back to top
34.7 C
Chư Sê
Thứ Sáu, 17 Tháng Năm, 2024
Home Blog Page 166

Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam

Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà

Ngày 11/11/2020, đoàn từ thiện Ban Trị Sự GHPGVN huyện Chư Sê phối hợp với chùa Mỹ Thạch, chùa Phước Viên. Hội Liên hiệp Phụ nữ thị trấn Chư Sê (tỉnh Gia Lai). Hội Phụ nữ Vinhome Hà Nội(1) đã đến thăm và chia sẻ 600 phần quà cho bà con nhân dân bị thiệt hại nặng do bão lụt gây ra tại tỉnh Quảng Nam.

Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Trao quà tại UBND xã Tam Thái, huyện Phú Ninh

Đoàn từ thiện do ĐĐ.Thích Quảng Phước – Phó Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Gia Lai, Trưởng BTS Phật giáo huyện Chư Sê làm Trưởng đoàn. ĐĐ.Thích Nhuận Cường – Trụ trì chùa Phước Viên (huyện Chư Sê). Bà Đào Ánh Hồng – Chủ tịch Hội Phụ nữ thị trấn Chư Sê, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Bà Anh Đào – Đại diện Hội Phụ nữ Vinhome TP.Hà Nội, cùng quý Phật tử. Mạnh thường quân chùa Mỹ Thạch, chùa Phước Viên, Hội Liên hiệp Phụ nữ Thị trấn Chư Sê và Hội Phụ nữ Vinhome Hà Nội tháp tùng.

Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Bà Đào Ánh Hồng – Chủ tịch Hội Phụ nữ thị trấn Chư Sê, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai phát biểu
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Bà Anh Đào – Đại diện Hội Phụ nữ Vinhome TP.Hà Nội phát biểu

Tại mỗi điểm đến, đại diện đoàn từ thiện đã có lời chia sẻ động viên đến bà con nhân dân vùng ngập lụt. Cố gắng khắc phục khó khăn, sớm ổn định cuộc sống.

Theo đó, đoàn đã trao tặng:

[ssbluelist]
  • 200 phần quà tại UBND xã Tam Thái (huyện Phú Ninh).
  • 100 phần quà tại chùa Lộc Tân (xã Tam Tiến, huyện Núi Thành)
  • 300 phần quà tại chùa Linh Bửu (xã Tam Thăng, TP.Tam Kỳ). Mỗi phần quà trị giá hơn 500 ngàn đồng
[/ssbluelist]

Bao gồm các nhu yếu phẩm và phong bì tiền mặt. Tổng chuyến từ thiện tại Quảng Nam hơn 300 triệu đồng.

Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Chư tôn đức và đại diện chính quyền tham dự buổi lễ trao tặng quà tại chùa Lộc Tân, xã Tam Tiến, huyện Núi Thành
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Trao quà tại chùa Linh Bửu, xã Tam Thăng, TP.Tam Kỳ

Tham dự buổi trao tặng quà còn có ĐĐ.Thích Viên Tánh – UVTT BTS PG tỉnh Quảng Nam. Trưởng BTS PG TP.Tam Kỳ ông Huỳnh Văn Thọ. Đại diện Hội Chữ thập đỏ và Hội Từ thiện TP.Tam Kỳ. Cùng đại diện chính quyền địa phương.

Video Phật giáo huyện Chư Sê Gia Lai trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam

Phật giáo huyện Chư Sê Gia Lai trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam

Một số hình ảnh được ghi nhận

Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Phật giáo Chư Sê trao tặng 600 phần quà tại Quảng Nam - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê

Xuân Sáng

MƯỜI NGHIỆP LÀNH (Thập thiện nghiệp)

Người, vật, chim muông, hoa lá, cỏ cây, lâu đài, phố thị, làng mạc… đều nương tựa trên mặt đất. Cũng vậy, chúng sanh hữu tình, các bậc trí tuệ, chư thánh nhơn, đức Phật… cũng do 10 nghiệp lành mà có sắc thân, tướng mạo, y báo, chánh báo sai khác, dị đồng… Tất cả phải nương tựa nơi 10 nghiệp lành vậy.

Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả. Mười nghiệp lành thường quyết định duyên lành, làm cho thông minh sáng láng, học hành thành đạt, sự nghiệp hanh thông, gia đình ấm êm và cả trí tuệ thông hiểu con đường xuất ly ba cõi nữa.

Người Phật tử sau khi thọ Tam qui, Ngũ giới, Bát quan trai giới thì nên tu tập thêm thập thiện nghiệp để làm hành trang, tư lương tối thắng cho mình giữa thế gian cát bụi, lắm nghiệt ngã và nhiều khổ đau này.

Và thập thiện nghiệp ấy là gì?

1. Thân vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại các loài hữu tình.

Tất thảy các loài hữu tình, từ bò, bay, máy, cựa, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân cho đến chúng sanh có cánh, không cánh, có vây, không vây… ở trên mặt đất, dưới biển, ao hồ, sông rạch, trên hư không… chúng đều có sự sống, có thức tánh, biết đau đớn – thì người Phật tử phải biết tôn trọng, chẳng nên giết hại.

Tất cả các loài, các loại, các giống chúng sanh ấy, do thấp sanh (ẩm ướt, ẩm thấp), do bàng sanh (súc sanh) hay noãn sanh (trứng), chúng đều do sự chi phối, tác động của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Khi chúng trả hết ác nghiệp, chúng có thể trở lại thân người. Trái lại, nếu không tạo trữ phước lành, cứ tà kiến, ngu si, ác độc làm việc dữ; thì chúng ta cũng phải bị đọa vào các cảnh giới đau khổ ấy. Để tránh khỏi sự khổ báo và trả vay nhân quả, chúng ta chẳng nên sát sanh hại vật; dù sinh mạng chúng nhỏ nhiệm thế nào.

Nói rộng hơn nữa, ngay chính cây cối, thảo mộc là loài vô tri, vô giác, không có thức tánh, chúng ta cũng không nên chặt phá bừa bãi; vì chúng cũng có “sự sống” vậy.

Nếu biết vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại, người Phật tử sẽ tăng trưởng lòng từ; và những trạng thái tâm ác độc, hung dữ lần hồi sẽ lắng dịu. Tâm từ càng phát triển thì tâm sân, sát, hận, ưu sẽ không còn. Và khi ấy, người Phật tử sẽ cảm nghe một năng lực từ hòa, mát mẻ từ bên trong lan tỏa ra bên ngoài, thấm nhuần khắp cả không gian, người, vật, cây, cỏ… lúc ấy là lúc mà nghiệp lành thứ nhất đã thành tựu, đã tuyệt hảo, trọn vẹn, viên mãn vậy.

Có thơ rằng:

“- Muôn loài sự sống đều nhau

Có thân, có thức biết đau như mình

Nỡ nào giết hại hữu tình

Ruột mềm máu chảy thương sinh não nùng”.

Nuôi dưỡng tâm từ bi
Nuôi dưỡng tâm từ bi

2. Thân vĩnh viễn từ bỏ trộm cắp của cải, tài sản của người khác.

Của cải, tài sản, cái ăn, cái mặc, phương tiện, nhu cầu sinh sống của mọi người trên thế gian; một phần do phước báu tạo trữ từ nhiều kiếp nên được thọ hưởng sung mãn, dư dật trọn đời; còn đa phần là do lao tâm, lao lực, đổ mồ hôi, sôi nước mắt; chịu khó làm ăn, trăm phương nghìn kế, thức khuya dậy sớm, chăm chuyên cần mẫn, biết để dành, vun quén, tiết kiệm… mới có được.

Cũng có thứ tài sản, của cải, gia tài của một số người do làm ăn phi nghĩa, phi nhân, bất chánh. Nhưng chúng hoạnh phát thì hoạnh tàn, sẽ đi kèm theo định luật nhân quả trả vay ngay hiện tại hoặc kiếp sau. Và sự báo ứng, tất nhiên, không thể chạy trốn đâu cho khỏi được.

Như vậy, của cải, tài sản xét theo mọi lẽ, người Phật tử tự biết, nếu khởi tâm trộm cắp đã là ý nghĩ bất chánh, đã do lòng tham khởi động, xúi giục, sai bảo. Là nô lệ của vô minh, ái dục và si mê. Nếu không tỉnh thức, tự chủ, tự chế… thì lòng tham kia sẽ che mờ tâm trí, bịt mắt lương tri, rồi nó sẽ dẫn chúng ta đến chỗ tội tù, lao hình thống khổ.

Các tội ác khác, đôi khi cũng từ đó mà đồng loạt dấy sanh. Những mưu mô, thủ đoạn, ác độc, lường gạt, giết người, gian dối, tham nhũng, hối lộ, san đoạt tài sản… xảy ra hằng ngày hằng giờ trên thế gian, không là bài học máu xương cho chúng ta suy gẫm hay sao? Và khi ấy, vòng trầm luân bất định của những con đường đau khổ, một lần rơi đọa, biết mấy triệu kiếp sau mới trở lại thân người?

Chỉ cần một tí liên tưởng, một chút tư duy, người Phật tử sẽ vĩnh viễn không dám thò tay, nạy cửa, lấy cắp tài sản, của cải của người, của xã hội. Không những hiện vật có giá trị mà những thứ ít có giá trị hoặc không có giá trị gì mấy, người Phật tử chơn chính cũng sẽ không lấy khi vật ấy chưa được cho, chưa được sở hữu chủ bằng lòng, hoan hỷ cho.

Chỉ “không khởi tâm” trộm cắp, từ bỏ vĩnh viễn không lấy cắp đã là một nghiệp lành cao cả, sẽ đem đến an vui, an toàn cho mọi người xung quanh và xã hội rồi. Khi ấy, những hiện vật trưng bày ở những nơi công cộng như công viên, đường sá, vườn hoa, nhà mát, khu di tích lịch sử, văn hóa… ở đâu đều nguyên vẹn ở đó, được tất thảy mọi người bảo vệ và tôn trọng. 

Lúc ấy, nhà nhà không cần đóng cửa, không ai cần thiết phải kín cổng, cao tường, rào chông mấy lớp. Các loại ổ khóa không cần dùng. Của rơi dọc đường không ai thèm lượm, nếu nhặt được người ta sẽ tìm cách hoàn lại cho khổ chủ. Khung cảnh và không khí thanh bình tuyệt vời ấy quả là thiên đường trần gian, mà con người không thể ước mơ được hay sao?

Bèn có thơ rằng:

“- Trộm cắp, lấy cướp của người

Làm thân trâu ngựa bao đời trả xong

Lại còn đói khổ chất chồng

Thây ma, xác quỷ trôi sông, dạt bờ”.

3. Thân vĩnh viễn từ bỏ tà dâm, tà hạnh.

Sự chung thủy vợ chồng là nét đẹp văn hóa truyền thống của nền đạo đức và luân lý Đông phương.

Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình được hạnh phúc, an vui thì xã hội mới được hạnh phúc, an vui. Thật không thể quan niệm được khi một xã hội văn minh, tiến bộ, thịnh mãn về vật chất, áo cơm – lại có thể đem đến hạnh phúc cho mọi nhà, khi “mọi nhà” ấy: vợ chồng tự do ngoại tình, tự do lăng nhăng, tự do bỏ vợ, bỏ chồng để đi tư tình, thương yêu người khác!

Tục ngữ nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn”. Thuận là hòa thuận. Hòa thuận là do thương yêu, hòa hợp, đùm bọc, chia sẻ ấm lạnh ngọt bùi, vui buồn gian khổ có nhau, không bao giờ phụ rẫy, hắt hủi, bạc tình, bạc nghĩa với nhau.

Đạo Phật là đạo xuất ly thế gian nhưng mà không đoạn tuyệt thế gian; vẫn phân biệt rõ ràng đâu là hạnh phúc thế gian đâu là hạnh phúc siêu thế. Và đối với người cư sĩ, hạnh phúc gia đình luôn được đức Phật nhắc nhở, dạy bảo. Lác đác trong kinh điển, đức Phật thường giáo giới đến hàng tại gia biết cách vun quén, xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình mình. Những bổn phận của vợ đối với chồng, của chồng đối với vợ, trong đó sự thương yêu và lòng chung thủy luôn được xem trọng hàng đầu. Như vậy, khi muốn gia đình mình được hạnh phúc, an vui thì ta không nên phá hoại hạnh phúc và an vui của gia đình người khác.

Khi vợ chồng không còn thương yêu, chung thủy; lại đem san sẻ tình yêu cho người khác; thì những gấu ó, bất hòa, lời qua tiếng lại, “ông ăn chả, bà ăn nem” đưa đến phân ly, tan nát là một viễn cảnh vô cùng đen tối. Con cái, từ đó sẽ không có nơi nương tựa khi vợ chồng ly thân hoặc ly dị. Chúng sẽ sinh ra hư hỏng, cướp của, giết người, xì-ke, ma tuý, hình lao, tù tội… thật không mấy xa! Thiếu vòng tay mái ấm gia đình, chúng sẽ mất niềm tin với đời, trái tim sẽ băng lạnh, nhân tính biến đổi…

Có thơ rằng:

“- Thương nhau sao nỡ phụ nhau

Bạc tình, bạc nghĩa ôm bầu trăng hoa

Thói quen ác hạnh, dâm tà

Nát tan mái ấm, chết sa khổ đồ”.

Tổ chức lễ hằng thuận, hướng vợ chồng đến lối sống chân chánh
Tổ chức lễ hằng thuận, hướng vợ chồng đến lối sống chân chánh

4. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói dối.

Thế gian ai cũng ưa ăn ngay nói thật. Lời nói chơn chánh, chân thực, biểu hiện đức độ, sức mạnh nội tâm, đem đến sự tin tưởng, tin cậy, tín cẩn ngọt ngào và dễ mến giữa cuộc đời này.

Những kẻ có nói không, không nói có, bóp méo sự thật, xuyên tạc lẽ phải thường đem đến nhiều nguy hại, khổ đau và bóng tối cho trần gian biết là ngần nào?

– Có lời nói dối đưa đến chém giết, hận thù.

– Có lời nói dối làm cho người ta tán gia, bại sản.

– Có lời nói dối phá vỡ bình yên, hạnh phúc của người khác.

– Có lời nói dối đưa kẻ khác đến tội tù, gia đình người ta phân ly, tan nát.

– Có lời nói dối chận đứng sự tiến thân, danh vọng hoặc sự nghiệp của người khác.

– Có lời nói dối làm cho người ta tức uất thổ huyết mà chết.

– Có lời nói dối đưa đến ganh ghét, đố kỵ, tỵ hiềm.

– Có lời nói dối làm cho người thân, huynh đệ, bạn bè suốt đời không nhìn mặt nhau…

Là người Phật tử, chỉ có việc “từ bỏ vĩnh viễn lời nói dối” đã là tốt đẹp và cao cả lắm rồi. Trên phương diện tương quan nhân quả, nghiệp lành này mang đến cho cuộc đời sự bình yên; hoặc ít ra là tạo được không khí trong lành, không bị ô nhiễm bởi những tác hại do những lời nói dối gây ra.

Ôi! cuộc đời này sẽ dịu dàng và tinh khiết dường bao khi xung quanh ta đều là những người không biết nói dối, không bao giờ nói dối! Chư Bồ-tát, các bậc Thánh nhân dù họ có lìa bỏ sanh mạng, bị hành thân hoại thể, bị sỉ nhục đắng cay; chắc chắn không vì vậy mà nói dối hại người! Vậy, không nói dối là phẩm chất cao thượng, là đức tính quí báu mà ai cũng có sẵn trong chính mình; cần được bảo vệ, phát huy và trưởng dưỡng cho đến độ viên mãn.

Bèn có thơ rằng:

“- Lời nói chẳng mất tiền mua

Tự tâm có sẵn, vốn xưa đầy bồ

Lìa xa dối vạy quanh co

Ngữ ngôn chân thật, thước đo đạo tràng”.

5. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói vu oan, vu cáo.

Lời nói dối đã độc hại, nguy hiểm mà lời nói vu oan, vu cáo kẻ khác còn thâm hiểm, độc ác hơn nhiều.

Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân điều động nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân ấy đã cương mãnh hơn nhiều. Đã trở nên mù quáng lý trí, đã đánh mất nhân tính, đã rời xa đạo đức, luân lý và lẽ phải ở đời. Tham sân ở đây đã trở nên tham độc và sân độc, đã biến con người đầy đủ nhân tính, thiện lương thành các loài rắn rít, bò cạp hoặc độc trùng ghê tởm khác.

Là người Phật tử chơn chánh, không những phải giữ trọn nghiệp lành không nói dối mà còn biết từ bỏ vĩnh viễn lời nói vu oan, vu cáo, giá họa, đẩy người khác đến chỗ không tội mà thành tội, không làm mà thành làm, xô người khác vào vực thẳm tội tù hoặc suốt đời bị đọa đày, oan khuất, tối tăm, thống khổ.

Cho nên có thơ rằng:

“- Vu oan, vu cáo hại người

Một lời giá họa nặng mười ác tâm

Độc trùng, dã thú chớ gần

Miệng lời rắn rít, lụy thân nhiều đời”.

6. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc, ác ngữ…

Tuy những lời nói thuộc loại này không ác độc bằng hai cách nói trên nhưng cũng chẳng hay ho, tốt đẹp gì, đều đem đến nguy hại cả.

Lời cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc… biểu hiện một trạng thái tâm chưa được huấn luyện. Ấy là cái tâm đang còn hoang dã, bản năng, thô xấu, thiếu văn hoá, thiếu giáo dục, thiếu gia phong, lễ giáo nề nếp con nhà! Những lời nói như thế ấy làm đau lòng người khác, thường đưa đến sự xô xát, đánh đập tay chân hoặc đùi gậy, dao búa đến sứt đầu, bể trán mà thôi.

Người có học thức, hiểu biết, nội tâm đã được huấn luyện, có tu tập; thường dễ dàng tránh xa những lời nói kiểu này. Là Phật tử chơn chánh, ngôn ngữ nói ra phải dịu dàng, từ ái, khiêm tốn dễ nghe. Người ta thường ví miệng thơm như hoa lan để nói đến người có lời nói chân thật, ái từ là vậy.

Có thơ rằng:

“- Cộc cằn, thô lỗ ai ưa?

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau

Tâm hoa thơm ngát, thơm lâu

Từ hoà, ái ngữ một câu miệng vàng”.

Ái ngữ, như đem hoa dâng tặng cho người, làm đẹp cuộc đời
Ái ngữ, như đem hoa dâng tặng cho người, làm đẹp cuộc đời

7. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói nhảm nhí, vô ích, rỗng không, phù phiếm…

Những cách nói như thế ấy quả là làm mất thì giờ vô ích. Chỉ có kẻ ngồi lê đôi mách, ăn rỗi ở thì, nội tâm trống rỗng, không có việc làm, không đọc kinh sách, nhàn cư, thiểu học… mới rơi vào trường hợp này.

Người xưa nói: Một ngày không đọc sách, một ngày hôi miệng! Thế còn những kẻ rỗng không, vô tích sự, giết thì giờ trong những câu chuyện tục tĩu, nhảm nhí thì nội tâm và trí óc họ chứa đựng những gì?!

Vậy, người Phật tử chơn chánh có Tam qui, Ngũ giới, có tu tập và biết phát triển những nghiệp lành, đừng nên coi những cách nói rỗng không, nhảm nhí… là chuyện nhỏ mọn! Một hạt bụi tí ti rơi vào mắt cũng làm cho mắt phải bị nhức nhối, xốn xang. Một chút dơ uế lấm lem vào tâm, khinh thường lâu ngày thì cái tâm kia cũng trở nên đen đúa và xấu xa! Những giọt nước rỉ từng giọt lâu ngày cũng đầy tràn sông hồ, ao biển… đúng như câu kinh Pháp cú số 121:

“- Nước rơi từng giọt giọt thôi

Lâu ngày chầy tháng đến hồi tràn lu

Chút chút việc ác, mặc dù

Ngày qua tháng lại, người ngu ác đầy!”

Những lời nói rỗng không, nhảm nhí, tục tĩu, vô ích… lâu ngày thành thói quen, tích lũy thành nghiệp ác. Những lời nói bỡn cợt, ba lơn, ba láp, ba xàm; ban đầu tưởng là vô hại, nhưng lâu dần chúng trở thành cá tính khó rời; khiến ta thành kẻ không đứng đắn, thiếu tư cách, mất phẩm chất thật là uổng phí vậy. Khi mà đã trở thành như thế thì kẻ ấy dù có chân đứng, địa vị, danh vọng và sự nghiệp gì trên cuộc đời cũng sẽ bị người coi khinh, khi rẻ, nhạo báng, xem thường!

Cho nên có thơ rằng:

“- Rỗng không, tục tĩu, vô duyên

Miệng lời nhảm nhí, trí hiền chẳng ưa

Chẳng nên thêu dệt thiếu thừa

Đẹp ngôn, đẹp khuẩu lại vừa thơm hương”.

8. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự tham lam

Có những mong muốn, ước muốn bình thường trong đời sống mà chẳng phải tham lam. Ví dụ đói muốn ăn, khát muốn uống. Hoặc, ta mong muốn làm một điều gì, muốn thực hiện một việc gì… Tất cả những mong muốn ấy, theo Abhidhamma, nó là “chanda”, là dục tâm sở; chỉ mới là ước muốn thuần túy chưa quyết định thiện ác. Còn tham lam là do tâm sở “lobha” hay “abhijjā”, có trạng thái dính mắc, có sự tham dự của tư tâm sở (cetanā) mới tạo thành nghiệp. Do vậy, khi tâm tham khởi thì những tâm sở bất thiện đồng khởi theo để tạo tác tất cả những việc xấu ác trên trần đời!

Lòng tham ấy sẽ được hiện khởi từ các tâm trạng sau đây:

– Không bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn những sở hữu mà mình đang có.

– Không bao giờ biết sống đời tri túc, mà luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật này, vật kia… tương tự như tục ngữ: “đứng núi này trông núi nọ, được voi đòi tiên”.

– Luôn luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác.

– Luôn muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người.

Nói rộng hơn, nhưng cũng cô đọng hơn là lòng tham được thỏa mãn lục trần: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái cùng những tham vọng về tinh thần. Đấy là những tham vọng về quyền lực, danh vọng, sự nghiệp, bá chủ, thần thông, phép lạ…

Lòng tham ấy đã tung rải biết bao nhiêu bóng tối, đau khổ và tang thương cho nhân loại từ xưa đến nay! Thế giới lục trần tươi đẹp và hào nhoáng ấy là đóa hồng diễm kiều hương sắc nhưng lại đầy gai máu! Nó là vực thẳm chông nhọn được trải bằng tấm thảm nhung êm. Nó là mồ chôn biết bao sa-môn, đạo sĩ, đế vương, công hầu, khanh tướng, tỷ phú, triệu phú, anh hùng, quân tử, mỹ nhân, vĩ nhân, danh nhân, thi sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ và cả những khoa học gia danh tiếng lẫy lừng…

Lòng tham ma vương không chừa một ai trên trần thế! Tham ít khổ ít, tham nhiều khổ nhiều, đấy là định luật tất yếu! Là sức dội lại của quả bóng tuỳ thuộc lực ném vào tường! Là sự bỏng cháy nhiều ít do các ngón tay hay bàn tay vọc lửa!

Vậy, người Phật tử chơn chánh muốn chấm dứt các khổ đau, phiền não thì phải biết nghe lời từ bi và trí tuệ của đức Đại Giác; phải biết vĩnh viễn từ bỏ lòng tham này vì lợi ích cho mình và cho người. Đây là nghiệp lành vừa có phước báu nhân thiên vừa gieo duyên với cứu cánh giải thoát tối hậu.

Có thơ rằng:

“- Lửa nào hơn được lửa tham

Đốt trái tim, cháy lầm than kiếp người

Lá hoa, cây cỏ thắm tươi

Vô tham hạt giống, đâm chồi tự do!”

Kẻ tham lam không bao giờ thấy đủ
Kẻ tham lam không bao giờ thấy đủ

9. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự sân hận (thù oán, oán hận, ác ý)

Tâm sân do chữ dosa. Theo Abhidhamma, tâm sân không bao giờ khởi một mình, tuỳ theo cường độ, tính chất của nó mà các tâm sở tương ứng cùng khởi theo. Ví dụ: tật, xan, hối…

Theo cách hiểu thông thường, sân mà còn hận nữa thì cường độ sân ấy đã tăng thêm một bậc, có thể thiêu huỷ, đốt cháy các đối tượng. Lửa sân hận rất khủng khiếp, nó có thể tạo nên các tội ác trên cuộc đời, nó có thể đốt cháy tất thảy mọi ruộng vườn công đức, phước báu.

Người có trí, có căn bản giáo pháp, có tu tuệ quán, có thể biết được sự hiện khởi của tâm sân ấy qua mấy dạng sau đây:

– Sân bình thường, tức là sân do phản ứng tự nhiên của tâm sinh lý; chưa có hại, chưa tạo nghiệp.

Ví dụ: Thấy khó chịu khi nghe một âm thanh quá lớn. Trời nóng thì cảm thấy bực bội. Thấy điều ác, không ưa…

– Những điều trái ý, nghịch lòng nếu cứ gặp mãi thì trạng thái sân này sẽ gia tăng, cứ âm ỉ thiêu đốt ở trong lòng. Như vậy là từ sân bình thường (dosa), sân ấy đã chuyển sang ưu (domanassa).

– Nếu ưu càng gia tăng, mới nghĩ đến đối tượng đã không còn chịu nổi, muốn đập phá, muốn tiêu diệt đối tượng. Trạng thái tâm lý này đã chuyển thành hận (pāṭigha).

Tuy nhiên, ưu và hận sẽ không khởi một mình mà nó còn đi theo những tâm sở khác: tật, xan, hối… để tạo thành nghiệp. Do vậy, sân hận sẽ gia tăng cường độ rất nguy hiểm, càng lúc càng không thể kềm chế nổi. Nó có thể hủy diệt nhân loại, thiêu cháy một làng, một xóm. Nó có thể tạo ngũ nghịch đại tội. Nó có thể đưa chúng sanh vào hằng trăm loại địa ngục đồng sôi, lửa đốt, dao đâm, vạc dầu… thật vô vàn thống khổ.

Biết sự nguy hại của sân hận, người Phật tử chơn chánh nguyện phát triển nghiệp lành này, bằng cách tỉnh niệm thường xuyên để thấy rõ sự dấy khởi của nó và vĩnh viễn từ bỏ, loại trừ ưu và hận ra khỏi tâm.

Theo Abhidhamma, vô sân đồng nghĩa với tâm từ vô lượng, nên sự an lành và mát mẻ của nó đúng là môi trường sinh thái tốt lành cho người, vật, chim muông, cây cỏ.

Bèn có thơ rằng:

“- Không sân, mát mẻ xiết bao

Cây lành trái ngọt, ngát ngào hương hoa

Suối trong giữa cõi ta-bà

Tình xanh nhân ái, hoan ca thái bình”.

10. Ý vĩnh viễn từ bỏ tà kiến (chuyển tà kiến thành chánh kiến)

Tà kiến là thấy sai, thấy lệch, thấy nghiêng, thấy một bên, thấy một phía, không thấy được cái chơn, cái thực, cái toàn diện. Tuy nhiên, mới thấy tà như vậy cũng chưa phải tà kiến. Người thấy tất cả cái tà ấy, còn chấp cái tà ấy là chánh, là sự thật; rồi còn ra sức bảo vệ, phát triển quan điểm lệch lạc ấy nữa, mới chính thật là tà kiến.

Những người học Phật thường gọi danh những người chấp đoạn là đoạn kiến, chấp thường là thường kiến. Đoạn kiến và thường kiến chính là tà kiến vậy.

Đoạn kiến là quan niệm cho rằng chết là hết, không còn gì. Không có kiếp này, kiếp kia, không có thiện ác, không có thiên đường, địa ngục, không có nhân quả báo ứng. Và, đạo đức, luân lý trên thế gian chỉ là trò u mê, ngốc nghếch! Vậy hãy hưởng thụ thân xác, làm cho “cái ta” hiện giờ đây được sung sướng, cực lạc. Hưởng thụ dục lạc ngũ trần chính là Niết-bàn vậy. Các nhà đoạn kiến có quan niệm như vậy rồi dạy môn đệ, viết sách để quảng bá tư tưởng ấy. Chủ nghĩa duy vật chất, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa hiện sinh rơi vào đoạn kiến này.

Thường kiến có quan điểm cho rằng có một linh hồn, một tự ngã thường hằng bất biến, không thay đổi, đầu thai từ kiếp này sang kiếp kia. Do vậy, kiếp này làm vua thì kiếp sau cũng làm vua. Thương gia, tướng cướp, cùng đinh hoặc đui, què, mẻ sứt… kiếp này thì kiếp sau cũng y như thế. Làm thiện chẳng có tích sự gì, làm việc ác mà được sung sướng thì cứ làm. Nhân, nghĩa, đạo đức, luân lý là con ngáo ộp dọa người đó thôi. Chúng ta do Thượng đế đã cho giàu sang thì sẽ giàu sang mãi mãi…

Như vậy, đoạn kiến và thường kiến đã đầu độc thế gian, làm cho thế gian đổ nát, hoang vu, điêu tàn, băng hoại. Nó thiêu huỷ, đốt cháy đạo đức, nhân luân, nhân tính cùng các giá trị tinh thần thiêng liêng, cao cả khác. Ngoài ra, rải rác trong kinh điển, còn có những cái gọi là biên kiến, kiến kiết phược, kiến hoang vu, kiến sa mạc, kiến điên đảo, kiến rừng rậm… đều là bà con họ hàng với tà kiến cả vậy.

Người Phật tử phải biết chuyển cái thấy sai thành cái thấy đúng, cái thấy nghiêng lệch bằng cái thấy chính chơn, nghĩa là phải biết chuyển tà kiến thành chánh kiến.

Thế chánh kiến là gì?

Chánh kiến là gọi tắt của chánh tri kiến (thấy biết chơn chánh). Chánh tri kiến là gọi tắt của chánh kiến, chánh văn, chánh giác, chánh tri.

Và “kiến, văn, giác, tri” là thế nào?

– Mắt thấy sắc như thực, nghĩa là sắc như thế nào phải thấy sắc như thế ấy. Thấy một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý kiến, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh kiến.

– Tai nghe âm thanh như thực, nghĩa là âm thanh như thế nào phải nghe âm thanh đúng như thế. Nghe một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý niệm, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh văn.

– Mũi ngửi hương như thực, nghĩa là hương như thế nào phải biết hương như thế ấy, một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý niệm, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh giác.

– Lưỡi nếm vị như thực. Tương tự như trên, được gọi là chánh giác.

– Thân xúc chạm như thực. Tương tự như trên, được gọi là chánh giác.

– Ý biết pháp như thực. Nghĩa là pháp nào thì phải biết cho đúng như thực với pháp ấy; đừng suy diễn ra, đừng tưởng tượng thêm, đừng dịch giảng lung tung! Ngoài ra, những thu góp tin tức từ các tiền trạm thông tin mắt, tai, mũi, lưỡi, thân như thế nào; khi vào đến ý phải phản ánh cho trung thực, không bị méo mó, lệch lạc… thì được gọi là chánh tri, tức biết như chơn như chánh vậy.

Kiến, văn, giác, tri là gọi tắt của sự thấy, biết, cảm giác, tri giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đối với đối tượng lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Kiến, văn, giác, tri như thực được gọi là chánh kiến.

Từ chánh kiến với nghĩa rốt ráo, tinh tủy, căn bản này, người Phật tử sẽ có được đức tin chơn chánh, không bị rơi vào các loại tà kiến phức nhiễu, hỗn loạn đang vấy độc giữa cuộc đời; không bao giờ còn bị ru ngủ, bị mê lẩn bởi các tôn giáo thần linh huyễn hoặc; những triết thuyết, học thuyết cao đại, khoa trương nhưng thiển cận, rối rắm, tơ vò; những mê tín nhân gian bậy bạ, mù quáng nữa.

Chánh kiến thuộc tuệ phần, quan trọng nhất trong con đường Thánh đạo có 8 nhánh. Vậy chuyển tà kiến thành chánh kiến đúng là nghiệp lành tối thượng, cao cả nhất để đến nơi giải thoát, an vui, chân hạnh phúc.

Bèn có thơ rằng:

“- Lưới mê trói buộc đã nhiều

Ngu si, tà kiến trăm điều đắng cay

Hành trang chơn chánh cầm tay

Tâm trong, trí sáng, non tây ta về”.

Mười nghiệp lành là con đường cho người con Phật thoát ra khỏi Tam đồ

Mười nghiệp lành như vậy là thân có 3, khẩu có 4 và ý có 3. Nếu thân khẩu ý được điều tiết, thu thúc, gìn giữ, bảo trọng, phát huy và tăng trưởng 10 nghiệp lành này, được gọi là thân khẩu ý trọn lành hay tam nghiệp trọn lành.

Học Phật tại gia như thế nào?

Người Phật tử nên tu tập Mười điều thiện để cuộc sống thêm an vui, hạnh phúc
Người Phật tử nên tu tập Mười điều thiện để cuộc sống thêm an vui, hạnh phúc

Lúc 10 nghiệp trọn lành là người Phật tử vĩnh viễn đóng cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, có thể mở cửa nhân thiên và thênh thang bước vào đại lộ huy hoàng của an vui và hạnh phúc. Đời kiếp nào cũng không còn rơi đọa vào các cảnh giới đau khổ, miền biên địa, chốn man di mọi rợ hoặc các giống dòng, gia tộc ngoại đạo, tà kiến. Trong các cõi trời và người, đi đâu họ cũng gặp Phật pháp, thiện trí thức bằng hữu hoặc những duyên lành, phước lành thù thắng và tối thượng.

Sau khi cuộc lang thang đã mãn, tín, giới, văn, thí, tuệ đã đầy, ba-la-mật đã đủ; nếu muốn, họ dễ dàng chứng quả Tứ Thánh và đắc Niết-bàn để thọ hưởng hạnh phúc siêu thế.

Tất cả chúng sanh trong 3 cõi, 6 đường đều phải biết nương nhờ 10 nghiệp lành này như một kim chỉ nam vô giá quyết định phương hướng cho hạnh phúc các kiếp sống. Thanh Văn Phật, Độc Giác Phật cũng nương nhờ 10 nghiệp lành này mà đầy đủ tâm, đầy đủ tuệ để tận lìa phiền não. Đức Đại Bồ Tát của chúng ta cũng từ 10 nghiệp lành này mà thành tựu 8 minh và 15 hạnh, đắc quả Chánh Đẳng Giác vậy.

Bèn có thơ rằng:

“- Trọn lành mười nghiệp ra đi

Ngán gì gió chướng, sá chi bụi hồng

Trời, người các cõi thong dong

Phúc đầy, duyên đủ vượt dòng tử sinh!”

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Đừng chỉ nghĩ về sự may mắn của người khác

Đừng chỉ nhìn những thứ mà người khác có

Chúng ta hay tủi thân vì nhìn thấy người khác có những thứ mà mình không có, như chị đó có mái tóc đẹp, có đôi giày xinh, nhưng chúng ta đâu biết rằng chung quanh mình còn nhiều lắm những mảnh đời bất hạnh, kém may mắn.

Nữ nhà văn Hellen Keller đã từng nói: “Tôi đã khóc vì không có giày để đi, cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để mang giày”. Thật vậy, chúng ta hay tủi thân vì nhìn thấy người khác có những thứ mà mình không có, như chị đó có mái tóc đẹp, có đôi giày xinh, nhưng chúng ta đâu biết rằng chung quanh mình còn nhiều lắm những mảnh đời bất hạnh.

Thế nên, trước khi chúng ta oán trách, ganh tỵ, phiền muộn, chán nản với mình, với cuộc đời này, xin hãy nhìn những mảnh đời xung quanh chúng ta như ca dao Việt Nam thường nói: “Nhìn lên ta chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống ta hơn nhiều người.”

Ta vẫn còn rất may mắn

Nếu bạn cảm thấy không hài lòng vì mái tóc mình không được đẹp như chị A, anh B, hay đôi giày mình mang không vừa ý, thì hãy nghĩ đến những người bị ung thư rụng hết tóc, những người bị cụt chân tay không thể mang giày, đeo nhẫn…Nếu bạn hỏng xe dọc đường, bạn cảm thấy mệt mỏi, bực bội vì phải cuốc bộ vài dặm mới tìm ra người giúp đỡ, thì hãy nghĩ tới những người liệt cả đôi chân.

Khi tâm không còn phân biệt, tình thương ấy nhất định sẽ đong đầy, tròn vẹn.
Khi tâm không còn phân biệt, tình thương ấy nhất định sẽ đong đầy, tròn vẹn.

Quả thật, so với những bệnh nhân tật nguyền ấy,chúng ta thật vô cùng may mắn và hạnh phúc khi được quyền bước đi bằng chính đôi chân của mình. Bởi đôi chân ấy có thể đưa bạn đến bất kỳ nơi nào bạn muốn. Vì vậy, chúng ta phải biết quý trọng thân thể mình. Và nếu không may đôi chân ta phải nặng nề hơn trên con đường thì chớ vội nản lòng, khó chịu bởi ở đâu đó có rất nhiều người đang khát khao được bước đi như mình dù chỉ với một chân….

Hãy nhìn ra thế giới xung quanh, bạn sẽ thấy những điều kiện để hạnh phúc

Nếu bạn cảm thấy đời mình bị mất mát và băn khoăn về ý nghĩa của kiếp người, thì xin hãy nhìn xung quanh bạn có biết bao người đã không còn cơ hội tiếp tục được trải nghiệm cuộc sống của tuổi trẻ như bạn. Cho nên, hãy biết ơn cuộc sống này, vì bạn vẫn còn cơ hội được nhìn thấy ánh dương của ngày mới. Và đừng bao giờ nghĩ rằng mình kém may mắn trong cuộc đời này. Thay vào đó, hãy luôn biết trân trọng từng phút giây khi chúng ta được sinh ra, được thở và tồn tại trong cuộc đời này.

Nếu bạn cảm thấy mình là nạn nhân của những nhỏ nhen, nghi kỵ, cay nghiệt, thối nát, thì hãy nhớ rằng ngoài kia còn có lắm người phải chịu những điều tồi tệ hơn thế nữa. Cho nên, đừng ngước lên để rồi so đo, toan tính, hãy tập nhìn xuống để thấy mình còn may mắn lắm so với bao người trên cõi đời này.

Lòng từ bi khiến tâm sân hận, ghen ghét, tật đố kỵ cũng không còn tồn tại.
Lòng từ bi khiến tâm sân hận, ghen ghét, tật đố kỵ cũng không còn tồn tại.

Quán sát như vậy, chúng ta mới thấy nỗi khổ của mình không là gì cả, để thấy được rằng mình vẫn còn may mắn hơn, hạnh phúc hơn những người khác, để biết cảm thông, thấu hiểu và sẻ chia nỗi đau nỗi khổ với những người quanh ta, để tâm lý hẹp hòi, so đo toan tính không còn hiện hữu nơi mỗi người. Được như vậy, chúng ta mới thật sự sống an lạc dù đời không đẹp như mình nghĩ.

Khi chúng ta nuôi dưỡng và tăng trưởng lòng từ bi và tất nhiên những tâm sân hận, ghen ghét, tật đố kỵ cũng theo đó không còn tồn tại. Và như thế, khổ đau trong ta và trong tất cả mọi người sẽ không còn hiện hữu.

“… Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy,

Ta có thêm ngày nữa để yêu thương …”

Những bài học về lòng biết ơn

Nuôi dưỡng tinh thần của người con Phật,TỪ BI

Vâng, người con Phật với hạnh nguyện dấn thân vào đời ác trược, không thể vô cảm, dửng dưng trước bao nỗi thống khổ, bất hạnh của số đông. Hạnh này khó làm nhưng chỉ cần xuất phát từ tình thương yêu thật sự, một tình thương không toan tính thì dẫu việc khó mấy cũng thành. Bởi khi tâm không còn phân biệt, tình thương ấy nhất định sẽ đong đầy, tròn vẹn. Và khi cho đi tình thương như vậy, việc tu tập và hạnh nguyện của người con Phật mới thật sự viên mãn, hạnh phúc.

Thích Nữ Giới Hương

Mời quý Phật tử xem thêm video: May mắn đến từ đâu ? – TT. Thích Chân Quang

Vì sao gọi Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi quý báu?

Đức Thế Tôn trong kinh Niệm Phật Ba La Mật thuyết: “Tam bảo là chỗ về nương tựa của muôn loài, là ngọn đèn phá tan mọi hắc ám, là con thuyền đưa chúng sinh qua thấu bờ bên kia.”

Tam bảo là gì?

Nhân loại thường cho vàng bạc, ngọc ngà châu báu hay quyền cao chức trọng là quý. Nhưng thử hỏi khi gặp chuyện mất mát đau thương, quyến thuộc xa lìa hoặc bị giặc cướp, bệnh tật trầm kha… thì các thứ ấy có thể làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau cho ta được hay không?

Phật là con người đã hoàn toàn tự tại, giải thoát nhờ phước huệ song tu với tinh thần vô ngã vị tha. Pháp là những lời dạy chân chính của Phật qua sự trải nghiệm trong tu chứng nên thấy rõ chúng sinh sống chết luân hồi đều do mình tạo lấy. Tăng là những người truyền thừa thay Phật hoằng dương Chánh pháp, sống trong tinh thần Lục hòa, đoàn kết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần chia vui sớt khổ, phục vụ vì lợi ích chúng sinh.

Tam Bảo là ba ngôi quý báu; gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
Tam Bảo là ba ngôi quý báu; gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.

Tăng là những người hiến trọn đời mình cho mục đích trên cầu thành Phật, dưới hoằng hóa độ sanh vì lợi ích con người. Nhờ có chư Tăng, Ni thay Phật hoằng truyền những lời dạy của Ngài khiến cho Chánh pháp được mở mang rộng rãi đến với tất cả mọi người. Những ai hấp thu được tinh ba của Phật pháp sẽ ngày càng được an vui, hạnh phúc hơn và sẵn sàng an ủi, sẻ chia, giúp đỡ tha nhân vì tình người trong cuộc sống.

Nhưng Tăng cũng có nhiều loại, đại khái lược có ba là Bồ Tát Tăng, Thanh Văn Tăng và Phàm Phu Tăng. Đây là Tăng bảo chân chánh xứng đáng được mọi người y chỉ tu học và tôn kính cúng dường.

Chúng ta nên hiểu đúng về Tam Bảo

Phật tùy duyên giáo hóa và đã nhập Niết bàn, nay chỉ còn lại những lời vàng ngọc của Ngài. Chư Tăng thay Phật truyền trì Chánh pháp, hiến trọn đời mình cho sự nghiệp vì lợi ích chúng sinh.

Tăng phàm phu là những người chân thật nguyện hiến đời mình cho lý tưởng giác ngộ và giải thoát, đang kế thừa con đường Phật đạo, tuyên dương Chánh pháp giúp cho mọi người bớt khổ thêm vui, luôn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Phàm phu Tăng tuy chưa thành tựu đạo quả nhưng vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn mọi người biết cách dứt ác làm lành nhờ tin sâu nhân quả nên chính vì vậy ai phát tâm cúng dường phàm phu Tăng vẫn được phước báo không thể nghĩ bàn.

Pháp là những lời dạy của Đức Phật để chúng sinh nương tựa vào giáo Pháp của Ngài
Pháp là những lời dạy của Đức Phật để chúng sinh nương tựa vào giáo Pháp của Ngài

Thực tế trong cuộc đời này phàm phu Tăng là số đông gần gũi với chúng ta nhất. Phàm phu Tăng chân thật tu hành thuyết pháp độ sanh mang tinh thần của các vị thánh Tăng Bồ Tát và thánh Tăng Thanh Văn.

Phàm phu Tăng là số đông nên quý Phật tử dễ gần gũi và tiếp cận hơn, chúng ta vẫn học hỏi được những điều hay lẽ phải để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày.

Nói tóm lại, tin sâu Tam Bảo là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Khi chúng ta tin thì không nên thần tượng hóa vì thần tượng hóa dễ sụp đổ và mất tín tâm. Ta chỉ thấy thầy mình hay, thầy mình giỏi nên dễ dẫn đến tư tưởng phê bình, chỉ trích người khác, do đó làm mất đi sự hoà hợp trong Tăng đoàn gây sự chia rẽ.

Tăng là đoàn thể sống trong an vui, hòa hợp. Vì lợi ích số đông mà nhiều người cùng sống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết với tinh thần vô ngã vị tha.

Quy y Tam Bảo, ý nghĩa và tầm quan trọng

Trong cõi đời vô thường này mới thấy đó nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh mà nay đã tán gia bại sản, cửa nát nhà tan, con cái chia lìa. Duy chỉ có Tam bảo Phật-Pháp-Tăng mới giúp chúng ta vượt qua biển khổ sông mê, vươn lên vượt qua số phận tối tăm để làm mới lại chính mình bằng cách dứt ác làm lành, giữ tâm ý trong sạch nên mới gọi là ba ngôi báu.

Tam bảo là ngọn đèn sáng giúp cho con người vượt qua si mê, tối tăm, mờ mịt. Tam bảo có khả năng chuyển hóa phiền não, khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Nhờ Tam Bảo ta biết được điều hay lẽ phải, biết rõ sự thật cuộc sống con người và muôn loài vật đều phải nương nhờ vào nhau mới bảo tồn mạng sống.

Chính vì vậy, người Phật tử chân chính cần phát triển lòng từ bi thương yêu bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Do đó, Tam bảo Phật-Pháp-Tăng như ba viên ngọc quý không gì có thể so sánh được. Và Tam bảo có sáu ý nghĩa không thể nghĩ bàn:

Một là nghĩa hy hữu, tức là hiếm có, khó được như vàng bạc, kim cương, ngọc quý… người nghèo không thể có được. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, dù người ở sát bên chùa nhưng thiếu phước cũng khó gặp, không thể thân cận với Tam bảo để tu học nên gọi là hy hữu.

Khóa thu mùa hè 2023
Ngôi báu thứ ba chính là Tăng Bảo, là những nhà tu hành dành trọn cuộc đời thực hành theo giáo pháp của Đức Phật, hướng đến sự giải thoát.

Học Phật tại gia như thế nào?

Hai là nghĩa ly cấu, tức lìa xa những việc xấu ác mà hay làm những việc thiện lành, tốt đẹp như ngọc ma ni trong sáng, sạch đẹp không tỳ vết, khó vấy bẩn. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, giúp cho chúng ta xa lìa phiền não tham-sân-si nên gọi là ly cấu.

Ba là nghĩa thế lực, như châu báu ở thế gian có thế lực lớn giúp con người vượt qua nghèo khó, còn có thể dùng để trị bệnh trúng độc. Tam Bảo cũng lại như thế, có đủ Tam minh Lục thông tùy cơ ứng biến dứt kiếp nghèo khổ, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi nên gọi là thế lực.

Bốn là nghĩa trang nghiêm, như châu báu ở thế gian làm đồ trang sức cho thân thể trở nên xinh đẹp, lộng lẫy, ai cũng muốn ngắm nhìn. Tam Bảo cũng lại như vậy, lấy nhân quả, nghiệp báo, nhân duyên làm nền tảng để giúp con người làm chủ bản thân, tâm trí trở nên sáng suốt, thanh tịnh, làm việc chân chính nên gọi là trang nghiêm.

Năm là nghĩa tối thắng, như châu báu ở thế gian quý hơn tất cả mọi vật nhưng xét cho cùng không quý bằng mạng sống con người. Tam Bảo cũng lại như vậy, là pháp thù thắng hơn hết có khả năng giúp đỡ mọi người vượt qua biển khổ sông mê, sống an vui, bình yên và hạnh phúc nên gọi là tối thắng.

Sáu là nghĩa bất biến (không thay đổi), như vàng ròng ở thế gian dù đập, nấu, mài, dũa vẫn không thay đổi bản chất. Tam Bảo cũng lại như vậy, người thân cận Tam Bảo tất được an vui, bình yên, hạnh phúc nhờ sống trở lại Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý nên không bị vô thường chi phối, nước không thể cuốn trôi, lửa không thể thiêu đốt, do đó gọi là bất biến.

Ý nghĩa 3 nén hương trong Phật giáo

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Quý Phật Tử có thể tìm hiểu thêm: Quy Y Tam Bảo – TT. Thích Chân Quang

Lời Phật dạy cách đối xử với kẻ tiểu nhân

Hãy tha thứ cho người làm tổn thương bạn, bởi đó cũng là một cách bảo vệ và buông tha cho chính bản thân mình. Học cách buông bỏ, không dằn vặt chính mình, có như vậy, cuộc đời mới có thể cát tường.

Vì nhân duyên nên chúng ta gặp gỡ

Trong kinh Pháp Hoa đức Phật có dạy: “Chư pháp tùng duyên sanh, diệc phục tùng duyên diệt” nghĩa là: các pháp từ duyên mà được sanh ra, cũng tùy duyên mà bị hoại diệt. Dù là loài hữu tình hay vô tình đều không ngoài nguyên tắc ấy. Phật giáo rất chú trọng nhân duyên. Nhờ có duyên nên mới có thể gặp nhau, vì vô duyên nên mới bỏ lỡ nhau. Mình đã từng gieo nhân nào, thì sẽ thu về duyên đó, nợ người hay người nợ, báo ơn hay tổn thương, tất cả đều đã được số phận an bài, cũng là do chính chúng ta gây nên. 

Lời Phật dạy: cách đối mặt với kẻ tiểu nhân
Lời Phật dạy: cách đối mặt với kẻ tiểu nhân

Gặp Người là nhân duyên quả báo của chính mình

Có rất nhiều người thường than phiền rằng người bên cạnh không đối xử tốt với mình. Điều này chẳng thể đi trách người khác, không phải trời cao không công bằng, mà đó là do nhân duyên quả báo của chính bạn. Bởi bạn chưa từng kết thiện duyên với người khác, vậy thì đừng hy vọng xa vời rằng đối phương sẽ đối xử hết lòng vì mình. Phải nhớ kỹ rằng, nhân quả chính là điều công bằng nhất trên thế gian này. Những việc chúng ta làm cho người khác, cũng chính là làm vì bản thân, tốt hay xấu cuối cùng đều quy về thân mình. Người không kết thiện duyên, đừng nên oán trách ác duyên quá nhiều, nghiệp chướng quá nặng. 

Đã là nhân quả báo ứng của bản thân, học cách chuyển ác duyên thành thiện duyên Trong kinh có nói: “Giả sử bách thiên kiếp sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời quả báo hoàn tự thọ”. Tức những việc ta đã làm dù trải qua trăm ngàn kiếp cũng không mất đi, chỉ chờ đủ nhân duyên, cái quả ta sẽ tự nhận lấy. Mọi chuyện xảy ra trên đời không phải là vô duyên vô cớ, dù ta kết ân kết oán với người khác từ bao nhiêu đời trước, một khi nhân duyên hội tụ đủ, quả báo cũng hiển hiện trước mắt. Gặp được thiện duyên, đó chính là quý nhân tới giúp đỡ chúng ta. Điều đó cho thấy chúng ta từng giúp người khác, gieo trồng những hạt mầm “thiện” nên hôm nay mới được hưởng phúc báo.

Còn nếu gặp phải ác duyên, nghiệt duyên khiến chúng ta chịu nhiều tổn thương, đừng chỉ than phiền, oán trách hay thậm chí là gây gổ. Những điều đó chỉ khiến ác duyên càng thêm sâu, kết thêm oán thù. Nếu như chúng ta bị người bên cạnh gây tổn thương, hãm hại, hãy học cách biến ác duyên thành thiện duyên, hóa giải ân oán, hóa địch thành bạn, đó mới là trí tuệ cao thượng.

Không gì vượt ngoài luật nhân quả

Dù họ đối xử không tốt với ta, cứ hãy làm người tốt đối xử với họ

Mọi sự nhân quả đã được an bài, hãy cứ làm việc tốt Ngạn ngữ có câu: “Đãn hành hảo sự, mạc vấn tiền trình”, nghĩa là hãy cứ làm việc tốt, chớ hỏi về tiền đồ sau này. Câu này không nói đến người nào làm việc tốt hay làm việc tốt trong điều kiện như thế nào. Nhưng ý muốn răn dạy rằng, trong mọi tình huống và hoàn cảnh, chúng ta đều nên làm người tốt. Điều này không liên quan gì đến giúp ai duy trì thống trị, mà là thể hiện chân tâm của con người. Nếu như ác duyên khó hóa giải, vậy thì cứ thuận theo nó đi.

Người khác đối xử với bạn ra sao, đó chính là nhân quả của bạn. Còn cách bạn đối xử với người khác, đó chính là tu hành của bạn. Cho nên dù người khác có gây bao nhiêu đau khổ, tổn thương cho chúng ta, đừng bao giờ sinh ra ý niệm phải hoàn trả lại đối phương giống như thế. Đó không phải là hèn nhát, mà là cảnh giới của sự nhẫn nhịn.

Hãy tha thứ cho người làm tổn thương bạn...
Hãy tha thứ cho người làm tổn thương bạn…

Hãy đối xử tốt cho những ai làm tổn thương bạn

Lời Phật dạy cách đối phó với kẻ tiểu nhân rằng, hãy tha thứ cho người làm tổn thương bạn, bởi đó cũng là một cách bảo vệ và buông tha cho chính bản thân mình. Đừng dây dưa cố chấp với bất cứ việc gì, học cách buông bỏ, không dằn vặt chính mình. Có như vậy, cuộc đời mới có thể cát tường. Nghịch cảnh cũng là một cơ hội vận mệnh mang đến

Trên đời này, chẳng có ai là hoàn mỹ không chút sứt mẻ, chúng ta cũng chẳng thể được tất cả mọi người yêu quý. Có người thích, sẽ có người ghét; có người mến. Ai cũng đều mong cả đời sẽ trôi qua suôn sẻ, nhưng đó chẳng qua chỉ là một hy vọng xa vời mà thôi. Phật dạy, người sống trong thuận cảnh sẽ chẳng bao giờ thành Phật. Đời người nếu như luôn xuôi gió xuôi nước, không gặp phải bất kỳ gợn sóng lận đận nào, vậy thì không thể gọi là cuộc sống.

Cho dù gặp phải đau khổ, nhưng nếu có thể trải qua khổ nạn, tôi luyện được ý chí bền bỉ, đó mới chính là món quà quý báu mà cuộc sống ban tặng. Những kẻ tiểu nhân, kẻ tác tạo ra muôn trùng khó khăn nhưng thực chất là giúp chúng ta tu hành, cho nên chúng ta cần phải mang lòng cảm kích. Nghịch cảnh không phải là bất hạnh nên hãy bình thản đón nhận. Cảm ơn tất cả những người mà vận mệnh đã sắp xếp để ta được gặp, dù đó là người mang đến ánh sáng, hay người mang gió mưa cho ta. Họ đều là những món quà của vận mệnh. Ngay cả Đức Phật cũng cảm kích người em họ Đề-bà-đạt-đa đã vô số lần hãm hại, gây tổn thương cho Ngài trong quá trình Đức Phật tu hành. Chính nhờ những lần phá hoại đó mà Đức Phật có thể trở thành “Phật Thích Ca Mâu Ni” phúc tuệ viên mãn, trí cao vô thượng như hôm nay.

Lời Phật dạy cách đối phó với kẻ tiểu nhân rằng, “nếu không nợ nhau, sao có thể gặp gỡ”. Có duyên thì sẽ ở lại, vô duyên sẽ đi mất. Khi đã gặp được nhau rồi, phải biết quý trọng lẫn nhau, đối xử tử tế, học cách biến nghịch duyên thành thiện duyên. Mọi việc ta làm đều không nằm ngoài nhân quả, bạn gieo nhân lành thì có quả ngọt và ngược lại. 

Nguyễn Phượng (Tổng hợp)

Học Phật tại gia như thế nào?

Người học Phật tại gia cũng giống như người xuất gia, truy cầu Phật đạo, xuất gia học Phật đương nhiên là tốt, tại gia học Phật cũng không phải là không đáng quý, mỗi dạng đều có nhân duyên khác nhau, nhưng kết quả thì giống nhau.

Học Phật tại gia như thế nào cho đúng Pháp?

Phật giáo đồ học Phật chia làm hai dạng là tại gia và xuất gia, tuy nhiên bất luận tại gia hay xuất gia đều nên y theo Phật pháp, lấy việc tu hành làm trọng. Bố thí và cúng dường là đạo đức tốt đẹp của cư sĩ tu phước, là căn bản của phước đức, chứ không phải công đức cứu cánh. Công đức do tự mình đạt được là kết quả do tu hành Phật pháp đem lại. Vì thế nói người học Phật tại gia ngoài việc tu phước thì nên lấy công đức để viên mãn bản thân. Tu hành là điều kiện quan trọng để thanh tịnh bản tánh, minh tâm kiến tánh, là giải thoát luân hồi, cứu cánh Niết Bàn, thành tựu Bồ Đề…

Người cư sĩ tại gia ngoài trách nhiệm làm tròn bổn phận đối với gia đình người thân, đóng góp lợi ích cho xã hội, kế đến là hộ trì Tam bảo và hoằng pháp lợi sinh tuỳ theo hoàn cảnh sống của mình.
Người cư sĩ tại gia ngoài trách nhiệm làm tròn bổn phận đối với gia đình người thân, đóng góp lợi ích cho xã hội, kế đến là hộ trì Tam bảo, hoằng pháp lợi sinh tuỳ theo hoàn cảnh sống của mình.

Phật pháp nói, Giới – Định – Tuệ là những điều kiện quan trọng của việc tu hành thành đạo, người tu tại gia cũng nên lấy đó làm gương chiếu. Bố thí cúng dường là điều Phật Thích Ca căn dặn đệ tử tại gia để duy trì việc tu hành bình thường của tăng đoàn, còn hành trì cúng dường là bổ trợ để tu phước báo và tu hành công đức. Vì thế nói Cư sĩ Phật giáo ngoài bố thí ra còn phải tu hành Phật pháp mới bước vào được con đường học Phật chân chính.

Người học Phật tại gia không nên dừng ở chỗ lễ bái cầu phước, cầu nhân thiên phước báo mà nên học tập Phật học, tu hành Phật pháp, Giới – Định – Tuệ làm cứu cánh, mới đúng là trình tự phương pháp tu hành khổ – tập – diệt – đạo. Kinh Kim Cang nói “nếu như người cầu hình tướng để thấy, cầu âm thanh để nghe, tức người đó đang hành tà đạo, không thể thấy được Như Lai.”

Hai sự cúng dường tối thượng

Ý nghĩa của học Phật tại gia

Người học Phật tại gia cũng giống như người xuất gia, truy cầu Phật đạo, xuất gia học Phật đương nhiên là tốt, tại gia học Phật cũng không phải là không đáng quý, mỗi dạng đều có nhân duyên khác nhau, nhưng kết quả thì giống nhau. Vì vậy nói người học Phật tại gia không chỉ hành trì bố thí và cúng dường, quan trọng hơn cả vẫn là tự mình tu hành thanh tịnh tâm tánh.

Người xuất gia cũng vậy, xuất gia mà thiếu tu hành thì mất đi ý nghĩa, bởi vì không tu hành thì không thể thấu hiểu Phật pháp, khó mà liễu ngộ nội hàm giải thoát của Giới – Định – Tuệ, không thể nghiệm được ý nghĩa thù thắng và chỗ thâm sâu huyền bí của tu hành Phật Pháp; do đó không thể tịnh hóa tâm tính, mãi bị buộc trong hồng trần, luân hồi lục đạo không có ngày kết, đó chính là chướng ngại lớn nhất trong học Phật, vậy người học Phật nên lấy đó làm gương chiếu lại chính mình.

Người cư sĩ tại gia cần phải xây dựng niềm tin và việc làm phải thực hành theo chánh pháp.
Người cư sĩ tại gia cần phải xây dựng niềm tin và việc làm phải thực hành theo chánh pháp.

Phật pháp nói, Khổ là hiện tượng của nhân sinh vô thường, vô thường là quy luật hiện tượng của vũ trụ; sự tiêu trừ khổ và vô thường chính là giải thoát. Nguyên tắc của giải thoát là tánh Không, mục đích của giải thoát là vô ngã. Để thấu hiểu vô thường, tánh không, và vô ngã chỉ có thể thông qua tu hành Phật pháp mới có thể thực sự thể nghiệm sự vi diệu đó. Do đó cần chú trọng tu hành như pháp, lấy tu Thiền hoặc niệm Phật và nghiên đọc kinh điển để được công đức, dùng trí tuệ đó tiến tới tu tập pháp môn giải thoát cứu cánh sau cùng. Đó chính là pháp môn tu chứng cuối cùng mà người học Phật xuất gia hay tại gia đều cần hướng đến.

Thích Giải Hiền

Bồ Tát Quán Thế Âm là ai trong kinh điển Phật giáo

Bồ Tát Quán Thế Âm là vị Bồ Tát tượng trưng cho lòng từ bi vĩ đại. Trong kinh điển Phật giáo, hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm được nhắc nhiều tới với sự vĩ đại và sự cống hiến của ngài đối với thế giới và chúng sinh.

Bồ Tát Quán Thế Âm là ai?

Bồ Tát Quán Thế Âm (tiếng phạn là Avalokitesvara) là một vị Bồ Tát thể hiện lòng từ bi của tất cả chư Phật. Ở Trung Quốc, Việt Nam và những nước Phật giáo đại thừa, hình tượng Bồ Tát được miêu tả dưới dạng người nữ.

Ngoài ra, Bồ Tát Quán Thế Âm còn được gọi là Padmapani (Người giữ hoa sen). Trong tiếng Tây Tạng, Bồ Tát được gọi là Chenrezig. Bồ Tát Quán Thế Âm là vị Bồ Tát quán sát âm thanh đau khổ của thế gian kêu cầu mà cứu độ một cách tự tại. Do Ngài quán sát âm thanh một cách tự tại mà chứng được bản thể chân thường của vũ trụ. Nơi nào, lúc nào trong vũ trụ có tiếng chúng sinh đau khổ, kêu cầu thì Ngài hiện thân cứu độ rất tự tại, cho nên Ngài cũng có tên là Quán Tự Tại, Quán Thế Tự Tại…  Vì vậy, danh hiệu của Ngài thường kèm theo từ Đại Bi. 

Bồ Tát Quán Thế Âm
Bồ Tát Quán Thế Âm

Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát tức thì quán sát âm thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát.

Bồ Tát Quán Thế Âm trong kinh điển Phật giáo

Theo Phật giáo Đại Thừa, Bồ Tát Quan Thế Âm là người đã thực hiện một lời thề tuyệt vời để lắng nghe những lời cầu nguyện của tất cả chúng sinh trong thời điểm khó khăn và cứu vớt chúng sinh.

Trong Kinh Đại bi Tâm Đà La Ni

Trong Kinh Đại bi Tâm Đà La Ni, đức Phật Thích Ca dạy ngài A Nan rằng trong vô lượng kiếp về trước, Bồ Tát đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sinh, Ngài mới hiện thân làm Bồ Tát, danh hiệu là Quán Thế Âm, thường trụ thế giới Ta bà, đồng thời cũng là thị giả trợ tuyên chánh pháp cho Đức Phật A Di Đà ở Tây phương Cực Lạc.

Bồ Tát Quan Thế Âm là người đã thực hiện một lời nguyên lắng nghe những lời cầu nguyện của chúng sanh
Bồ Tát là người đã thực hiện một lời nguyên lắng nghe những lời cầu nguyện của chúng sanh

Bồ Tát Quan Thế Âm là người đã thực hiện một lời thề tuyệt vời để lắng nghe những lời cầu nguyện của tất cả chúng sinh trong thời điểm khó khăn và cứu vớt chúng sinh.

Hạnh Nguyện Quán Âm

Trong Kinh Đại Bi Liên Hoa (Kinh Bi Hoa)

Trong Kinh Đại Bi Liên Hoa (Kinh Bi Hoa), Bồ Tát Quán Thế Âm là quyến thuộc bồ đề của vô lượng Bồ Tát khác và Phật A Di Đà, trước khi phát nguyện lớn, ngài là Thái tử Bất Huyền, con trưởng trong một nghìn người con của Chuyển luân vương Vô Tránh Niệm, người sau này là Phật A Di Đà.

Bồ tát Quán Thế Âm được Đức Phật Bảo Tạng thọ ký rằng, Đức Phật A Di Đà dù có thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp cũng sẽ nhập niết bàn, khi đó Bồ Tát tiếp quản chánh pháp và cõi Cực Lạc, thành Phật hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Quán Thế Âm được gọi là Quán Tự Tại Bồ Tát, ẩn tàng một triết lý sâu xa và phương thức tu tập nhiệm mầu nhờ quán chiếu mà được tự tại, giải thoát.

Bồ tát Quán Thế Âm (tiếng phạn là Avalokitesvara) là một vị Bồ Tát thể hiện lòng từ bi của tất cả chư Phật.
Bồ tát Quán Thế Âm (tiếng phạn là Avalokitesvara) là một vị Bồ Tát thể hiện lòng từ bi của tất cả chư Phật.

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật đã giải thích rõ cho Vô Tận Ý Bồ Tát về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ tát này khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì tức thời tầm thanh để cứu khổ. Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát tức thì quán sát âm thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát.

Cũng theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì Bồ Tát có 32 ứng hóa hiện thân là thân Phật, Bích Chi (Duyên Giác), Thanh Văn, Phạm Vương, Đế Thích, Đại Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại, Thiên Đại tướng Quân, Tỳ Sa Môn, Tiểu Vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la–môn, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Phụ nữ, Đồng nam, Đồng nữ, Thiên, Long, Dạ xoa, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân, Thần chấp Kim Cang.

Trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Quán Thế Âm được gọi là Quán Tự Tại Bồ Tát
Trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Quán Thế Âm được gọi là Quán Tự Tại Bồ Tát

Trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Quán Thế Âm được gọi là Quán Tự Tại Bồ Tát, ẩn tàng một triết lý sâu xa và phương thức tu tập nhiệm mầu nhờ quán chiếu mà được tự tại, giải thoát.

Tư tưởng và tín ngưỡng

Sau này lại có thêm 33 hóa thân khác của Bồ Tát Quán Thế Âm, những hóa thân này không dựa vào Kinh sách mà chỉ dựa vào tư tưởng hóa độ lục đạo kết hợp với 33 ứng hóa thân trên pha trộn với tín ngưỡng dân gian của Nhật Bản và Trung Hoa mà tạo thành, đó là các hồng danh:

Dương Liễu Quán Âm, Long Đầu Quán Âm, Trì Kinh Quán Âm, Viên Quang Quán Âm, Du Hý Quán Âm, Bạch Y Quán Âm, Liên Ngọa Quán Âm, Lang Kiến Quán Âm, Thí Dược Quán Âm, Ngư Lam Quán Âm, Đức Vương Quán Âm, Thủy Nguyệt Quán Âm, Nhất Diệp Quán Âm, Thanh Cảnh Quán Âm, Uy Đức Quán Âm, Diên Mạng Quán Âm, Chúng Bảo Quán Âm, Nham Hộ Quán Âm, Năng Tĩnh Quán Âm, A Nậu Quán Âm, Vô Úy Quán Âm, Diệp Y Quán Âm, Lưu Ly Quán Âm, Đa La Quán Âm, Cáp Lỵ Quán Âm, Lục Thời Quán Âm, Phổ Bi Quán Âm, Mã Lang Phụ Quán Âm, Hiệp Chưởng Quán Âm, Nhất Như Quán Âm, Bất Nhị Quán Âm, Trì Liên Quán Âm, Sái Thủy Quán Âm.

Minh An (Tổng Hợp)

Quý vị có thể tìm hiểu thêm: Hạnh Nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm – Đại Đức Thích Phước Tiến

Voi điên tấn công Đức Phật: bài học quý báu về cách nhìn

Có lần Đức Thế Tôn cùng 500 vị A-la-hán và Đại đức A Nan vào thành khất thực, thì một con voi điên lao tới có ý hại Đức Phật. Khi ấy, 500 vị A-la-hán tránh sang hai bên, chỉ còn lại Đại đức A Nan bước đến bảo vệ Đức Phật.

Voi điên tấn công Phật

Trong cuộc trò chuyện với Tỳ-kheo Na Tiên, đức vua Mi Lan Đà thắc mắc về hành động bỏ trốn của các vị A-la-hán khi con voi say lao tới hại Đức Phật.

Tỳ-kheo Na Tiên xác nhận có câu chuyện như vậy. Bấy giờ, vua Mi Lan Đà lập luận: Đức vua cho rằng: “Năm trăm vị A-la-hán đều là bậc vô lậu, đã chấm dứt mọi nguyên nhân của sợ hãi; lại tham sống sợ chết, thấy voi điên, bỏ trốn hết, để đức Thế Tôn đứng đấy một mình! Còn đại đức Ānanda là bậc hữu học, phiền não còn nhiều, nguyên nhân của mọi sợ hãi chưa được cắt đứt; thế mà ngài lại không hề sợ hãi, chẳng tiếc sanh mạng của mình, hy sinh cái thân giả tạm để che chắn cho đức Đạo Sư? Hay năm trăm vị A-la-hán ấy tò mò, muốn biết, muốn thấy đức Thế Tôn sử dụng thần thông, phép lạ ra sao? Lý nào lại thế được?”.

Trước câu hỏi của vua Mi Lan Đà, Tỳ-kheo Na Tiên lấy ví dụ:– Quả đất hoặc núi chúa không lay động, không xao động, không sợ hãi bất cứ một điều gì; cũng giống như tâm bất động, trạm nhiên của các bậc A-la-hán vậy, tâu đại vương. Dù có một số đông người, tay nắm xà-mâu sắc bén, vây quanh một vị A-la-hán với thái độ rất hung dữ, đằng đằng sát khí, muốn giết vị A-la-hán ấy; cũng không vì vậy mà vị A-la-hán tỏ ý khiếp sợ hoặc có một sự dao động, xao động nào ở trong tâm. Đại vương nên hiểu như vậy.

Con voi điên tấn công Đức Phật và Tăng đoàn.
Con voi điên tấn công Đức Phật và Tăng đoàn.

Tuy câu trả lời của Ngài Na Tiên rất thông tuệ nhưng vẫn chưa thuyết phục được vua Mi Lan Đà:– Nói thế cũng không biện hộ được cho thái độ hèn nhát, khiếp nhược của các vị A-la-hán khi họ tham sống, sợ chết, bỏ trốn lấy thân mình mà bỏ mặc Đức Đạo Sư ở lại đấy với voi điên!

Trước lời khẳng định của Đức vua, Ngài Na Tiên mạnh mẽ đáp:

– Đại vương nói như vậy hơi nặng lời! Đại vương hãy sám hối đi là vừa! Đại vương có biết khi ấy các vị A-la-hán suy nghĩ gì không?

– Thưa, không biết!

Ngài Na Tiên đáp:– Không biết thì đừng võ đoán! Hoặc chỉ nhìn thấy bên ngoài, chưa thấy sự thật ở bên trong thì đừng vội quy kết!

– Năm trăm vị A-la-hán đều là bậc lậu hoặc đã tận, mọi nguyên nhân của cái gọi là hèn nhát, khiếp nhược gì đó đã chấm dứt. Khi thấy voi dữ xông đến, các vị ấy tâm ý tương thông, đồng khởi niệm như sau: “Đức Ānanda suốt đời tận tụy, kính cẩn, thương yêu phục vụ, hầu hạ đức Thế Tôn, thật trong hàng đệ tử chẳng ai dám sánh. Rõ là đức Ānanda sẵn sàng hi sinh mạng sống của mình để bảo vệ cho đức Thế Tôn mà chẳng khởi lên một tí sợ hãi nào. Vậy tất cả chúng ta hãy lánh đi, để bố cáo những đức tính cao quý sáng rỡ như mặt trời, mặt trăng của đức Ānanda; cho tứ chúng cùng tất thảy mọi người trong nhiều quốc độ được thấy, được biết!

Khi biết được suy nghĩ của các vị A-la-hán, đức vua giật mình, kinh sợ và quy thuận trước lập luận của Tỳ-kheo Na Tiên.

Không lấy hiện tượng để quy kết bản chất

Vua Mi Lan Đà thấy hành động tránh con voi say của các vị A-la-hán thì cho rằng các Ngài vẫn còn sợ hãi, khiếp nhược; nhưng khi được Tỳ-kheo Na Tiên nhắc nhở và giải thích thì nhà vua mới nhận ra được bản chất của vấn đề. Lời nhắc nhở của Tỳ-kheo Na Tiên không chỉ đối với vua Mi Lan Đà; mà còn là bài học cho chúng ta về cách nhìn nhận, đánh giá một vấn đề.

Khi nhìn một sự vật, hiện tượng chưa hẳn đã phản ánh hết bản chất. Tức là hiện tượng chưa hẳn đã nói hết bản chất. Tất nhiên, hiện tượng nào cũng có bản chất. Nhưng chúng ta là mắt phàm thì không thể lấy hiện tượng quy kết ngay bản chất được.

Hãy biết tôn kính những đức tính cao đẹp của người khác.
Hãy biết tôn kính những đức tính cao đẹp của người khác.

Hãy biết tôn kính những đức tính cao đẹp của người khác.

Những hành động xuất phát từ tình thương

Có người đánh vì muốn giúp họ sửa đổi lỗi lầm, như thầy cô giáo muốn học sinh tiến bộ… Nhưng cũng có người đánh vì tức giận, hận thù. Cùng là đánh người nhưng bản chất sự việc khác nhau do mục đích khác nhau. Cho nên chúng ta là người phàm phải nói là tai nghe, mắt thấy, tay sờ. Nhưng ở đây tai nghe, mắt thấy, tay sờ cũng chưa hẳn đã là tin được đâu. Còn phải phân tích bằng trí tuệ cũng chưa hẳn đã là chắc chắn.

Nhận thức của chúng ta đối với sự vật, hiện tượng, với thế giới còn bị chướng ngại rất nhiều. Các triết thuyết họ đưa ra nhiều phương pháp luận để nhận thức, tiếp cận với sự thật, để đi đến chân lý. Nhưng quả thật, trí óc của phàm phu chúng ta để thấu đạt được chân lý rất khó. Thấy đúng sự thật là rất khó. Những sự vật, hiện tượng đơn giản thì ta có thể thấu được. Còn những việc phức tạp thì không thể thấu được.

Khi sinh hoạt trong đạo tràng không nên vội quy kết, kết luận khi thấy hành động tưởng chừng là chưa tốt của đạo tràng trưởng. Thay vào đó, nghe thì phải nghe bằng hai tai, còn phải thấy tận mắt, tay chạm thấy sự việc nhưng vẫn còn chưa chắc đâu.

Biết tôn kính những đức tính cao đẹp của người khác

Khi con voi điên chạy đến trước Phật, các vị A-la-hán tâm tâm đồng nhau, cùng khởi một niệm, nghĩ đến tâm đức cao quý, trong sáng của Ngài A Nan. Tâm của Ngài A Nan cung kính, yêu quý, phục vụ Đức Phật cẩn thận, tỉ mỉ, chu đáo, đầy đủ không ai bằng.

Các Đức Phật thời quá khứ cũng có thị giả, tuy nhiên Ngài A Nan là thị giả tiêu biểu và bậc nhất. Mặc dù, Ngài chưa chứng Thánh quả A-la-hán, nhưng tâm Ngài luôn sẵn sàng hy sinh mạng sống cho Đức Phật. Không hề sợ một cái gì. Vì 500 vị A-la-hán thấy rõ tâm Ngài A Nan cao quý, trong sáng như vậy, nên khi con voi điên đến nhưng các Ngài đồng tâm lánh đi, không phải vì sợ, mà để Ngài A Nan được hiển hiện, đức hy sinh của mình.Từ hành động cao đẹp của các vị A-la-hán.

Khi voi điên tấn công Đức Phật, Tôn giả A Nan vẫn luôn bên cạnh Phật không rời.
Khi voi điên tấn công Đức Phật, Tôn giả A Nan vẫn luôn bên cạnh Phật không rời.

Chúng ta biết tôn đức của huynh đệ mình lên, nhìn xem chị em mình, anh em mình, huynh đệ mình ai có gì hay mình tôn lên. Người ta bảo: “Đẹp tốt khoe ra mà xấu xa đậy lại”. Đấy là về phía mình đối với huynh đệ, còn mình xấu mình phải nói ra, cái đẹp của mình thì phải che đi. Nhưng cái đẹp, cái hay của huynh đệ mình thì phải nói cho mọi người biết. Cái xấu của huynh đệ mình thì phải che bớt đi. Đấy là đức người tu.

Tôn giả Đề-bà-đạt-đa

Lời kết qua câu chuyện về con voi điên tấn công Đức Phật

Qua cuộc đối thoại giữa hai bậc trí tuệ, chúng ta rút ra được bài học đó là không nên võ đoán một sự vật hiện tượng khi chưa biết rõ sự thật bản chất bên trong nó. Đặc biệt là không nên võ đoán hành vi của các bậc Thánh nhân, vì đó là tâm bất thiện, tâm không cung kính đối với các bậc Thánh. Đồng thời, chúng ta xin tri ân Đức vua Mi Lan Đà đã lột tả phản diện của vấn đề để qua đó, chúng ta tôn kính cái đức cao quý của các vị Thánh Tăng (không run sợ trước con voi điên), để cho Phật Pháp được xưng dương, tỏ rõ trên thế gian.

Đức Phật là thầy của trời người

Tịnh Duyên

Quý vị có thể tìm hiểu thêm: Chánh Kiến Là Cái Nhìn Vượt Thoát – HT Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Phật dạy pháp ‘ dứt trừ sầu lo’

Để an vui, người con Phật hằng quán sát vô thường là đặc tính của thế gian. Trong vũ trụ này, chỉ có sự vô thường mới thực sự thường hằng. Nói cách khác là không hề có sự vĩnh cửu, thường hằng. Đây là tuệ giác lớn mà chúng sinh cần có để vượt ra khỏi khổ.

Ái biệt ly, giây phút con người cảm nhận rõ sự vô thường của cuộc đời

Khi cha mẹ qua đời chính là thời khắc mà chúng ta cảm nhận về sự mất mát rõ ràng nhất, dầu sinh diệt vẫn liên tục diễn ra quanh ta trong mỗi phút giây. Dĩ nhiên cảm xúc vỡ òa, mất mát trào dâng, đau thương ngút ngàn khi ly biệt xảy đến là lẽ thường của nhân thế. Ái biệt ly khổ! Thương kính cha mẹ càng nhiều thì niềm đau càng lớn, lo sầu càng khôn nguôi.

Ai cũng có cha mẹ, và cuối cùng thì dẫu duyên nghiệp thế nào, con cái có trọn hiếu hay không thì cha mẹ cũng lần lượt ra đi như một quy luật lạnh lùng, nghiệt ngã. Vẫn biết biệt ly là chuyện không thể níu kéo, trì hoãn hay vãn hồi. Mỗi ngày nhìn xe tang qua phố với bao kẻ ‘mồ côi’ lũ lượt tiễn đưa mà lo sợ cho chính mình. Và rồi chuyện gì sẽ đến cũng đã đến. Người đi thì đã đi, người còn thì không thể ngã quỵ dù tiếc thương đến mấy. Phải gượng dậy và đứng lên, biến đau thương thành cầu nguyện.

Thế Tôn từng nhấn mạnh: “Tất cả pháp biến đổi, muốn cho không biến đổi, trọn không có việc này”
Thế Tôn từng nhấn mạnh: “Tất cả pháp biến đổi, muốn cho không biến đổi, trọn không có việc này”

Con người sau khi chết đi về đâu?

Đức Phật dạy Pháp trừ sầu lo

Thời Thế Tôn còn tại thế, vua Ba-tư-nặc, một vị quân vương Phật tử hộ pháp thuần thành, khi mẹ hiền vừa qua đời ông đến đãnh lễ Thế Tôn và được dạy pháp ‘trừ sầu lo’. Lạ lùng là, Thế Tôn không dạy vua Ba-tư-nặc về cách thức cầu siêu cho người mất hay tang lễ theo tập tục mà Ngài lại dạy pháp bình an cho người sống, chính xác là dạy cầu an. Có lẽ tang nghi của bậc quốc mẫu thì đã có triều đình lo; có thể tập tục tang ma xứ Ấn ngày xưa khác biệt với xứ mình hiện tại? Có khi nào, cầu an cũng chính là cầu siêu? Pháp ‘trừ sầu lo’ là cầu an nhưng cả người sống và người chết cũng đều cần nhằm thăng hoa cuộc sống.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ vua Ba-tư-nặc ra lệnh quần thần sửa soạn xe vũ bảo muốn ra khỏi thành Xá-vệ xem đất làm giảng đường. Ngay lúc đó, mẹ vua Ba-tư-nặc tuổi quá già yếu, vừa đúng trăm tuổi, vua rất tôn kính nhớ nghĩ chưa từng rời mắt vừa mạng chung. Khi ấy, vị cận thần của vua Ba-tư-nặc tên Bất-xà-mật tài cao cái thế, được người đời tôn trọng. Vị đại thần này nghĩ: ‘Mẹ vua Ba-tư-nặc này đã vừa trăm tuổi, hôm nay mạng chung, nếu mà nghe được, chắc vua rất sầu lo, không ăn uống nổi, rồi mắc trọng bệnh. Nay ta nên bày phương tiện, khiến vua chẳng sầu lo, cũng không mắc bệnh’.

Vị đại thần đa trí

Bấy giờ, đại thần liền sửa soạn năm trăm voi trắng, cũng sửa soạn năm trăm ngựa tốt, lại chỉnh đốn năm trăm bộ binh, lại sửa soạn năm trăm kỹ nữ, năm trăm bà già, lại xếp đặt năm trăm Bà-la-môn, lại có năm trăm Sa-môn, lại sửa soạn năm trăm y phục, và bày năm trăm trân bảo, làm quan tài lớn đẹp cho người chết, tô vẽ cực đẹp, treo phướn lọng, trỗi kỹ nhạc không thể tính kể, ra khỏi thành Xá-vệ. Lúc ấy, vua Ba-tư-nặc trở vào thành vì có chút việc. Vua từ xa thấy người chết, mới hỏi tả hữu:

– Đây là người nào mà cúng dường đến thế?

Bất-xà-mật tâu:

– Trong thành Xá-vệ này, có mẹ của Trưởng giả chết. Đây là vật dụng của họ.

Vua lại hỏi:

– Những voi, ngựa, xe cộ này dùng làm gì?

Đại thần đáp:

– Năm trăm bà già dùng dâng lên Diêm vương để mua mạng (bà mẹ).

Vua bật cười nói:

– Đây là lỗi của người ngu. Mạng cũng khó bảo toàn, đâu có thể chế phục được. Như có người rơi vào miệng cá ma-kiệt, muốn mong ra khỏi, thật là khó được. Đây cũng như thế, đọa vào vua Diêm-la, muốn cầu ra thực khó thể được.

– Năm trăm kỹ nữ này cũng dùng để mua mạng bà.

– Đây cũng khó được.

Nếu những kỹ nữ này chẳng thể được, thì sẽ dùng cái khác mua bà.

– Đây cũng khó được.

Nếu điều này không được, sẽ dùng năm trăm trân bảo mua bà.

Đây cũng khó được.

– Đây không thể được thì dùng năm trăm y phục mua bà.

– Đây cũng khó được.

– Nếu áo quần này không được thì dùng năm trăm Phạm chí này chú thuật, dùng chú thuật để giữ bà.

Đây cũng khó được.

– Nếu năm trăm Phạm chí này không được thì sẽ lại đem năm trăm Sa-môn cao tài thuyết pháp để mua bà.

– Đây chẳng thể được.

– Nếu thuyết pháp không được, sẽ tụ tập binh lính cùng chiến đấu lớn để giữ.

– Đây là cách của người ngu, đã rơi vào miệng cá ma-kiệt, trọn chẳng ra được. Ông nên biết, có ai sanh mà không chết đâu?

– Đây thực chẳng thể được.

– Thực chẳng thể được. Chư Phật cũng dạy rằng: Hễ có sanh thì có tử, mạng cũng khó được.

Khi ấy, Bất-xà-mật quỳ tâu vua:

– Thế nên Đại vương, chớ quá sầu lo. Tất cả chúng sanh đều trở về với cái chết.

Vua hỏi:

– Cớ sao ta lại sầu lo?

Đại thần tâu:

– Vua nên biết, hôm nay mẹ của Đại vương đã chết.

Vua Ba-tư-nặc nghe xong, thở dài tám, chín cái, rồi bảo đại thần:

– Lành thay! Như lời ông nói, ông hay biết dùng phương tiện khéo léo!

Để an vui, người con Phật hằng quán sát vô thường là đặc tính của thế gian. Trong vũ trụ này, chỉ có sự vô thường mới thực sự thường hằng. Ảnh minh họa.
Để an vui, người con Phật hằng quán sát vô thường là đặc tính của thế gian.

Lời khuyên từ Đức Phật

Rồi vua Ba-tư-nặc trở vào thành bày các thứ hương hoa cúng dường vong mẫu. Cúng xong nhà vua liền lên xe đến chỗ Thế Tôn, đến nơi, cúi lạy rồi ngồi một bên. Bấy giờ, Thế Tôn hỏi:

– Đại vương! Cớ sao người lấm bụi đất?

Vua bạch Thế Tôn:

– Mẹ con mạng chung, vừa đưa đến ngoài thành. Nay con đến Thế Tôn để hỏi lý do. Mẹ con lúc còn sống, trì trai tinh tấn, hằng tu pháp lành, vừa đúng trăm tuổi, hôm nay đã mạng chung, nên con đến chỗ Thế Tôn.

Nếu con có thể đem voi mua mạng mẹ được, con cũng sẽ dùng voi để mua. Nếu đem ngựa mua mạng được, con sẽ dùng ngựa để mua. Nếu dùng xe cộ mua được mạng, con sẽ dùng xe cộ để mua. Nếu lấy vàng bạc, trân bảo mua được mạng, con sẽ dùng vàng bạc, trân bảo để mua. Nếu lấy nô tỳ, tôi tớ, thành quách, đất nước để mua mạng được, con sẽ đem thành quách, đất nước để mua mạng. Nếu đem nhân dân nước Ca-thi mua mạng được, con sẽ đem nhân dân Ca-thi để mua, chẳng để cho mẹ con mạng chung.

Thế Tôn bảo:

– Này Đại vương, chớ sầu lo quá, tất cả chúng sanh đều trở về cái chết. Tất cả pháp biến đổi, muốn cho không biến đổi, trọn không có việc này. Đại vương nên biết, thân người như tuyết đọng, rồi sẽ trở về tan hoại. Cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu; cũng như sóng nắng huyễn hóa, hư ngụy không thật; cũng như nắm tay không thể gạt con nít.

Thế nên, Đại vương chớ âu sầu, trông cậy thân này. Đại vương nên biết, có bốn điều rất sợ hãi sẽ đến với thân này, chẳng thể che chở, cũng chẳng thể lấy ngôn ngữ, chú thuật, dược thảo, phù thư có thể khử trừ. Bốn điều đó là: Già làm bại hoại tuổi trẻ khiến không nhan sắc; bệnh làm bại hoại tất cả người không bệnh; chết làm bại hoại mạng căn; vật hữu thường trở về vô thường.

Đại vương, có bốn pháp này chẳng thể che chở, không phải dùng sức hàng phục được. Đại vương nên biết, ví như bốn phương có bốn núi lớn, từ bốn phía đến ép chúng sanh, chẳng phải sức trừ đi được. Thế nên, Đại vương, đó chẳng phải là vật kiên cố, chẳng thể nương cậy. Do vậy, Đại vương, nên lấy pháp trị vì, chớ dùng phi pháp. Đại vương cũng chẳng bao lâu sẽ đến biển sanh tử. Đại vương cũng nên biết, những người lấy pháp cai trị, khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi trời, chỗ lành. Nếu người dùng phi pháp cai trị, thân hoại mạng chung đọa trong địa ngục. Thế nên, Đại vương, hãy lấy pháp cai trị, chớ dùng phi pháp. Như thế, Đại vương, nên học điều này!

Bấy giờ vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

– Pháp này tên là gì? Sẽ vâng làm như thế nào?

Thế Tôn dạy:

– Pháp này gọi là pháp trừ sầu lo.

Vua bạch Phật:

– Thực vậy, bạch Thế Tôn. Sở dĩ như vậy vì con nghe pháp này rồi, bao nhiêu sầu lo hôm nay đã trừ. Bạch Thế Tôn, việc nước bề bộn, nay con muốn trở về cung.

Thế Tôn bảo:

– Nên biết đúng thời.

Vua Ba-tư-nặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và lui đi.

Bấy giờ vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 26.Tứ ý đoạn [1], VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.584)

Thế nên, khuyến khích cha mẹ hiện tiền bỏ ác làm lành, tu tập theo Chánh pháp để luôn được an vui mới là chơn chánh hiếu đạo và cũng là cách báo hiếu trọn vẹn nhất.
Bỏ ác làm lành, tu tập theo Chánh pháp để luôn được an vui mới là chơn chánh hiếu đạo

Đôi lời bàn về câu chuyện

Pháp thoại này cho thấy, mạng người mong manh, có sinh ắt có tử, không ai có thể đảo ngược quy trình tất yếu này. Kể cả bậc đại vương hùng mạnh, quyền uy tột đỉnh, thương kính mẹ hết lòng như vua Ba-tư-nặc cũng đành bất lực trước quy luật tử sinh. Sở dĩ Thế Tôn không dạy vua Ba-tư-nặc pháp cầu siêu cho mẹ vì bà ấy chỉ ra đi mà không chết. Thực sự thì mọi người đều không chết, luôn luôn sống. Bỏ thân này thì liền theo nghiệp thọ thân khác nên làm gì có chết mà cầu siêu! Thành ra, khi đang sống trên đời, ta cầu nguyện cho người bình an. Khi họ bỏ thân này theo nghiệp thọ sinh một nơi khác, ta vẫn tiếp tục mong cho họ bình an. Vì lẽ ấy mà Thế Tôn chỉ có dạy cầu an.

Ngẫm về “định luật vô thường” của đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Vô thường là thường tại

Để an vui, người con Phật hằng quán sát vô thường là đặc tính của thế gian. Trong vũ trụ này, chỉ có sự vô thường mới thực sự thường hằng. Nói cách khác là không hề có sự vĩnh cửu, thường hằng. Đây là tuệ giác lớn mà chúng sinh cần có để vượt ra khỏi khổ. Khi người thân mất đi, điều này phù hợp với quy luật vô thường. Chúng ta sầu lo, đau khổ nhiều vì muốn nắm giữ điều không thể.

Thế Tôn từng nhấn mạnh: “Tất cả pháp biến đổi, muốn cho không biến đổi, trọn không có việc này”. Không chỉ người ở lại, người ra đi (chết) cũng rất cần tuệ giác vô thường soi sáng. Chấp thủ thân ta (ngã), tài vật của ta (ngã sở) là nguồn gốc của đọa lạc. Thấy rõ vô thường mới xả buông, xả buông được thì sớm thăng hoa siêu thoát.

Mặt khác, khi đã chấp nhận sự thật vô thường của thế gian, người con Phật hãy tích cực tạo nghiệp lành để luôn được hiện đời an lành, đời sau cũng sinh cõi lành. Thế Tôn dạy vua Ba-tư-nặc pháp trừ sầu lo và thực hành Chánh pháp và xa rời phi pháp để ‘Nay vui đời sau vui/Làm phước, hai đời vui’ là vì vậy. Thành ra, pháp ‘trừ sầu lo’ của Thế Tôn vừa có tác dụng cầu an lẫn cầu siêu.

Hiện nay, chúng ta thường khuyến khích thân nhân thực hành nhiều thiện pháp như bố thí, cúng dường để hồi hướng công đức cầu siêu cho người thân quá vãng. Nhưng chắc chắn việc vì cha mẹ làm thiện sẽ không bằng tự thân cha mẹ thực hành Chánh pháp, biết ‘Tự mình thắp đuốc lên mà đi’. Thế nên, khuyến khích cha mẹ hiện tiền bỏ ác làm lành, tu tập theo Chánh pháp để luôn được an vui mới là chơn chánh hiếu đạo và cũng là cách báo hiếu trọn vẹn nhất.

Quảng Tánh