành Hoằng pháp.

Khi có các vị Giảng sư trẻ đến thưa hỏi về định hướng, phương pháp hành đạo, cách thức giảng Phật pháp, chúng tôi thường chân thật khuyên mấy điều:

– Một là hãy dành thời gian học hỏi nghiên cứu Kinh Luật Luận, giáo lý Phật học cho thật chắc chắn vững vàng, chỗ nào chưa thông nên thưa hỏi các bậc tôn túc Hoà Thượng đi trước.

– Hai là sống, tư duy chiêm nghiệm, tu tập thực hành nghiêm túc các kinh, các pháp, giáo lý đã học.

– Nên giảng đúng những điều đức Phật đã dạy giúp người nghe có thể hiểu, thực hành đạt được an lạc, chuyển hóa khổ đau. Không nên giảng, suy diễn cá nhân theo trào lưu, xu thế.

– Chỉ nên giảng những điều mà mình đã hiểu thấu đáo chắc chắn, đã thực hành có kết quả bớt khổ, an lạc. Không nên tùy tiện giảng những vấn đề mình còn mơ hồ không chắc chắn, không thuộc giáo lý Phật giáo.

– Nên dùng thái độ khiêm cung, chân thật mà giảng giải Phật pháp, tránh khoe khoang, khoa trương tự cao tự đại.

– Tránh đề cập đến chính trị, phê phán tôn giáo, tín ngưỡng ngoài Phật giáo.

– Theo lời Phật dạy, trên đền bốn ơn, dưới cứu ba cõi mà tuyên dương Phật pháp. Chứ tuyệt không phải có tâm thể cầu danh, mong lợi, muốn nổi tiếng mà đi giảng Phật pháp.

– Những người chưa am tường Phật pháp, chưa tư duy chiêm nghiệm thấu đáo, chưa sống, thực hành nghiêm túc giáo lý Phật giáo thì không phải là giảng sư, cũng không thể giảng Phật pháp được. Nếu đi giảng Phật pháp chỉ là có hại cho bản thân, hại cho mọi người và có hại cho Phật giáo.

Nuôi bệnh được phước

Bệnh tật là vấn đề tất yếu của đời sống con người, có thân thì có bệnh. Người đời sống bên vợ chồng con cái khi đau ốm được người thân săn sóc, có đau mà đỡ khổ.

Còn người xuất gia sống du hành, rày đây mai đó, tứ cố vô thân nên khi ngã bệnh quả thật gian nan. Thế Tôn hiểu rõ tâm trạng bệnh khổ nên rất quan tâm và thường chỉ dạy tứ chúng đệ tử phát tâm săn sóc người bệnh.

Nuôi bệnh, trước cần có cái tâm thương người. Ngoài hiểu và thương, người nuôi bệnh cần có những kỹ năng săn sóc thân thể và chăm dưỡng tinh thần, giúp bệnh nhân thân tâm đều thoải mái thì mới mau lành. Thế Tôn từng dạy, săn sóc người bệnh thì phước báo cũng giống như săn sóc cho Như Lai vậy. Hãy nghe Thế Tôn nói về cách săn sóc bệnh nhân nhằm giúp mình và người đều được phước báo.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Nếu người săn sóc bệnh, thành tựu năm pháp này khiến người bệnh chẳng lành, nằm mãi trên giường chiếu. Thế nào là năm? Ở đây, người khán bệnh không phân biệt thuốc hay; lười biếng, tâm không dũng mãnh; thường ưa sân giận và ưa ngủ nghỉ; vì tham ăn nên coi sóc bệnh nhân không dùng pháp cung dưỡng; cũng không trò chuyện với bệnh nhân.

Ðó là, Tỳ-kheo! Nếu người săn sóc bệnh thành tựu năm pháp này thì bệnh chẳng lành được.

Này Tỳ-kheo! Nếu người săn sóc bệnh thành tựu năm pháp này thì người bệnh được lành, chẳng nằm liệt giường chiếu. Thế nào là năm? Ở đây người khán bệnh phân biệt thuốc hay; cũng không lười biếng, dậy trước, nằm sau; thường ưa chuyện vãn, ít ngủ nghỉ; dùng pháp cung dưỡng, không tham ăn uống; chịu thuyết pháp cho bệnh nhân.

Này Tỳ-kheo! Ðó là người săn sóc bệnh thành tựu năm pháp này, bệnh có lúc được lành.

Cho nên, các Tỳ-kheo! Lúc săn sóc người bệnh thì nên bỏ năm pháp trước, thành tựu năm pháp sau. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Thiện tụ, VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.241)

Một người khéo nuôi bệnh, dẫu chúng ta không phải là thầy thuốc nhưng cũng nên hết sức để ý về thuốc. Biết rõ loại thuốc nào bệnh nhân dùng thì bớt, loại thuốc nào dùng không bớt hoặc có các tác dụng phụ không mong muốn để nói cho thầy thuốc biết nhằm điều chỉnh kịp thời.

Kế đến là siêng năng trong việc chăm sóc, ngủ sau và dậy trước người bệnh. Người bệnh thường đau khổ, khó chịu nên đã phát tâm nuôi bệnh thì không nên giận hờn hay bực tức với họ. Ngược lại cần chuyện trò, sẻ chia, tâm sự với người bệnh nhiều hơn. Ngoài thuốc thang thì vấn đề ăn uống, bồi bổ cho người bệnh cũng khiến cho sức khỏe bệnh nhân chóng được hồi phục.

Điều quan trọng nhất mà người nuôi bệnh cần có là tìm cách giải tỏa những tâm lý bất an, sầu muộn khiến cho người bệnh tuy có đau mà ít khổ. Thế Tôn gọi là “thuyết pháp cho bệnh nhân”. Bệnh tật dĩ nhiên là điều không ai muốn. Khi mang bệnh, rõ ràng đó là nghiệp của mình, do mình gây tạo trong quá khứ xa hoặc gần nên không phiền trách ai, không đổ lỗi cho ai, chỉ tự trách mình và lo điều trị.

Mặt khác, người nuôi bệnh cần nhắc cho bệnh nhân biết rõ là ai cũng có bệnh, bệnh tật vốn không chừa một ai, không phải chỉ một mình họ bị bệnh để không mặc cảm. Ngay cả khi biết người bệnh không thể qua khỏi, người khéo nuôi bệnh nên tìm cách nói cho người bệnh hiểu đó cũng là chuyện thường, ai mà chẳng trải qua sanh già bệnh chết. Người khỏe hay người bệnh cũng phải ra đi, chỉ khác là trước hay sau mà thôi.

Nói chung, một người khéo nuôi bệnh thì có khả năng chăm sóc cả thân thể lẫn tinh thần cho người bệnh. Làm được như vậy thì được phước vô lượng, mình và người đều hạnh phúc, an vui. 

Thức ăn tinh thần của người tu

Nói về thức ăn, Phật dạy chúng ta rất kỹ lưỡng; theo Ngài, người tu có bốn món ăn là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực.

Audio

Tu theo Phật, và thấu hiểu được ý Phật dạy, trân trọng, tuân thủ những điều giúp chúng ta thăng hoa đạo đức, trí tuệ, hoặc sửa đổi cho thích hợp với sinh hoạt của thời hiện đại mà vẫn giữ được nếp sống của người xuất gia. Điển hình như chư Tăng Phật giáo Nam tông ở các nước Thái Lan, Campuchia, v.v… vẫn giữ truyền thống khất thực, mỗi sáng các ngài đi khất thực, nhưng việc sử dụng thực phẩm được cúng có thay đổi. Trước kia, tu sĩ khất thực phải dùng hết thức ăn trong bình bát và Phật tử cúng gì thì dùng nấy. Với cách này, việc ăn uống không điều độ và dùng những thức ăn không thích hợp nên sanh ra bệnh hoạn. Vì lý do đó mà Phật giáo Nam tông đã phải cải tiến, tất cả đồ dùng do Phật tử cúng dường khi đi khất thực được gom lại, sau đó, mỗi thầy chọn thức ăn thích hợp và số lượng vừa đủ với cơ thể mình; không phải ăn tất cả thực phẩm được cúng. 

Vì cơ thể của mỗi người có nhu cầu khác nhau, phát xuất từ nghiệp khác nhau, theo tôi nên tổ chức cho đại chúng ăn theo cách tự chọn, vừa hợp vệ sinh, vừa hợp khẩu vị mỗi người, mà lại không tốn kém. Nếu những vị nào muốn giữ nghi thức cúng dường cũng vẫn làm món ăn tự chọn được. Quý vị dọn thức ăn ra bàn, đến giờ quả đường, mỗi người cầm bình bát đến lấy thức ăn theo ý mình và gắp vừa đủ vào bát; sau đó vào bàn, cúng dường như thường. Riêng tôi, nhờ sớm biết điều chỉnh thức ăn và số lượng thích hợp với thể trạng, tôi khỏe mạnh, không bị “bệnh tùng khẩu nhập”.

Nói về thức ăn, Phật dạy chúng ta rất kỹ lưỡng; theo Ngài, người  tu có bốn món ăn là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Đoàn thực là thức ăn vật chất để nuôi cơ thể sống còn mà tu hành. Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy rằng không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cho cơ thể khỏe mạnh. Ngài Thiên Thai dạy thêm rằng không ăn những gì không thích hợp với cơ thể. Đó là kinh nghiệm của Phật và Tổ sư đã thể nghiệm, mới đưa ra pháp tu tương ưng nhằm duy trì mạng sống của chúng Tăng được khỏe mạnh.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Ngoài thức ăn vật chất, thức ăn của tinh thần mới thực sự quan trọng đối với người tu. Thật vậy, thức ăn nuôi dưỡng tinh thần chúng ta là thiền thực và pháp hỷ thực mà mỗi ngày trước khi ăn, đại chúng luôn nhắc nhở nhau rằng “Thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn”. Vì vậy, bằng mọi cách, phải làm cho thiền và pháp trở thành món ăn tinh thần thực sự của chúng ta. Người tu mà không thích ăn cơm thiền, uống nước pháp, không thể sống trong đạo. Chùa thiếu món ăn tinh thần thì chúng đói, tìm những thức ăn không tốt sẽ bị nhiễm độc. Nếu nhiễm chất độc của thực phẩm, bị chết thân mạng, nhưng bị nhiễm độc tinh thần, sẽ chết giới thân huệ mạng, dù còn trong đạo, nhưng không dùng được. Trên thực tế, các tu viện sinh hoạt tốt đẹp nhờ Thiền chủ và các vị lãnh đạo đều sống phạm hạnh thanh tịnh, đại chúng mới nương theo đó thăng hoa được.

Xúc thực, tư niệm thực và thức thực được coi là ba món ăn tinh thần của người tu. Xúc thực là sự tiếp xúc hàng ngày của chúng ta với cuộc đời. Nếu sống trong tu viện, mỗi ngày đọc kinh, được gần gũi các bậc tu hành kiểu mẫu, trông thấy đức hạnh của họ, chúng ta sẽ tốt theo. Tôi được như ngày nay nhờ may mắn trong thời còn là học Tăng, bên cạnh có hai bậc thầy, Hòa thượng Thiện Hoa và Thiện Hòa là hai biểu tượng mà tôi tôn thờ. Tôi sống chung với các ngài,  nghe lời khuyên bảo và thấy việc làm tốt đẹp của các ngài, nên học được đức hạnh của các ngài.

Nếu hàng ngày, Tăng Ni thường tiếp xúc với người phải trái hơn thua. Do năm giác quan tiếp xúc với tiền trần, đưa vào ý thức thì bắt đầu suy nghĩ theo đường thế tục, dẫn đến hư hỏng đời tu là tất yếu. Tôi có kinh nghiệm về việc này. Thời còn đi học ở Nhật, vì học luật, nên tôi phải học thuộc lòng những điều luật, điều ước. Khi đem những điều này vào tiềm thức rồi, đưa nó ra khó vô cùng. Hễ thiền, nhắm mắt lại là chúng xuất hiện liền. Vì thế, chư vị Tổ sư nhận rõ tầm quan trọng của xúc thực, mới dạy rằng “Bất dữ chư trần tác đối”, nghĩa là không cho sáu căn tiếp xúc với sáu trần, để không bị nhiễm ô và không lưu giữ phiền não. Tuy nhiên, cần cân nhắc ý của Tổ dạy để không trở thành người vô dụng, gọi là củi mục than nguội mà Tổ thường quở trách. Cần biết chọn lựa những gì nên tiếp xúc và những gì phải ngăn cấm.

Chúng ta còn nhớ câu chuyện thầy Mạnh Tử thuở nhỏ rất ham học và thích bắt chước. Nhà thầy ở khu lao động, gần lò sát sanh, nên thường qua coi người đồ tể giết heo. Về nhà, thầy đã bắt chước, lấy củ khoai để tập mổ. Mẹ của thầy sợ con tiếp xúc việc đó mỗi ngày, sau này cũng sẽ làm nghề mổ heo, nên bà đã dọn nhà đến gần một ông thầy đồ dạy học. Lần này thầy Mạnh Tử trông thấy bọn trẻ học, cũng bắt chước lấy lá làm giấy, lấy cây làm viết để học, mẹ thầy rất mừng. Câu chuyện này cho thấy ảnh hưởng của xúc thực là sự tiếp xúc hàng ngày rất quan trọng. Nếu  Mạnh Tử không được người mẹ cho tiếp xúc với môi trường đạo đức, học hành, thì thầy đã không trở thành Thánh hiền.

Trên bước đường hướng dẫn đại chúng tu hành, chúng ta không nên hạn chế tuyệt đối, cần biết rõ điều gì nên cho, việc nào nên cấm. Con đường Thánh hiền không mở ra, làm sao xây dựng được Hiền Thánh Tăng. Con đường tội lỗi không đóng lại, làm sao tránh khỏi những việc sai phạm, hư xấu. Theo Phật, chúng ta luôn sử dụng trí tuệ để quán sát, dòng nước ví như sức sống của dòng đời rất có lợi, từ bỏ cuộc sống làm sao tu được; phải bảo vệ cuộc sống mình cho tốt. Nhưng dòng nước chảy xuôi thường gây ra lũ lụt, người ta phải ngăn nó lại bằng cách mở đập cho nước chảy vào để chuyển nó thành dòng điện mang lại nhiều lợi ích cho cuộc sống. Dòng đời cũng thế, phải biết đóng cửa thế gian, mở ra con đường nhân thiên, con đường Bồ-tát hạnh cho đại chúng đi theo. Suy nghĩ của con người không thể ngăn được, nhưng chúng ta nên cho tiếp xúc với những gì tốt đẹp, cao quý, nhưng phải thích hợp với trình độ và nghiệp lực của chúng. Có nhiều chùa bắt chúng khuya công phu, trưa quả đường, tối Tịnh độ, Thiền, cứ như vậy trở thành công thức. Ngồi thiền, nhưng không biết làm gì, người gục, người ngủ, đợi cho hết giờ. Tu như vậy, làm sao có kết quả tốt. Theo tôi, không tu thì thôi, tu thì phải cho ra hồn; dứt khoát như vậy. Riêng tôi, đọc sách, đọc kinh, nhận ra ý nào hay thì thích giữ lại trong tâm để vào thiền quán chiếu lời Phật dạy. Càng thiền, trí tuệ càng phát sanh, hôm sau đọc lại thấy pháp sáng hơn. Vì vậy, đọc kinh, tham thiền thấy thú vị mới thích thiền, thích đọc kinh, không thích tiếp xúc với người. Điển hình như Hòa thượng Trí Tịnh trước kia mỗi ngày đến hai giờ trưa là ngài không tiếp khách để sống với kinh. Tôi thì sáu giờ chiều “bế quan” để dùng pháp Phật rửa sạch nhiễm ô trong ngày. Tất cả sự việc mà người đời đem đến cho chúng ta, dùng pháp tẩy sạch, làm cho tâm sáng, mới giữ được bản chất của người tu. Nếu không, tiếp nhận bao nhiêu việc thế gian phiền toái mà họ trút cho ta, một lúc ta cũng đủ sức sân hận, buồn phiền, đau khổ như người đời. Tôi làm nhiều việc liên tục được là nhờ sử dụng được thiền thực và pháp thực trên bước đường hành đạo. Giảng được nhiều năm liền, vì tiềm thức của tôi đã chứa sẵn pháp Phật.

Xúc thực là sự tiếp xúc hàng ngày giữa ta và cuộc đời, nếu chứa đầy pháp Phật, tất cả nhiễm ô thế gian sẽ được pháp Phật tiêu hóa, chuyển đổi thành hiểu biết, trí giác để cho những lời khuyên tương ưng với hoàn cảnh của người, giúp họ giải quyết việc một cách nhẹ nhàng; còn chấp vào lập trường riêng để áp đặt, chắc chắn không đúng. Nói cách khác, lóng nghe quần chúng, tiếp thu khổ đau mà họ đưa vào tiềm thức chúng ta và sẽ có Phật pháp hóa giải, chỉ đạo được cho họ con đường sống tốt đẹp, tức chế tác được pháp tu thích hợp. Đối với tôi, tìm những pháp thích hợp cho nhiều người tu được, còn pháp của chúng ta tu, họ không thể sử dụng. Tôi thường nghe một số người nói rằng thời của chúng ta khó khăn mà tu được, thời này tu dễ quá mà họ không tu, tức chết. “Tức chết” là bị đọa. Tu lâu, tâm chúng ta phải chứa đầy pháp Phật và những kinh nghiệm quý báu của chư vị Tổ sư. Không có “Tức chết”, mà phải thấy rõ yêu cầu của nhiều người và hóa giải khó khăn cho họ, chế ra pháp tu thích hợp với họ.

Ngoài xúc thực là sự tiếp xúc hàng ngày qua sáu giác quan của chúng ta với Phật, pháp, Bồ tát, còn có món ăn tinh thần là tư niệm thực, tức thiền. Chúng ta đưa hình ảnh Phật, pháp, Bồ-tát vào an trụ trong tâm ta, mới có huệ. Vạn Hạnh thiền sư an trụ thiền mà cố vấn cho vua Lý Thái Tổ dựng nước, an dân và rất nhiều tấm gương sáng chói của các thiền sư còn lưu danh thơm muôn thuở trong sử sách. Nhờ xúc thực, đọc kinh mở rộng tri thức theo Phật và tư niệm thực, suy nghĩ áo nghĩa Phật dạy trong thiền định, hai thức ăn tinh thần này cho chúng ta hiểu biết là thức thực. Ngài Huyền Trang gọi đó là Đại viên cảnh trí, một sự thông minh tuyệt đỉnh, một sự hiểu biết xác thực hoàn toàn mọi việc như ảnh hiện trong gương và việc qua rồi, tâm người tu hoàn toàn thanh thản, tự tại, giống như gương sáng chẳng lưu lại hình ảnh của vật nào cả.

Trong mùa An cư, mong rằng Tăng Ni an trụ trong phạm hạnh thanh tịnh, tiến bước trên con đường Hiền thánh.