back to top
37 C
Chư Sê
Thứ Tư, 1 Tháng Năm, 2024
Home Blog Page 2

Phương thuốc trị tâm bệnh trong Kinh Dược Sư (I)

Kinh Dược Sư gửi một thông điệp đến tất cả mọi người về một lý tưởng độ sinh của đức Phật Dược Sư về một con đường tự mình giải thoát, tự mình giác ngộ, thông qua những nguyện lực, tha lực của đức Phật. 

Audio

Hằng năm khi mai vàng nở, báo hiệu một mùa xuân đã trở về trên đất nước Việt Nam, tất cả mọi người hân hoan chào đón một năm mới với đầy niềm vui và mở ra hy vọng xán lạn trong công việc, cầu mong gia đình bình an, đất nước hoà bình, thịnh trị. Do đó, chùa chiền, là nơi mà mọi người thường đi đến lễ Phật đầu năm, cầu bình an, cầu quốc thới dân an, hơn nữa là cầu cho bản thân, gia đình, mọi người tiêu tai tiêu nạn, tật bệnh tiêu trừ. 

Vì vậy, các chùa, tu viện thường mở hội Dược Sư đầu năm nhằm đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng, tín ngưỡng của hàng triệu tín đồ Phật giáo trên cả nước. Tuy nhiên, pháp hội Dược sư ngoài ý nghĩa cầu bình an, tiêu trừ bệnh tật, nó còn thể hiện một triết lý hết sức đặc sắc của vị “Phật thầy thuốc” chuyên trị tâm bệnh. 

Bài viết tập trung trình bày phương thức bắt mạch tìm ra tâm bệnh của con người; phương thuốc trị lành tâm bệnh con người. Nhằm mục đích hướng dẫn con người nhận thức rõ triết lý, ý nghĩa thâm sâu của đức Phật qua hình thức lễ hội Dược Sư. 

Kinh Dược Sư là một trong những bộ kinh thuộc Đại thừa Phật giáo, thể hiện triết lý của đạo Phật hết sức sâu sắc, từ hình thức cho đến triết lý tính không của Phật giáo, mang tư tưởng Đại thừa. Vì vậy, kinh Dược Sư đã được các nhà dịch thuật nổi tiếng Trung Hoa dịch sang tiếng Hán để đọc tụng trong các thời khoá của các chùa Phật giáo khắp Trung Hoa, như đời Đông Tấn (317-322) thì có bản dịch của ngài Miên thi-lợi Mật-đa-la; đời Lưu Tấn (năm 457) có bản dịch của ngài Huệ Giản.

Thời kỳ nhà Tùy (năm 615) có bản dịch của ngài Đạt-ma-cấp-đa; bản dịch của ngài Nghĩa Tịnh, bản dịch của ngài Huyền Trang…Trong đó, bản dịch của ngài Huyền Trang mang tính phổ biến, được ưa chuộng nhất. Song, kinh Dược Sư cũng đã được các nhà dịch thuật Việt Nam dịch sang tiếng Việt như ngài Tuệ Nhuận, ngài Mật Trí, ngài Huyền Dung, ngài Trí Quang…nhằm đáp ứng nhu cầu tụng đọc, cầu nguyện của các tín đồ Phật giáo. 

Kinh Dược Sư là một trong những bộ kinh thuộc Đại thừa Phật giáo, thể hiện triết lý của đạo Phật hết sức sâu sắc, từ hình thức cho đến triết lý tính không của Phật giáo, mang tư tưởng Đại thừa.

Kinh Dược Sư là một trong những bộ kinh thuộc Đại thừa Phật giáo, thể hiện triết lý của đạo Phật hết sức sâu sắc, từ hình thức cho đến triết lý tính không của Phật giáo, mang tư tưởng Đại thừa.

Kinh Dược Sư trình bày về thế giới của Phật Dược Sư Lưu Ly được xem là một trong những cảnh giới cực lạc, thanh tịnh, an lành, dưới sự hướng dẫn của chư Phật, Bồ tát, mọi người đều thực hành việc thiện, tu tập pháp thượng nhơn, làm lợi ích cho chúng sinh. 

Tuy nhiên, ngoài ý nghĩa mang tính phổ thông của niềm tin con người về “cầu chi được nấy”, mang đến cho con người sự an lạc, tiêu tai tiêu nạn, nhờ vào tha lực của Phật, Bồ tát; kinh Dược Sư còn thể hiện nét đặc trưng về một vị “Phật thầy thuốc” chuyên bắt mạch tìm ra tâm bệnh của con người và kê toa bốc thuốc để trị tâm bệnh của con người một cách hết sức hiệu quả. 

1. Bắt mạch tìm ra tâm bệnh của con người 

Trong cuộc sống xã hội ngày xưa cũng như ngày nay, khi con người cảm thấy hụt hẫng trước những sự kiện, biến cố trong cuộc sống như thiên tai, lũ lụt, chiến tranh, nạn đói, làm ăn thất bại, bị lừa gạt, gia môn bất hạnh, hạnh phúc tan vỡ…con người thường hướng về một đấng thiêng liêng, một tha lực hùng mạnh có thể che chở cho mình, người thân vượt qua khổ nạn, tật bệnh tiêu trừ. 

Trong nỗi khủng hoảng, lo sợ về tâm lý, con người không thể tự mình giải quyết hoặc không có phương thức để giải quyết những vấn đề nan giải trong cuộc sống, sự bế tắc trong lộ trình đau khổ dần dần tiến gần đến sự tuyệt vọng của bản thân và đó cũng chính là con người tìm về sự thanh thản, bình an, sự che chở, nhờ vào tha lực của đức Phật Dược Sư. 

Bởi lẽ, đức Phật Dược Sư là bậc thầy Từ bi, đức độ của mọi chúng sinh đang, đã và sẽ đau khổ trông chờ, nương tựa Ngài cứu khổ để họ có một niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng, một bầu trời an lạc, thoát khỏi cảnh nghèo cùng, bệnh tật, đều được Ngài chữa lành căn bệnh. 

Ngài đã phát mười hai nguyện lớn để cứu tất cả những con người đang đau khổ, chìm đắm trong thế giới mê muội, đang bệnh trầm kha tuyệt vọng. Một trong mười hai lời nguyện của Ngài thể hiện hết sức sâu sắc về tinh thần Từ bi, ứng xử nhân văn khi Ngài còn làm vị Bồ tát, 

Ngài đã phát nguyện: 

“Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, nếu những hữu tình, mắc mọi bệnh khổ, không ai cứu chữa, không chỗ nương thân, không người thân thiết, không cửa không nhà, bần cùng khốn khổ, một khi tên ta, nghe lọt vào tai, mọi bệnh đều hết, thân tâm yên vui, gia quyến tiền của, thảy đều sung túc, rồi tu đắc đạo, Vô thượng Bồ đề” . 

Tuy nhiên, câu chuyện ở đây không phải dừng lại, phản ánh một năng lực ngoại tại từ đức Phật trong việc thực hiện việc làm cứu độ con người của các Ngài, đó chỉ là hành động mang ý nghĩa biểu trưng và được xếp hạng “bậc hai”. Trong khi đó, cốt lõi của vấn đề mang ý nghĩa sâu xa hơn, rộng lớn hơn, đó là bắt mạch tìm ra “tâm bệnh” của con người trong cuộc sống như thế nào. 

Trong thực tiễn, một bác sĩ giỏi, một lương y tài năng, không phải là họ kê toa, cho uống thuốc thì gọi là một bác sĩ tài giỏi; mà yếu tố quan trọng nhất đó là tìm ra căn bệnh đúng với căn bệnh của người bị mắc bệnh để kê toa, uống thuốc. Cũng như vậy, lương y bắt mạch mà không nhận ra căn bệnh tiềm ẩn bên trong người bị bệnh, thì dù có kê toa, sắc thuốc uống hằng ngày, hằng tháng, hằng năm thì bệnh chỉ thêm nặng cho đến khi không còn hơi thở. 

Do đó, việc bắt mạch tìm ra nguyên nhân căn bệnh của thân thể con người là điểm mấu chốt trong phương pháp chữa bệnh có hiệu quả. Đó không phải là điều mới lạ, mà nó đã được thực nghiệm từ rất lâu, được áp dụng một cách có hiệu quả trong phương pháp trị liệu của đức Phật Dược Sư, Ngài được mọi người tôn kính với danh xưng “Phật thầy thuốc” trong lộ trình trị tâm bệnh cho con người. 

Đối với sự phát triển vượt bậc của khoa học, sự tiến bộ của y học ngày nay trong việc điều trị những căn bệnh của thân thể con người không phải là một vấn đề khó khăn về mặt y khoa. Song, căn bệnh về tinh thần, tâm lý của con người, lại là một vấn đề hết sức nan giải, đòi hỏi một bậc thầy có nhiều kinh nghiệm nội tâm mới đủ trình độ chẩn đoán và kê toa, bốc thuốc, thì bệnh mới mong uyên giản. Bậc thầy đó là đức Dược Sư Lưu Ly, Ngài quá tuyệt vời khi chỉ rõ căn bệnh trầm kha, lâu đời, khó trị của con người: 

“Tội cấu của chúng sinh rất nặng, bởi vì vô minh che tối, nên không hiểu nhân quả, không chuyên cần sám hối, cứ để cho tham, sân, si, tự do hành động, tạo các tội lỗi, nào sát, đạo, dâm, tội cấu vô biên, mà oan nghiệp cũng kết thành vô lượng, thế mà cũng không hay, không biết; tội lỗi càng ngày càng sâu nặng” . 

Chính vì con người không nhận thức được những yếu tố dẫn đến đau khổ, không làm chủ, kiểm soát được hành vi, hành động của chính mình nên con người loay hoay trong chuỗi ngày đau khổ. Nếu con người không thấy được “tâm bệnh” của chính mình, thì không có thuốc trị khỏi bệnh của tâm, không có vị Phật nào có thể cứu chúng ta thoát khỏi đau khổ. 

Cho nên việc đầu tiên đức Phật Dươc Sư cứu con người đó là tìm ra nguyên nhân, nguồn gốc sinh ra các tội lỗi của chính con người, từ đâu mà con người từ bỏ “tâm thiện” để sống với đời sống “bất thiện”. Từ đó, Ngài lên kế hoạch, tìm phương thuốc để cứu con người hết tâm bệnh trở thành người sống khoẻ mạnh với bản chất thiện, giúp ích cho mọi người và xã hội. 

(Còn tiếp)

 

*TT. TS Thích Lệ Quang – Trưởng Ban Giáo dục Phật giáo quận Tân Bình, Tp.HCM 

Tài liệu tham khảo:

1. Thích Huyền Dung (dịch), Kinh Dược Sư bốn nguyện công đức, NXB. Tôn giáo, năm 2013. 

2. Thích Trí Quang (dịch), Dược Sư kinh sám, ấn bản điện tử.

3. Tuệ Nhân – Thích Mật Trí (dịch), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, năm 2019.

4. Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 2, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988.

Chú thích: 

1. Tuệ Nhuận – Thích Mật Trí (2019), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, tr.30.

2. Tuệ Nhuận – Thích Mật Trí (2019), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, tr.101.

3. Tuệ Nhuận – Thích Mật Trí (2019), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, tr.122.

4. Tuệ Nhuận – Thích Mật Trí (2019), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, tr.124.

5. Tuệ Nhuận – Thích Mật Trí (2019), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, tr.125.

6. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.tr27.

7. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.tr140.

8. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.tr141.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phật học

Phương thuốc trị tâm bệnh trong Kinh Dược Sư (II)

Con người cần nên học theo phương pháp “bắt mạch và trị bệnh” của Phật Dược Sư, không phải là học theo cách lễ Phật Dược Sư như thế nào.

Phương thuốc trị tâm bệnh trong Kinh Dược Sư (I)

2. Phương thuốc trị lành tâm bệnh cho con người 

Kinh Dược Sư gửi một thông điệp đến tất cả mọi người về một lý tưởng độ sinh của đức Phật Dược Sư về một con đường tự mình giải thoát, tự mình giác ngộ, thông qua những nguyện lực, tha lực của đức Phật. Nó đánh thức con người nhận thức rõ bản chất của nội tâm, làm trỗi dậy chất liệu giác ngộ tiềm ẩn bên trong của chính con người, mà từ lâu chúng ta lãng quên, thờ ờ, lạnh nhạt, sống vô tình, vô nghĩa với chính bản thân chúng ta. 

Những đức tính cao cả, những phẩm chất tốt đẹp của con người được gợi mở, nhớ lại từ hình ảnh vị “Phật lương y” để chúng ta tự mình chuyển hoá tâm thức mình, làm sống dậy ông “Phật Dược Sư” của chính mình. Do đó, đức Phật Dược Sư chỉ cho con người thấy được cái bệnh tiềm tàng bên trong chúng ta đó là: 

“Bệnh tham, sân, si, tật đố; bệnh kiêu mạn, ngạo nghễ; bệnh không biết thiện ác; bệnh không tin tội phước; bệnh bất hiếu, ngũ nghịch; bệnh huỷ nhục Tam bảo…bệnh dầu gặp thầy thuốc cũng không nhằm; cho đến nhiều thứ bệnh tai nạn, lấn hiếp, huỷ nhục, buồn rầu, bức rức, thân tâm chịu khổ…”. 

Đối với căn bệnh trầm kha của con người quá sâu nặng, dù cho chuyên gia tâm lý tài giỏi như hiện nay cũng khó có thể trị lành bệnh, nếu có chăng cũng chỉ là một liều thuốc “an thần” nhằm trấn an tinh thần và lãng quên tạm thời trong cuộc sống. Mặt khác, nếu tìm đến sự lễ bái bằng hình thức, sự mong cầu từ hình tướng cũng không thể trị được tận gốc căn bệnh nan y của con người. 

Lễ bái, cúng kính bằng hình thức chỉ phản ánh một phần của niềm tin vào tha lực, mà không phản ánh được đúng bản chất của vấn đề cần giải quyết; muốn giải quyết được triệt để, rốt ráo, diệt trừ tận gốc “mầm bệnh” của tâm thức, thì cần một phương thuốc đặc trị và thuốc đó phải do chính “Phật thầy thuốc” kê toa, bốc thuốc, phù hợp với từng loại bệnh của con người. Mặc dù, Dược liệu có rất nhiều loại như: 

“Thuốc từ bi, hỷ xả, thuốc nhẫn nhục nhu hoà, thuốc chính tín Tam bảo, thuốc cần tu phước huệ, thuốc lục Ba la mật, thuốc cam lồ đầy đủ, thuốc mong cầu pháp vị, thuốc tu tâm dưỡng tính, thuốc phản bổn hoàn nguyên, thuốc có lỗi biết ăn năn, thuốc thiện xảo phương tiện, thuốc không động thanh sắc, thuốc thanh tâm đoạn dục…”. 

Phương pháp quán chiếu tâm là một trong những phương pháp hết sức đặc thù của Phật giáo, là nền tảng cốt lõi trong các pháp môn, tất cả vạn pháp đều xuất phát từ tâm.

Phương pháp quán chiếu tâm là một trong những phương pháp hết sức đặc thù của Phật giáo, là nền tảng cốt lõi trong các pháp môn, tất cả vạn pháp đều xuất phát từ tâm.

Tuy nhiên, không phải căn bệnh nào cũng phải sử dụng thuốc như nhau, phải tuỳ theo bệnh của con người có nặng, có nhẹ mà hoà trộn theo tỷ lệ phù hợp với tâm bệnh của họ. Cũng như một vị bác sĩ, một lương y tài giỏi bắt mạch kê toa phải phù hợp với bệnh lý; người bệnh nhức đầu, cảm sốt, không phải lúc nào cũng uống panadol, tylennol, mà phải khám, bắt mạch để chẩn đoán nguyên nhân của căn bệnh, nó xuất phát từ đâu, từ bệnh lý thông thường hay bị nhiễm bệnh từ virus, hệ thần kinh, não bộ có vấn đề hay không. 

Song, vấn đề ở đây là con người phải nhận thức rằng bệnh của chúng sinh là bệnh huyễn, thuốc là phương tiện trị lành căn bệnh, một khi bệnh đã lành thì không thể uống thuốc nữa, nếu uống thuốc tiếp tục thì người không bệnh sẽ trở thành bệnh và có khi bệnh càng nặng thêm. 

Do vậy, mô típ “xin – cho” hay “hữu cầu tất ứng” không phải là vấn đề cốt lõi trong trường hợp này. Bởi lẽ, đức Phật đã xác định rất rõ trong kinh: “Như Lai nói pháp chỉ là một tướng, một vị. Nghĩa là tướng giải thoát, tướng ly, tướng diệt, cứu cánh Niết bàn, chung quy đều về chơn không”. Tuy nhiên, chúng ta thường đi ngược lại, ưa thích những hình thức, xem trọng hình tướng bề ngoài hơn là bản chất của nội dung câu chuyện. 

Do vậy, mà Trần Thái Tông đã nói: “Phương tiện dẫn dụ đám người mê, con đường tắt sáng tỏ lẽ sinh tử, ấy là đại giáo của đức Phật”. 

Vì sự mê muội, chuộc hình thức, sự tướng bên ngoài nên chư Tổ, chư Phật, chư Bồ tát dùng phương tiện “pháp hội” để chỉ rõ “bản chất” bên trong bằng sự trình bày “hình thức” của nó. Do đó, nếu nói thẳng “nhất thừa thật tướng” thì mọi vấn đề sẽ đứng yên, phẳng lặng, không thể trình bày, sẽ không có “tăng, giảm, cấu, tịnh, thiện, ác, tội, phước, bệnh, thuốc”. 

Bởi vì, trong tự nhiên cũng như trong đời sống xã hội, thiên nhiên, vật chất, con người là sự vận động và phát triển, nó tuân thủ theo quy luật của sự vận động và phát triển của xã hội. Do vậy, phương tiện là chiếc đò đưa người sang sông, là nhịp cầu nối liền hai bờ mê – ngộ. 

Phương tiện như người chiêm bao thấy thân có bệnh cần phải cầu thầy thuốc trị lành căn bệnh. Nếu không dùng phương tiện, không dùng hình thức, biểu hiện hình tướng thì không thể thực hiện sứ mệnh cứu độ nhơn sinh. Phương tiện, hình thức bên ngoài cũng ví như giấc mơ trong chiêm bao, một khi thức dậy chúng ta sẽ không còn thấy hình tướng hiện ra trong mộng và thật sự chúng ta không có bệnh. Cái “không bệnh cũng không”, con người không bệnh thì cần gì thầy thuốc chữa bệnh? 

Do đó, pháp hội Dược Sư với hình thức là một đàn tràng trang nghiêm, thanh tịnh với đủ mọi lễ nghi được tổ chức cho tín đồ Phật tử ngày nay cung kính lễ bái, chiêm ngưỡng, cầu nguyện với tâm thành kính đối với đức Phật, Tam bảo, là một việc làm mang nhiều ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống, là niềm tin của tín đồ vào tha lực của đức Phật Dược Sư cứu lành vết thương lòng, chữa lành tâm bệnh của con người. 

Mặc dù vậy, chúng ta không nên phô trương “sức mạnh của hình thức”, chấp vào hình thức xem đó là một cứu cánh, là đại diện cho tư tưởng, triết lý thậm sâu của đức Phật về một lý tưởng tu tập để đạt đến giác ngộ. Điều đó, có thể làm chuyển hướng tư tưởng chủ đạo của kinh Dược Sư. 

Tư tưởng kinh Dược Sư phản ánh một đường lối tu tập hết sức nhiệm mầu, sâu sắc, hướng dẫn chúng ta tự mình thắp sáng ngọn lửa giác ngộ trong tâm, đào tạo, rèn luyện chúng ta trở thành một “thầy thuốc” của chính mình và có thể tự mình trị hết những căn bệnh, khúc mắc ẩn chứa, tiềm tàng trong nội tâm. 

Con người cần nên học theo phương pháp “bắt mạch và trị bệnh” của Phật Dược Sư, không phải là học theo cách lễ Phật Dược Sư như thế nào. Chúng ta thường bỏ “gốc” chạy theo “ngọn”, không thấy được cốt lõi của vấn đề, nên con người khổ đau và mãi mãi cũng chỉ là đau khổ. 

Câu chuyện ở đây là làm thế nào cho mọi người khai mở được chân lý, thường “khởi lòng từ bi, hỷ xả, bình đẳng; thường làm lợi ích an lạc, như thế nhiếp niệm chính quán, không đoạn kiết sử, không trú sử hải, quán sát các pháp không, như thật tướng” . 

Đặc biệt, điểm nhấn ở lời dạy của đức Phật là “các pháp không như thật tướng” là cốt lõi của vấn đề mà chúng ta cần giải quyết nó một cánh rốt ráo; cũng như chúng ta tìm được bệnh và hướng giải quyết, chữa lành căn bệnh đó như thế nào cho hết bệnh. 

Cho nên phương pháp tu tập theo kinh Dược Sư đó là quán chiếu nơi tâm mình, để thấy rõ “chân – vọng”, “thật – giả”, tâm nhân nơi đâu mà “có tâm” hoặc không nhơn nơi đâu mà “có tâm”? Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ dạy các thiền khách rằng “phản quang tự kỷ bổn phận sự” đó là nhiệm vụ mà người tu tập cần phải nhận thức, phải sống và thực hành cho thật tinh tường. 

Phương pháp quán chiếu tâm là một trong những phương pháp hết sức đặc thù của Phật giáo, là nền tảng cốt lõi trong các pháp môn, tất cả vạn pháp đều xuất phát từ tâm. Tâm là đầu mối của mọi tội lỗi, phiền não, đau khổ, sinh tử và cũng từ nơi tâm, con người giác ngộ được chân lý, giải thoát được những hệ luỵ đau khổ. 

Chỉ khi nào chúng ta triệt phá được đường dây “sinh tử” bằng một tấm gương “không pháp, không tâm” thì tội phước, sinh tử, Niết bàn vốn không có thật tướng. Cho nên trong kinh đức Phật dạy rằng: 

“Người hành giả không thấy tâm sinh tử đâu lại có tâm Niết bàn. Đã không có cảnh sở quán, cũng không có tâm năng quán, không thủ không xả, không nương không dựa, cũng không an trú nơi vắng lặng, vứt bặt sự nói năng không thể bàn cải, khi quán tâm không, thì tội phước không có chủ tể, tội phước tính nó vốn không, thì tất cả các pháp đều không, tâm vương tâm sở không, pháp không trú pháp” . 

Cho nên, nhiệm vụ của chúng ta là làm sao cho mọi người thấy được cái giá trị cốt lõi, thông qua các hoạt động, sự kiện mang tính hình thức, hình tướng bên ngoài. Điều đó có nghĩa là giữa lý luận và thực tiễn cần được triển khai một cách đồng bộ; đồng thời làm rõ nội dung của kinh, lời Phật dạy cho mọi người, thì việc tổ chức pháp hội, trai đàn mới mang một ý nghĩa hết sức sâu sắc. 

Phần lớn chúng ta chỉ chú trọng đến những điểm nổi bật của hình thức, sự phô trương của nét đẹp hình tướng hơn là nét đẹp của triết lý. Nét đẹp của một con người không nằm ở chiếc áo đẹp sặc sỡ, một thân hình đoan trang, mà nét đẹp con người phải chứa đựng những đức tính tốt, phẩm chất đạo đức, nhân cách sống, tinh thần lợi tha, sống có nghĩa có tình, có đạo lý làm người, phù hợp với truyền thống của một dân tộc. 

Do đó, đối với Phật giáo, hình thức chỉ là một khía cạnh nhỏ, là một phần của cuộc sống, nó không nói lên được tất cả ý nghĩa, triết lý sâu xa của Phật giáo. Cho nên, nếu không làm sống dậy chất liệu giác ngộ nơi con người, thì theo dòng thời gian, sự mai một của năng lực nội tại trong con người chúng ta sẽ không còn và khi đó mọi vấn đề về Phật pháp chỉ là hình tướng, là võ ngoài của một “thực thể” đáng tin cậy bị vùi sâu trong quá khứ. 

Tóm lại, kinh Dược Sư là một trong những bộ kinh thuộc Đại thừa Phật giáo. Nội dung của bản kinh truyền tải cho mọi người, tu sĩ, cư sĩ, tín đồ Phật giáo một thông điệp hết sức sâu sắc có ý nghĩa, triết lý cao siêu về giá trị cốt lõi của giáo lý Phật giáo. Ngoài sự biểu đạt về phương tiện, hình thức cúng bái, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng, tín ngưỡng của con người trong đời sống tinh thần. 

Kinh Dược Sư còn chỉ ra cách tiếp cận một phương pháp trị liệu về căn bệnh tâm lý của con người hết sức hiệu quả. Bắt mạch tìm bệnh và phương thuốc trị bệnh, là một liệu trình trong phương pháp trị tâm bệnh của đức Phật Dược Sư, mang đến cho con người một khát vọng tìm về chân lý hết sức sâu sắc. 

Đó là khát vọng về một con đường tự trị liệu cho chính mình bằng cách khơi dậy chất liệu giác ngộ của tự tâm, từ đó xây dựng lộ trình tu tập, rèn luyện bản thân, nhằm hướng đến một mục tiêu cao cả như kỳ vọng đặt ra trong cuộc sống, đó là hoàn thiện nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối sống tốt, giúp ích cho xã hội, sống vì tha nhân; đồng thời hướng tới đỉnh cao của chân lý giác ngộ, giải thoát. 

*TT. TS Thích Lệ Quang – Trưởng Ban Giáo dục Phật giáo quận Tân Bình, Tp.HCM 

Tài liệu tham khảo:

1. Thích Huyền Dung (dịch), Kinh Dược Sư bốn nguyện công đức, NXB. Tôn giáo, năm 2013. 

2. Thích Trí Quang (dịch), Dược Sư kinh sám, ấn bản điện tử.

3. Tuệ Nhân – Thích Mật Trí (dịch), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, năm 2019.

4. Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 2, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988.

Chú thích: 

1. Tuệ Nhuận – Thích Mật Trí (2019), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, tr.30.

2. Tuệ Nhuận – Thích Mật Trí (2019), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, tr.101.

3. Tuệ Nhuận – Thích Mật Trí (2019), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, tr.122.

4. Tuệ Nhuận – Thích Mật Trí (2019), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, tr.124.

5. Tuệ Nhuận – Thích Mật Trí (2019), Kinh Dược Sư và sám pháp Dược Sư, NXB. Tôn giáo, tr.125.

6. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.tr27.

7. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.tr140.

8. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.tr141.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phật học

Ma khẩu nghiệp

Ma khẩu nghiệp – Người tu thiền đời sau phải thận trọng nghiêm nhặt. Bởi loại cuồng chướng này, chẳng những làm cho chúng ta chẳng kiệm ngôn, dưỡng đức mà còn khiến cho tâm chúng ta tán lăng xăng.

Ma khẩu nghiệp – người tu thiền đời sau, phải thận trọng nghiêm nhặt. Bởi loại cuồng chướng này, chẳng những làm cho chúng ta chẳng kiệm ngôn, dưỡng đức, mà còn khiến cho tâm chúng ta tán động, lăng xăng.

Ma không phải là ma quỷ hiện hình mà những gì làm trở ngại trong sinh hoạt bình thường của chúng ta đều gọi là ma cả.

Hay trong công phu tu hành, những chướng duyên khiến cho chúng ta chùng chình không tiến được, đó là ma.

Tuy nhiên nói ma đây cũng là một cách nói.

Bởi khi còn thấy có phương tiện áp dụng tu hành, còn thấy những sự việc chung quanh để vượt qua… Còn thấy như vậy cũng chính là ma. Công phu đến chỗ rốt ráo thì không còn thấy có công phu gì hết.

Người này tự tại, làm chủ hoàn toàn. Không có ma quỉ nào thắng mình hay mình thắng nó nữa. Chỉ vì chúng ta chưa đạt đến trình độ ấy nên còn phải biện ma.

Biện ma để làm gì?

Để trong giai đoạn còn yếu chúng ta đủ lực tỉnh.

Tỉnh để nắm được cơ hội, phương tiện, nhân duyên tích cực và áp dụng trước. Bởi vì ta còn yếu, còn dở nên mới có sự lựa chọn như vậy.

Đối với những người đã triệt để thì có thể nói nắm cát biến thành vàng hay nấu cát thành cơm. Đối vối hạng người này, khỏi phải nói ma mị gì nữa, cảnh duyên nào cũng là phật sự.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Bất cứ những trở ngại nào cũng là điều kiện cần thiết để hoàn thành công phu.

Chúng ta nếu gặp trở ngại liền thụt lùi, gặp khó khăn thì không tiến được. Cho nên cái nhìn của chúng ta còn mang tính hời hợt bên ngoài.

Đến khi công phu vững vàng, có thực lực thì chúng ta vui vẻ trầm tĩnh trước mọi duyên thuận cũng như nghịch.

Giống như Thiện Tài đồng tử thấy mọi cây cỏ đều là thuốc cả.

Hiện tại con mắt của chúng ta còn trong cảnh vực nhị nguyên, trăm điều ngàn thứ ngổn ngang. Cho nên rất kỵ nói càng nói bướng. Mà phải hiểu chúng ta cần hạ thủ công phu trong từng phút giây, từng tâm niệm. Được vậy, sự tu hành mới mong thành tựu.

Ma này là cuồng chướng.Cuồng vì người này mờ mịt rối rắm, đảo loạn đến mức độ gọi là cuồng, rồi đi đến loạn.

Người tu mà chẳng kiểm điểm ngôn ngữ của mình, mặc ý cao đàm hùng biện, làm tổn thần lao niệm, sẽ mất thiền định chân chính.

Ở trên nói rằng loại ma cuồng chướng tức là đối với những người tu hành chẳng kiểm điểm được ngôn ngữ của mình, mặc ý cao đàm hùng biện, làm tổn thần lao niệm.

Chữ tổn tức là tổn hoài, lao là quá nhọc cho nên lao lự.

Nếu như tâm vững, tâm sáng, tâm làm chủ được thì chúng ta lại thành công từ những lao lự đó.

Nhân sao mà khẩu nghiệp có lỗi lớn như thế?

Bởi hay đàm huyền thuyết diệu, giảng giáo nói tông.

Khoe mình đắc ngộ, chê người ngu mê.

Luận chỗ hay dở, nói điều phải quấy của người.

Ngâm ca thi phú, nói bừa những việc không đâu.

Bình nghị những việc hưng phế xưa nay của quốc gia.

Xưa thì cho là người hiền mà ngu, nay thì bảo là người hung mà giỏi.

Toàn những việc chẳng dính líu gì về mình mà cứ gân cổ tranh luận.

Lại vô cớ khen chê việc hơn thua của người.

Phô diễn các cảnh dục lạc, khiến người sinh đắm trước.

Bàn cãi những chuyện bất bình, làm cho kẻ nghe phát phẩn.

Trước mắt thì công kênh đề cao, sau lưng lại chê bai biếm nhẽ.

Đó là những lời nói lợi hại làm mất chính định của người.

Người tu thiền đời sau, phải thận trọng nghiêm nhặt. Bởi loại cuồng chướng này, chẳng những làm cho chúng ta chẳng kiệm ngôn, dưỡng đức, mà còn khiến cho tâm chúng ta tán động, lăng xăng.

Thế nên những kẻ sơ cơ, phải ngừa phòng khẩu nghiệp của mình lắm lắm. Đây nêu lên câu hỏi nhân sao khẩu nghiệp có lỗi lớn như thế?

Lỗi lớn ở trên là một loại cuồng chướng khiến cho người tu hành không làm chủ được, cứ mặc tình cao đàm hùng biện… làm tổn thần lao niệm, mất chính định.Bởi hay đàm huyền thuyết diệu, điều này rất trở ngại cho việc tu hành của mình.

Bởi thường người ta nói được mà làm chưa được.Giống như có những thức ăn ngon mình diễn tả tỉ mỉ nhưng chưa hề được ăn.

Trong đạo lý rất kỵ loại ngôn ngữ chuyên diễn tả hình thức nhưng không tải nổi đạo lý.

Rõ ràng ngôn ngữ không tải nổi đạo lý.

Ví dụ quí vị ngồi thiền được an lạc thế nào, quý vị không làm sao dùng ngôn ngữ để diễn bày được những an lạc đó một cách trọn vẹn.

Có những lúc mình nhìn trời nhìn mây, thấy thống khoái vô cùng. Nhưng nói lại cho huynh đệ nghe thì nói không đến được. Hoặc có nói được thì người bạn mình cũng chưa chắc đã hiểu được.

Vì vậy trong nhà thiền có câu:

“Chẳng gặp kiếm khách thôi trình kiếm. Không phải nhà thơ chớ hiến thơ”.

Do đó những điều này chúng ta chỉ nói được với thầy mình thôi. Bởi vì thầy đã nắm được sở trường sở đoản, đường đi nước bước ra sao rồi…

Còn kẻ cứ cao đàm hùng biện thì không có lợi gì.

Chỉ làm loạn tâm mất chính niệm, mất thiền định mà thôi.

Tuy nhiên trong sáu điều hòa kính có hai điều “kiến hòa đồng giải, ý hòa đồng duyệt”.

Về tâm, chúng ta có những hiểu biết những nhận định hay thì huynh đệ có thể ngồi lại trao đổi, bàn bạc. Nếu ai còn yếu kém thì huynh đệ giúp nhau cùng tiến.

Bàn bạc như thế có lợi, nhưng nhớ cũng vừa phải thôi. Chớ cao hứng nói nhiều quá thành ra nói rỗng, cuối cùng chẳng có ích lợi mà còn bị hao thần tổn lực.

Giảng giáo nói tông.Khoe mình đắc ngộ, chê người ngu mê.Giảng kinh thuyết pháp mà khen chê thì cũng là một loại cuồng chướng.

Ví dụ phạm vi của chúng ta là tu thiền, cho nên chỉ cần bàn bạc đi sâu vào phạm vi của mình thôi. Nói thiền, suy nghiệm lý giải thiền, mà để cho vọng tưởng, ngôn ngữ cuồng loạn phóng qua các tông khác đã là có lỗi rồi.

Huống lại không có sở trường mà còn gây sự lỉnh kỉnh bất hòa, tổn thương đến các tông phái thì thật là họa lớn. Cho nên chúng ta phải dè dặt kiệm ngôn đối với những việc bàn luận bên ngoài. Đừng để mất thì giờ và gây hại vô ích như thế.

Luận chỗ hay dở, nói điều phải quấy của người.

Ngâm ca thi phú, nói bừa những việc không đâu. Lại có những người văn hay chữ tốt, theo sở trường đó rồi ngâm vịnh. Cả ngày ngâm vịnh, ngâm giỏi thì ra thi, tán tụng, ca ngợi… đều không hợp với tinh thần thanh tịnh giác ngộ. Nói những đều không đâu, không căn cứ.

Bình nghị những việc hưng phế xưa nay của quốc gia.

Đây là nguy cơ.

Có một vị tăng tu thiền trong rừng sâu rất cam khổ. Trải qua đôi ba năm như vậy, vị này thấy mình có chút tự tại. Bấy giờ những người đi rừng lấy củi mới gặp vị Tăng này. Thầy nói chuyện gì cũng đúng với các sự việc xảy ra. Không bao lâu, tiếng lành đồn xa, mọi người kéo vào rừng tìm thầy. Quả thật ông thầy nói gì cũng siêu xuất hết.

Thiên hạ ùn ùn đem thức ăn lên cho thầy. Thầy khỏi phải đi kiếm thức ăn nữa, chỉ ngồi đó mà nói đạo lý…

Cuối cùng thầy động đến chuyện các nhà lãnh đạo quốc gia. Ông này hay, ông kia dở… Nói một thời gian thì thấy quân lính áp lại bắt thầy.

Người ta nói thần khẩu hại xác phàm là vậy.

Nhân vô thập toàn, dù anh thông minh cỡ nào, là thần đồng chăng nữa cũng chỉ khôn ngoan trong một phạm vi giới hạn thôi, chứ không thể biết hết trùm đời.

Chính đức Phật sau khi giác ngộ, Ngài không nói ta là chúa tể gì cả. Ngài chỉ bảo: Ta thấy chúng sinh qua lại trong nhiều đời, như người ngồi trên cao nhìn xuống ngã ba đường thấy mọi thứ sinh hoạt rõ ràng. Vậy thôi.

Xưa thì cho người hiền mà ngu, nay thì bảo người hung mà giỏi.

Tuy nói như thế nhưng chỗ ngu, hiền, hung, giỏi cũng không phân định được.

Bây giờ khoa học tiến bộ, người ta phát minh điện tử cho tới năng lượng, hoặc vượt ngoài năng lượng. Chúng ta không thể phủ nhận được sự thông minh, học hỏi đó của con người. Nhưng cũng không nên vì thế mà ta những lời cả quyết không hay. Bởi vì thời nào cũng có người hiền kẻ dữ cả.

Tóm lại không có gì hoàn toàn, nghiệp riêng, chủng tử riêng, nên mỗi cái nhìn cũng riêng khác. Kiến giải, tập tục và sự giáo dục của mỗi người không ai giống ai.

Chỉ có Phật mới nhìn thấy thấu suốt được tất cả. Phật nói mỗi chúng sinh đều bị chướng nghiệp tập khí che lấp nên không nhận ra được chân tính của mình.

Mà chướng nghiệp tập khí tự mình gầy dựng từ thân, miệng, ý của mình chứ không ai khác. Cho nên hình tướng mỗi người, không ai giống ai. Quan niệm, tư tưởng cũng vậy, không ai giống ai.Từ đó mà có kiến chấp cố thủ cái của mình là hơn hết. Vì vậy, trước mắt chúng ta phải tu cái miệng của mình cho kỹ.

Lại vô cớ khen chê việc hơn thua của người, phô diễn các cảnh dục lạc, đây là một cái nguy. Khiến người sinh đắm trước, bàn cãi những chuyện bất bình, làm cho kẻ nghe phát phẩn.

Ngày nay, có những điệu nhạc hay các hình tượng phô diễn cảnh dục lạc, chúng ta không nên theo những loại như vậy.

Trên mặt nhị nguyên cần phải chọn lựa nơi thanh tịnh để trang nghiêm đạo hạnh trước.

Là Thiền sinh, chúng ta bước vào cửa thiền, sống trong nhà thiền, học tập với Thiền sư, thì không được tiếp cận các thứ tạp nhạp bên ngoài. Lo trưởng dưỡng đạo tâm, sống được với ông chủ của mình rồi thì, sau đó tiếp cận với ngoại cảnh trần mới không sợ nó rùa quyến kéo lôi. Người tỉnh táo sáng suốt đòi hỏi phải có sự lựa chọn như thế.

Tóm lại, khẩu nghiệp là loại ma chướng làm trở ngại việc tu hành của chúng ta, nên cần phải thận trọng.

Trích trong: Mười Điều Biện Ma

Phước huệ song tu

Có người chỉ thích làm phước, gieo nhân giàu sang sung túc chứ không thích gieo nhân trí tuệ. Bởi họ nghĩ rằng gieo nhân giàu sang thì dễ làm hơn. Chỉ cần bỏ tiền của ra bố thí, làm các việc từ thiện thì sẽ được phước báo.

Còn muốn có trí tuệ thì phải học, phải tu, phải trau giồi kiến thức, siêng thực hành Văn, Tư, Tu, khó hơn.

Do nhận thức như thế mà chỉ lo gieo trồng ruộng phước để trong hiện tại và tương lai có được tài sản của cải, đời sống vật chất sung mãn. Quan niệm như thế, theo Chánh pháp thì chưa được trọn vẹn.

Có thể trong những đời trước, người đó đã gieo những nhân tạo phước báo to lớn mà đời này được giàu sang dù người đó không thông minh, không giỏi giắn, không có tài năng, bản lĩnh gì cả; người ấy nhờ gặp cơ hội, dịp may (do nhân duyên phước báo mà có), hoặc nhờ thừa hưởng tài sản của ông bà cha mẹ để lại, hoặc nhờ người khác giúp đỡ mà được giàu sang (cũng do nhân duyên phước báo mà có). Tuy nhiên, muốn giữ được cơ ngơi, sự nghiệp, muốn giữ được tài sản đó lâu bền thì cần phải có trí tuệ.

Không có trí tuệ mà có được phước báo lớn, trường hợp này không nhiều. Phần lớn người có trí tuệ mới có phước báo, bởi vì có trí tuệ mới biết cần nên gieo nhân nào, cần có những duyên gì hỗ trợ mới có được phước báo như mình mong muốn, và làm cách nào để giữ được phước báo đó lâu bền. Người giàu sang lâu bền không phải chỉ nhờ phước báo đời trước hay phước báo trong quá khứ đời này, mà chủ yếu do người ấy có trí tuệ, biết tiếp tục gieo nhân, gieo duyên để ruộng phước ngày càng sinh sôi nảy nở.

Chẳng hạn như họ biết cúng dường, bố thí đúng pháp để tạo phước, biết chăm chỉ học tập cầu tiến, cần mẫn siêng năng làm việc, biết giữ gìn tiền của, chi tiêu hợp lý, không tiêu xài hoang phí, khéo tính toán làm ăn để cho đồng tiền sinh lợi, và làm ăn hợp pháp để sự nghiệp vững bền v.v… Nếu như không có trí tuệ làm sao biết cách tạo ra tiền một cách hiệu quả và hợp pháp, biết cách làm giàu và duy trì sự giàu sang đó.

Không có trí tuệ họ sẽ không biết những nhân nào, duyên nào nên gieo và những nhân nào, duyên nào không nên gieo. Nếu người đó gieo nhân phá sản, ví dụ như tiêu tiền hoang phí, làm ăn thất bại, thua lỗ do thiếu kinh nghiệm và hiểu biết, không có trình độ chuyên môn, không có kế hoạch, sách lược, không nắm bắt tình hình thời cuộc, không nâng cao trình độ, tay nghề để đáp ứng nhu cầu công việc trong tình hình mới; hoặc họ gieo nhân gây ảnh hưởng, trở ngại cho sự giàu sang, chẳng hạn như cờ bạc, rượu chè, hút xách, ăn chơi trác táng, nghiện ngập khiến cho hao tán tiền của, cơ thể bệnh tật vừa không thể làm việc lại phải mất nhiều tiền cho chi phí thuốc men; chơi với bạn bè xấu nên bị lừa gạt, chiếm đoạt của cải, bị xúi giục làm bậy… sẽ khiến cho lâm vào cảnh tổn tài, phá sản, tù tội. 

Người có phước báo mà không có trí tuệ đôi khi tự làm hại chính bản thân mình, họ làm cho cái phước báo mà họ có được trở thành tai họa mà họ không ngờ. Ví dụ có nhiều tiền của không cần phải lo nghĩ nhiều thường sinh tâm thụ hưởng, tiêu xài phung phí vì không phải làm lụng cực khổ tạo ra tiền, dễ dàng có được tiền của nên không biết quý trọng. Có lắm của nhiều tiền dễ sinh những thói hư tật xấu nếu như không biết kiềm chế bản thân, không thường kiểm điểm mình, không quan tâm trau giồi phẩm chất đạo đức và thường dễ sinh tâm ỷ lại, ý chí, nghị lực cùn mòn.

Nếu có phước báo mà không có trí tuệ sẽ bị giới hạn nhiều mặt. Lúc gặp những khó khăn trong đời sống như những khó khăn trong công việc, trong giao tiếp ứng xử, trong quan hệ tình cảm giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa bạn bè, đồng nghiệp với nhau, những khó khăn đòi hỏi phải có kiến thức hiểu biết, đòi hỏi phải có kỹ năng làm việc, kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng sống v.v… thì dù cho có tiền của nhiều cũng không giải quyết được, vì không phải chuyện gì cũng có thể giải quyết bằng tiền bạc.

Như thế thì phước báo không quan trọng? Người kém phước báo nhưng có trí tuệ vẫn có được an vui hạnh phúc nếu khéo sống, khéo tu tập, nếu có quan niệm sống và lối sống tích cực. Tuy nhiên, muốn có một đời sống lý tưởng, có nhiều cơ hội để tu tập và tạo thêm nhiều công đức, phước báo cho mình, muốn phát huy bản thân và làm lợi ích cho nhiều người, lợi ích cho nhân quần xã hội, cho chúng sinh thì cần phải có cả trí tuệ và phước báo. Nếu chỉ có một trong hai thì khả năng bị giới hạn, đời sống mất đi nhiều giá trị, ý nghĩa.

Đức Phật không chỉ khuyên các đệ tử chăm lo tu huệ (trí tuệ), mà còn khuyên các đệ tử chăm lo tu phước, đó là phước huệ song tu.

Đức Phật không chỉ khuyên các đệ tử chăm lo tu huệ (trí tuệ), mà còn khuyên các đệ tử chăm lo tu phước, đó là phước huệ song tu.

Ví dụ như khi gặp một người đang đói khát trên đường đi mà chúng ta không có tiền trong túi, cũng không có thức ăn mang theo bên mình, thì chúng ta không thể giúp người đó vượt qua cái khổ đói khát. Chúng ta có thể dùng lời nói khéo léo để thuyết phục người khác giúp người đó, hoặc tự mình kiếm ra tiền hay thức ăn để giúp người đó, nhưng phải mất một thời gian. Nhưng nếu trong túi chúng ta có sẵn tiền thì ta có thể mua thức ăn giúp người đó no bụng tức thì. Trong lúc họ đang đói khát, đang cần thức ăn thức uống, chúng ta không thể khuyên họ học tập, tu hành, không thể khuyên họ làm phước, bố thí để gieo nhân giàu sang, để trong tương lai được an lạc hạnh phúc. Phải giúp họ no trước đã, sau đó mới khuyên họ học tập, làm việc, khuyên họ tu hành, làm các việc thiện.

Nếu không có điều kiện về vật chất, chúng ta sẽ bị hạn chế khi hành các thiện pháp, chúng ta khó thực hành đầy đủ, trọn vẹn các pháp bố thí gồm có tài thí, pháp thí và vô uý thí; chúng ta không thể cúng dường, ấn tống kinh sách, dựng chùa, tạo tượng, xây dựng các đạo tràng tu học, ủng hộ tứ sự cho Tăng Ni tu hành, trợ duyên cho Tăng Ni hoằng pháp; chúng ta không thể tạo dựng hoặc đóng góp về vật chất cho các chương trình từ thiện, các công trình công ích, an sinh xã hội.

Trong đạo Phật thường khuyên chúng ta nên trang bị cho mình đầy đủ trí tuệ và phước báo, đó là tư lương, là hành lý cần thiết. Các vị Phật và Bồ-tát đều có đầy đủ trí tuệ và phước báo, chính vì thế mà các vị ấy có khả năng rộng độ chúng sinh.

Đức Phật không chỉ khuyên các đệ tử chăm lo tu huệ (trí tuệ), mà còn khuyên các đệ tử chăm lo tu phước, đó là phước huệ song tu. Mỗi ngày Đức Phật và các vị đệ tử đi trì bình khất thực chính là muốn tạo nhân duyên lành với chúng sinh, muốn tạo cơ hội cho chúng sinh gieo trồng ruộng phước, đồng thời tùy duyên thuyết pháp hóa độ. Chúng sinh phát tâm cúng dường cho Đức Phật và các vị Tỳ-kheo là tạo phước báo cho chính mình, nghe giáo pháp để phát triển trí tuệ, áp dụng vào đời sống làm tăng trưởng thêm phước báo và có được an lạc hạnh phúc trong hiện tại cả tương lai.

Đức Phật dạy ba môn học Giới, Định, Tuệ dạy Văn, Tư, Tu để trau giồi trí tuệ, dạy hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Bên cạnh đó Đức Phật cũng dạy nhiều bài kinh giúp hàng đệ tử tu phước.

Trong Tăng chi bộ kinh I (chương V, phẩm Sumanà) có ghi lại cuộc vấn đáp giữa Đức Phật và một vị công chúa như sau:

Vị công chúa tên Sumanà bạch hỏi Phật rằng, nếu có hai đệ tử của Phật có niềm tin (tín) chơn chánh, thanh tịnh, có giới đức (giới) và trí tuệ ngang bằng nhau, nhưng một người có hành hạnh bố thí, một người không có hành hạnh bố thí. Sau khi thân hoại mạng chung, cả hai vị ấy được sinh lên cõi trời hoặc sinh trở lại cõi người, thì giữa hai vị ấy có sự khác biệt gì không? Đức Phật đã trả lời rằng: Có sự khác biệt. Đó là, dù sinh lên cõi trời hay sinh trở lại cõi người, thì người có tu hạnh bố thí vẫn vượt trội hơn người không có tu hạnh bố thí về thọ mạng, nhan sắc, an lạc hạnh phúc, danh xưng và tăng thượng (tăng lên, thêm hơn những điều tốt lành, dễ thành tựu các thiện pháp).

Lời dạy của Đức Phật cũng chính là lời giải thích tại sao có hiện tượng hai người cùng làm một công việc giống nhau mà người này thành công còn người kia thất bại, bởi vì họ chênh lệch nhau về phước báo và trí tuệ. Có trình độ chuyên môn, năng lực nghề nghiệp như nhau, nhưng người này làm việc gì cũng có người ủng hộ, trợ duyên, còn người kia có kêu gọi, vận động, nhờ vả thế nào cũng không được sự nhiệt tình hưởng ứng.   

Tóm lại, phước huệ song tu là biện pháp trang nghiêm tự thân để đời sống hiện tại và tương lai được nhiều an lạc hạnh phúc, mọi việc làm gặp nhiều thuận duyên, thắng duyên. Không nên có quan niệm chỉ cần tu phước hoặc chỉ cần tu huệ, vì như thế là tự mình đánh mất cơ hội làm cho đời sống có đầy đủ ý nghĩa và hữu ích, đánh mất cơ hội tạo nguồn hạnh phúc vững bền cho hiện tại và tương lai.

Hạnh phúc có phải là sự vắng bóng phiền não?

Nhiều người hiểu nhầm rằng hạnh phúc là sự vắng bóng phiền não. Thật ra hạnh phúc không phải là mặt trái của khổ đau, mà ngay trong chính cuộc sống khó khăn này ta vẫn có thể tìm được hạnh phúc chân thật.

Lúc này, bạn có thể thấy điều này dường như phi logic nhưng thông qua thực hành tâm linh, bạn sẽ cảm nhận được điều này là đúng.

Điều quan trọng là chúng ta phải giữ được tâm tích cực, nhận ra hạnh phúc ngay trong những khó khăn, căng thẳng đó. Hãy biết nuôi dưỡng động cơ tốt đẹp trong mọi việc mình làm, tìm thấy hạnh phúc trong việc giúp đỡ mọi người, ngay cả khi trên hành trình này, bạn gặp chướng ngại khó khăn, cả lúc thành công cũng như khi thất bại. Ở nghĩa địa người ta thường viết tên và năm sinh, năm mất trên tấm bia mộ. Nếu giữa năm sinh năm mất bạn có thể làm rất nhiều việc đóng góp cho hạnh phúc của mọi người và tất cả chúng sinh thì đó là một cuộc sống đầy ý nghĩa, tràn đầy hạnh phúc ngay giữa khổ đau. Nếu không, nó chỉ là một “cái gạch” giữa 2 con số.

flower-snow-flowers-beautiful-winter-nature-wallpaper-ios-8

Chúng ta học hỏi và trưởng thành qua khổ đau

Đôi khi, hạnh phúc bị cho là không tưởng, thiếu thực tế, chỉ để che đậy những đau khổ, gian nan có thật trong cuộc sống này. Chính vì vậy, chúng ta nên học cách nhận biết rõ tất cả mọi cảm xúc từ tích cực đến tiêu cực của mình và dũng cảm nhìn thẳng vào bản chất thay vì cố tình phớt lờ chúng. Điều này vô cùng quan trọng. Nếu không hiểu rõ những phiền não, khổ đau của bản thân thì thứ hạnh phúc mà ta trải nghiệm chỉ là hời hợt giả tạo, chẳng khác nào lớp phấn phủ bên ngoài mà không thể chữa lành vết thương.

Các bạn có thể thắc mắc liệu một người ở cương vị như tôi thì biết gì về phiền não khổ đau. Một tu sỹ cả đời ẩn tu trên núi cao hay trong sơn động làm sao có thể hiểu được những gì đang thực sự xảy ra trên thế giới này? Tôi luôn tri ân từng ngày trôi qua trong cuộc đời, nhưng điều đó không có nghĩa rằng trong chừng ấy ngày, lúc nào cuộc sống của tôi cũng ngọt ngào êm đẹp. Khi chưa đầy bốn tuổi, tôi đã rời gia đình để bắt đầu quá trình đào tạo nghiêm ngặt tại môi trường tự viện. Rất lâu tôi mới được gặp mặt cha mẹ và đôi khi tôi cũng bị phạt nghiêm khắc. Theo dòng thời gian, nhiều bậc thầy kính yêu của tôi cũng đã ra đi. Giờ đây tôi đang đảm đương trọng trách lãnh đạo toàn bộ hệ thống hàng trăm tự viện, ni viện và trường học trong khu vực Himalaya.

Chia sẻ như thế để bạn không lầm tưởng rằng tôi chưa từng nếm trải những tháng ngày khó khăn hay chẳng hề có gánh nặng nào trong tâm. Mặc dù vậy, đối với tôi, tất cả những buồn đau hay khó khăn ấy đều là những món quà của hạnh phúc. Chúng giúp tôi thêm tri ân cuộc sống, nhắc nhở tôi về mục đích đến với cuộc đời này đồng thời cũng tiếp thêm năng lượng cho tôi trong các công việc Phật sự. Đối với tôi, chúng đều là những bài học vô giá về Bồ đề tâm và lòng từ bi.

Oai nghi và giới luật

Luật tức là Tỳ-ni, gồm oai nghi và giới luật, là bước đầu cho người mới vào đạo thực hành để ngăn ngừa tội lỗi, nên gọi là nhằm sửa mọi điều dở tệ. Ban đầu, tâm người mới vào đạo giống như con trâu hoang, nếu không có giới luật kềm giữ thì nó mặc tình ăn cỏ mạ của người.

Cho nên phải biết giới luật để giữ gìn ngăn ngừa, do đó không nên xem thường phép tắc oai nghi.

Người thọ giới Sa-di phải học 24 oai nghi và 10 giới.

Tỳ-kheo thì có 250 giới, 3.000 oai nghi và tám muôn tế hạnh.

Giữ kỹ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, coi như từng cử chỉ hành động đều phải làm trong sự kiểm soát, chứ không để buông lung, mặc tình thô tháo.

Cho nên ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh là mỗi cử chỉ, mỗi hạnh động đều sống theo luật, có sự kiểm soát.

Đừng nghĩ người tu thiền không cần thiết đến những hình thức oai nghi bên ngoài, trong khi tâm vẫn còn thô động chưa kiểm soát được, lại không lo giữ gìn những hình thức, oai nghi thì càng thô động thêm, nhiều khi chúng ta tự dối mình dối người mà không hay.

Oai nghi nhà Phật

68850774_955815601435920_3756853295910486016_n

Chính ngay như tôi lúc ban đầu mới vào đạo cũng học thuộc lòng các bài kệ trong Tỳ-ni Nhật dụng và ứng dụng thực sự trong các hành động, thấy có lợi ích thức tỉnh rất nhiều.

Ngày nay, quý vị Sa-di vào đạo nhiều khi cũng làm biếng học, có vị học để về sau đến khi thọ giới mà tụng luật nhưng chắc cũng không có sử dụng.

Ý chư Tổ nhắc chúng ta trong mỗi hành động là phải đọc bài kệ có ý nghĩa với hành động đó.

Như ngủ dậy vừa bước xuống giường đọc một bài kệ, rửa mặt đọc một bài kệ, đi vệ sinh đọc một bài kệ…, nhờ vậy tâm mình nhớ thu thúc trở về khiến tỉnh giác.

Như vừa thức dậy muốn bước chân xuống phải lo đọc bài kệ không vội vàng đặt chân xuống, còn chúng ta nhiều khi bước xuống cái cụp, làm người nằm bên giựt mình, đó là thiếu oai nghi.

Vào nhà vệ sinh cũng vậy, tức là mỗi mỗi hành động đều có bài kệ đọc theo giúp thu thúc tâm trở về khiến tỉnh giác, trợ duyên cho định tâm sau này.

Cho nên, Tỳ-ni có lợi ích rất lớn chứ không phải nhỏ.

Tôi thực hành thấy có ý nghĩa, có kết quả rõ ràng.

Nếu chúng ta thực hành với cả một tâm chân thành thì giúp tâm dễ an định dễ tập trung trở lại.

Còn nếu cứ hành động thoải mái, thành ra thô động rồi tâm cũng buông lung.

Nay nhìn lại thấy đa số huynh đệ có phần hơi xem thường thiếu sót về oai nghi không ít.

Cả những vị lớn lớn có khi cũng còn thiếu cũng mắc phải nữa, đây là điều cần xét lại.

Thí dụ Tỳ-kheo vừa đi vừa chạy thì mất oai nghi rồi, tức là lúc đó tâm không có kiểm soát.

Còn nếu mà nhớ lại, vừa muốn bước chân chạy thì phải nhớ mình là Tỳ-kheo phải có oai nghi.

Rồi Tỳ-kheo mà ngồi tréo chân chữ ngũ thì lúc đó tâm mình chắc đi đâu rồi, hoặc ra đường chen lấn với người thế tục hoặc là mắt liếc đông, liếc tây thì đúng là hết oai nghi cũng thiếu tu tập, còn có tu tập thì lúc đó phải có kiểm soát.

Đúng theo luật thì các vị Tỳ-kheo đi phải mắt ngó xuống không quá tầm mắt, không được ngó qua ngó lại, liếc đông, liếc tây.

Ngày nay phương tiện nên phần nhiều đi xe, thì ông thầy chạy xe cũng phải có oai nghi của ông thầy, cho nên người nào đi với tôi, tôi thường hay nhắc chuyện đó.

Bởi vì mình là ông thầy, chạy xe thì phải có phong cách khác với người thế tục, tức là có tư cách của người tu.

Tôi thì có duyên ngồi trên xe do nhiều người lái, như cả quý huynh đệ xuất gia tu hành mà luôn cả những người đời nữa.

Tôi thấy có những người đời họ chạy xe thật là trầm tĩnh, đằm thắm hơn là người tu nữa.

Do đó chúng ta phải biết để tự mình có sự kiểm soát lại.

Nếu Đức Phật còn sống thì thế nào Ngài cũng phải chế luật cho những vị nghe điện thoại di động, những vị lái xe, chắc chắn như vậy, vì thời Phật không có những thứ đó nên Ngài không chế luật.

Đây Tổ Quy Sơn nhắc là Phật trước chế ra luật để mở mang cho kẻ mới vào, có phép tắc oai nghi sạch như băng tuyết.

Rồi phải thông cả những phép “chỉ trì tác phạm”, dùng để kềm giữ sơ tâm của mình không chạy lung tung, và để ngăn ngừa tội lỗi.

“Chỉ trì”, chữ chỉ là dừng, trì là giữ.

Dừng lại không làm thì đó là trì giới.

Thí dụ mình không sát sanh thì đó là trì giới.

Không nói dối là trì giới.

Còn “Tác phạm”, là làm tức phạm.

Nói dối là phạm, gọi là tác phạm…

Chúng ta phải thông những phép đó để lo giữ giới; cái nào làm là phạm tội, phải biết để ngăn dừng.

Nếu không thông, nhiều khi phạm giới không hay rồi biện luận để bào chữa.

Cho nên, các Ngài nhắc người xuất gia phải biết học cho thông.

Đó là nói về giới Thanh Văn.

Đối với Bồ-tát có khi dừng là phạm, mà làm mới là trì.

Thí dụ thấy người ta khổ mà không cứu là phạm, còn giúp đỡ mới là trì.

Chúng ta cần phải hiểu những phép đó để làm không sai.

Tổ dạy: “Từng điều luật nhỏ nhặt, nhằm sửa mọi điều dở tệ”, tức là Tỳ-kheo phải giữ 250 giới, mỗi điều giới nhằm ngăn một lỗi tức là sửa một điều dở tệ.

Hiểu rồi thì phải học những phép tắc oai nghi, giới luật cho thông suốt, để không lầm tạo tội mà không hay.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cần tỉnh sáng để giữ trở lại nơi tâm của mình, đó mới là chính yếu.

Giữ giới là giữ nơi thân, nhưng gốc là giữ nơi tâm mới là chỗ chính.

Tóm lại, bước đầu vào đạo thì giới luật là hàng rào để ngăn ngừa tội lỗi, cho nên người xuất gia không được xem thường.

Trích trong: Quy Sơn Cảnh Sách Dịch Giảng. 

Tham đắm mùi vị

Muốn tu cái mũi và cái lưỡi thì hãy bắt đầu bằng tuệ giác về ẩm thực, nên ăn uống những gì cơ thể cần hơn là thọ dụng những gì mà chúng ta thích để tiết chế tâm tham đắm mùi vị.

Ấy vậy mà trong pháp thoại dưới đây, Thế Tôn nói việc tu hành nghe sao khá dễ. Dễ đến mức là trong vô số phiền não, người tu chỉ cần diệt một pháp thôi thì sẽ đắc thần thông, thành A-la-hán. Pháp đó chính là diệt trừ sự tham đắm mùi vị. Bình tâm để lắng nghe Thế Tôn dạy về pháp tu đơn giản mà kết quả thật diệu kỳ:

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Hãy diệt một pháp, Ta sẽ chứng cho các thầy thành quả thần thông, các lậu được dứt. Thế nào là một pháp? Ðó là tham đắm mùi vị. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy diệt sự tham vị này, Ta sẽ chứng cho các thầy thành quả thần thông, các lậu được dứt.

 Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ: Chúng sanh đắm vị này/ Chết đọa trong đường ác/ Nay nên xả dục này/ Liền thành A-la-hán.

Thế nên, các Tỳ-kheo thường nên xả bỏ ý tưởng tham đắm vị này. Như vậy, các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Lợi dưỡng, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.153) 

Phật dạy sáu pháp không thối đọa

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Lời bàn: 

Thì ra, tu tập không nhất thiết là ngồi thiền nhập định, cũng không cứ là niệm Phật nhất tâm… mà có thể tu ngay nơi cái mũi và cái lưỡi của mình. Pháp tu này còn gọi là tu căn, tức làm chủ các giác quan. Mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị mà tham đắm khởi lên thì sẽ hướng chúng sanh đi vào đường ác. Ngược lại mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị mà không tham đắm thì tự khắc được thảnh thơi, giải thoát.

Nói đến mùi vị thì đầu tiên chúng ta nghĩ ngay đến đồ ăn thức uống mà mình thọ dụng hàng ngày. Dĩ nhiên ăn món lạ và ngon thì ai cũng thích nhưng quá nuông chiều theo sở thích mùi vị đã khiến cho nhiều người phải khổ nhọc. Điều quan trọng là mùi thơm và vị ngon của một số món ăn đôi khi lại không liên quan gì đến dinh dưỡng mà cơ thể chúng ta thật sự cần. Cho nên, người không có tiền để ăn rồi suy dinh dưỡng, bệnh tật thì đã đành nhưng người thừa tiền ăn uống thoải mái rồi sinh bệnh cũng không phải ít.

Muốn tu cái mũi và cái lưỡi thì hãy bắt đầu bằng tuệ giác về ẩm thực, nên ăn uống những gì cơ thể cần hơn là thọ dụng những gì mà chúng ta thích để tiết chế tâm tham đắm mùi vị. Người tu thường ăn ít (có người chỉ ăn một bữa trong ngày), chỉ vài món đạm bạc nhưng nhờ họ ăn chậm, nhai kỹ và chú tâm nên tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng tốt.

Với người tu, cách ăn quan trọng hơn cả món ăn. Ẩm thực là lễ nghi, có cả một Nghi thức Quá đường đàng hoàng rất trang nghiêm và cẩn mật. Cách ăn này thật chậm rãi trong yên lặng hoàn toàn, ăn với chánh niệm cao độ, cảm nhận rõ ràng những hương vị thiên nhiên tinh khiết của thực phẩm đồng thời biết ơn sâu sắc những người đã dày công tạo ra thực phẩm cho mình. Người biết cách ăn uống có chánh niệm như vậy thì sự tham đắm mùi vị được loại trừ.

Mặt khác, mùi và vị không đơn giản chỉ hạn cuộc nơi đồ ăn thức uống mà còn nhiều thứ khác nữa. Nói chung những gì mà mũi và lưỡi cảm nhận và yêu thích đều gọi là hương trần và vị trần. Tùy theo nghiệp của mỗi người mà có sự tham đắm về mùi và vị khác nhau. Mùi thơm của thực phẩm, hoa trái cây cỏ, hương liệu; mùi của người nam (nữ); mùi hương của ký ức (tâm tưởng)… chính là hương dục. Vị cũng vậy, vị ngon ngọt, vị cay đắng, vị nồng nàn… tất cả hương và vị dục đều khiến cho con người tham đắm, không dứt ra được.

Thực ra thì hương và vị vốn không có lỗi. Lỗi ở chỗ tâm chúng ta tham đắm và dính mắc vào hương trần và vị trần. Nên phải duy trì chánh niệm thường trực để ngửi hương biết rõ mùi mà không say, nếm vị biết rõ vị mà không đắm. Nếu làm được vậy thì chúng ta “xả dục”, dù sống trong hồng trần mà chẳng vướng bụi trần. Căn thanh tịnh thì chắc chắn nghiệp thức sẽ thanh tịnh, đây là cơ sở của “thành quả thần thông, các lậu được dứt, thành A-la-hán”.

Dù nắm tay thật chặt cũng chỉ giữ được hư không

Nếu “được tài vật mà che giấu, không biết chán đủ” thì mất phước. Mình và người thân không được hưởng thành quả lao động mà đáng ra tất cả phải được hưởng. Không chỉ có thế, sự cất chứa tài vật khiến tâm tham ái nặng nề thêm.

Quan sát cuộc sống, chúng ta dễ dàng thấy đời người mong manh, nay còn mai mất, vô thường nhanh chóng chẳng chừa ai. Không ít người vội ra đi mà chẳng kịp gieo trồng được chút phước nào, hoặc mang theo bao ý niệm tốt đẹp mong muốn sẻ chia mà chưa làm được. Rốt cuộc tài sản do mình làm ra tứ tán, trong khi hành trang phước báo lại rỗng không. Có người tỉnh sáng hơn, thấy rõ vô thường nên lập hạnh sẻ chia, dù không phải là giàu có, dư dật. Tùy duyên chia sẻ một phần những gì mình có được luôn mang lại an vui cho người thân và cho mọi người. Ngoài ra, hạnh hoan hỷ bố thí cũng là cách vun bồi cho hành trang phước báo đủ đầy ở trời, người của những kiếp lai sinh.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Đời có hai người không biết chán đủ mà bị mạng chung. Thế nào là hai người? Nghĩa là người được tài vật hằng cất giấu và người được vật mà thích cho người. Đó là hai người không biết chán đủ mà bị mạng chung.

Bấy giờ có Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

– Thế Tôn! Chúng con không hiểu nghĩa chỉ nói sơ lược này. Thế nào là được vật mà cất giấu? Thế nào là được vật mà cho người? Cúi mong Thế Tôn diễn rộng nghĩa này.

Thế Tôn dạy:

– Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các Thầy phân biệt nghĩa này.

– Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Bấy giờ Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Ở đây có người tộc tánh, học các kỹ thuật, hoặc tập làm ruộng, hoặc tập thư sớ, hoặc tập kế toán, hoặc tập thiên văn, hoặc tập địa lý, hoặc tập bói tướng, hoặc tập đi sứ phương xa, hoặc làm vương tá, chẳng tránh lạnh nóng, đói rét, cần khổ để tự mưu sống. Người ấy bỏ ra công sức này mà được tài vật, người ấy không dám ăn xài, cũng không cho vợ con, cũng chẳng cho nô tỳ, những người thân thuộc, cũng đều chẳng cho. Tài vật của người ấy hoặc bị vua cướp đoạt, hoặc bị giặc giã, hoặc lửa cháy, nước cuốn, phân tán chỗ khác, chẳng được lợi ích, hoặc ngay trong nhà có người phân tán tài vật này chẳng giữ mãi được. Đó là, này Tỳ-kheo, người được tài vật mà che giấu.

Còn, thế nào là được tài vật mà phân phát? Có người có tộc tánh, học các kỹ thuật, hoặc tập làm vườn, hoặc tập thư sớ, hoặc tập kế toán, hoặc tập thiên văn, địa lý, hoặc tập bói tướng, hoặc học làm sứ phương xa, hoặc làm vương tá, chẳng tránh lạnh nóng, đói rét, cần khổ mà tự mưu sống. Người ấy ra công sức này mà thu hoạch tài vật, họ ban phát cho chúng sanh, cấp cho cha mẹ, nô tỳ, vợ con, cũng cấp rộng đến Sa-môn, Bà-la-môn, tạo các công đức, trồng phước cõi trời. Đó là, này Tỳ-kheo, được vật mà bố thí. Đó là, này Tỳ-kheo, hai người không biết chán đủ. Như người trước, được vật mà cất chứa, các Thầy hãy nhớ xa lìa. Người thứ hai được vật mà bố thí rộng rãi, các Thầy nên học nghiệp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Tàm quý, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.260)

Phật thuyết về bảy loại tài sản không bao giờ bị mất

279238593_2182998125192208_7600000253980429934_n

Lời bàn: 

Rõ ràng, nếu “được tài vật mà che giấu, không biết chán đủ” thì mất phước. Mình và người thân không được hưởng thành quả lao động mà đáng ra tất cả phải được hưởng. Không chỉ có thế, sự cất chứa tài vật khiến tâm tham ái nặng nề thêm. Khi ra đi, tài vật cũng theo về nhà khác. Ngược lại, nếu “được tài vật mà phân phát, không biết chán đủ” thì được phước. Hiện đời an vui và những đời sau cũng được an vui.

Thế Tôn đã chỉ rõ hai hạng người không biết chán đủ: Hạng người được tài vật mà che giấu và hạng người được tài vật mà phân phát. Ngài dạy, nên xa lìa hạng người trước và nên học tập hạnh bố thí rộng rãi của hạng người sau. Thế nên, người đệ tử Phật luôn tùy duyên tu hạnh thí, một trong những hạnh lành căn bản (tín, văn, giới, thí, tuệ) để đời này và đời sau luôn hạnh phúc, an vui.

Ni trưởng Thích nữ Như Ý – Chứng minh Phân ban Ni giới TP.HCM viên tịch

Ban Trị sự GHPGVN quận 11 và môn đồ pháp quyến kính tiếc báo tin Ni trưởng Thích Nữ Như Ý, Chứng minh Phân ban Ni giới T.Ư và Phân ban Ni giới Phật giáo TP.HCM, vừa viên tịch.

Chân dung Ni trưởng Thích nữ Như Ý

Chân dung Ni trưởng Thích nữ Như Ý

Ni trưởng Thích nữ Như Ý, Chứng minh Phân ban Ni giới GHPGVN TP.HCM; Chứng minh Phân ban Ni giới GHPGVN Q.11; viện chủ Niệm Phật Ni tự – Q.11 và chùa Như Lâm tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Theo cáo phó, do bệnh duyên, Ni trưởng Thích nữ Như Ý đã viên tịch vào lúc 23 giờ 5 phút, ngày 29-4-2024 (21-3-Giáp Thìn); trụ thế 85 năm, 60 hạ lạp.

Lễ nhập kim quan vào lúc 9 giờ, ngày 30-4-2024 (22-3-Giáp Thìn). Kim quan tôn trí tại Niệm Phật Ni tự, số 48/6/2 đường Tân Hóa, P.1, Q.11, TP.HCM.

Lễ viếng bắt đầu vào lúc 10 giờ ngày 30-4-2024 (22-3-Giáp Thìn).

Lễ truy niệm vào lúc 5 giờ, ngày 3-5-2024 (25-3-Giáp Thìn). Sau đó cung tống kim quan Ni trưởng nhập tháp tại chùa Pháp Bảo thuộc H.Đức Hòa Thượng, tỉnh Long An.

92ca8c63-ea7d-43ed-8097-bb14af966f6b