19.1 C
Chư Sê
Thứ năm, 28 Tháng mười một, 2024

Ý nghĩa tu gia hạnh Phổ Hiền

Có thể bạn quan tâm

- Advertisement -spot_img

Tu gia hạnh có nghĩa là các Phật tử cần tu tăng tốc lên, tinh tấn hơn ngày tu bình thường trong năm.

Hòa thượng Tôn sư Thích Trí Quảng đã chọn 21 ngày tu gia hạnh Phổ Hiền, vì Hòa thượng căn cứ vào phẩm Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát thứ 28, Đức Phật Thích Ca và Bồ tát Phổ Hiền đã dạy chúng ta tu tích cực trong suốt ba tuần, nghĩ về hạnh của Đức Phổ Hiền thì Ngài xuất hiện.

Theo Hòa thượng Tôn sư, các Phật tử nên chọn tượng Phổ Hiền đẹp để trước mặt để quán tưởng, lần lần, chúng ta sẽ cảm được, thì tượng Phổ Hiền trước mặt chúng ta sáng ra và Phổ Hiền trong tâm chúng ta cũng sáng. Và từ thấy Phổ Hiền xuất hiện trước mặt và trong tâm chúng ta, thì tâm chúng ta liền biến thành Phổ Hiền, mới nương được lực Phổ Hiền. Và nương được lực Phổ Hiền rồi, tâm trí chúng ta mới sáng ra, nhận biết được những điều khó biết nên không phạm sai lầm, đồng thời tâm chúng ta cũng trở nên thanh tịnh, thì mọi việc xảy đến với chúng ta bỗng trở nên nhẹ nhàng, không phiền muộn.

19-4-2009

Đạo tràng Pháp Hoa khởi tu gia hạnh Phổ Hiền từ ngày Đức Phật Di Đà thành đạo là ngày 17 tháng 11 âm lịch và kết thúc ngày Đức Phật Thích Ca thành đạo là ngày mùng 8 tháng 12 âm lịch. Vì Đức Phật Thích Ca bắt đầu vào thiền định cũng đúng ngày vía Đức Phật Di Đà thành đạo. Và Ngài an trụ trong thiền định suốt ba tuần, đến ngày mùng 8 tháng 12, Đức Phật Thích Ca đắc đạo.

Tu gia hạnh tuần thứ nhất: Lạy sám hối Hồng danh Pháp Hoa và tụng Phổ Hiền hạnh nguyện kệ

Lạy sám hối và tụng Phổ Hiền hạnh nguyện kệ, nhưng chủ yếu phải thực tập pháp quán Phổ Hiền, không phải tụng suông. Tụng để quán tưởng bằng tâm, nghe bằng tâm. Đương nhiên bước đầu tu hành phải sử dụng ngôn ngữ là tụng kinh và lạy Phật, nhưng chủ yếu vận dụng tâm thì mới nương được lực Phổ Hiền. Thấy thế giới Phật cũng vậy, lúc đầu, nghe văn kinh diễn tả Phật và hành trạng của Bồ tát. Sau đó, nương theo văn kinh để chúng ta hình dung ra Phật là bước thứ hai. Người khéo vận dụng tâm mới đạt được điều này. Vì vậy, khởi tu gia hạnh của chúng ta phải đặt tâm ở thế giới thanh tịnh bằng cách mượn lực Phổ Hiền để dẫn chúng ta vào thế giới thanh tịnh; vì không có Bồ tát Phổ Hiền dẫn dắt, chúng ta không vào được thế giới này. Nhưng làm sao mượn được lực Phổ Hiền?

Chúng ta phải tập tu đồng hạnh đồng nguyện với Phổ Hiền Bồ tát, nghĩa là đi chung một đường với Ngài thì mới gặp được Ngài. Phổ Hiền cho biết Ngài đi theo lộ trình gọi là mười đại hạnh. Vì vậy, chúng ta khởi tu mười hạnh này để đi lần vào thiền định mà gặp Phổ Hiền Bồ tát. Tìm hiểu mười đại hạnh Phổ Hiền để tu là tu gia hạnh Phổ Hiền. Mười hạnh Phổ Hiền là mười đại nguyện mà Bồ tát Phổ Hiền đã thành tựu viên mãn, chúng ta thường đọc tụng trong thời kinh mỗi ngày: Nhứt giả lễ kính chư Phật, nhị giả xưng tán Như Lai, tam giả quảng tu cúng dường, tứ giả sám hối nghiệp chướng, ngũ giả tùy hỷ công đức, lục giả thỉnh chuyển pháp luân, thất giả thỉnh Phật trụ thế, bát giả thường tùy Phật học, cửu giả hằng thuận chúng sanh, thập giả phổ giai hồi hướng. Vì bài viết có hạn, chúng tôi chỉ triển khai một ít ý nghĩa đại hạnh đầu tiên của Phổ Hiền là “Nhứt giả lễ kính chư Phật”.

Như Hòa thượng Tôn sư đã chỉ dạy, phải tìm tượng Phật mình thích nhất là bước đầu để tạo độ cảm với Phật. Chúng ta thờ Phật, lạy Phật là gia hạnh đầu tiên. Cảm được Phật thì nghĩ là có Phật thực trước mặt để lạy.

Người thờ Phật và kính trọng Phật thì lau dọn bàn thờ Phật sạch sẽ và trang nghiêm bông trái đẹp, khiến người nhìn thấy phải phát tâm tu. Từ tâm kính trọng Phật và coi như có Phật ngự ở đây, nên chúng ta quý trọng cái gì nhất, chúng ta đem dâng cúng Phật và trang trí bàn Phật đẹp. Thờ Phật để tạo độ cảm cho mình tiến tu; thờ Phật lấy lệ là không được. Lọ hoa phải thay nước và cắt gốc mỗi ngày, bỏ lá úa, để chúng ta nhìn cảm được, mới tạo được sự gắn liền giữa Phật với ta. Tuy bàn thờ Phật là cảnh giả, nhưng nương theo cái giả này để dẫn chúng ta vào thế giới thanh tịnh; còn chấp vào cảnh giả này thì sẽ ở trong sanh tử muôn đời.

Bước đầu, đối trước tượng Phật, chúng ta chỉ có một Phật, nhưng quan trọng là tụng kinh nào thì hành trạng của Phật và Bồ tát trong kinh đó hiện ra đầy đủ. Và tất cả Phật và Bồ tát chúng ta thấy được trong kinh đều đưa vào tâm mình. Hòa thượng Tôn sư dạy rằng ngài nhớ kinh nhiều là do tu pháp này. Còn tu không kết quả vì chỉ lưu giữ việc vui buồn vinh nhục của thế gian. Những vui buồn này hiện lên trong biển Thức trước, do chúng ta huân tập vào và việc thực tế sẽ theo đó hiện lên sau. Cũng vậy, chúng ta đọc kinh, thì Phật và Bồ tát lưu trong lòng mình, nên biển Thức của mình hiện ra Bồ tát và Phật trước. Vì vậy, tuy có một Phật, nhưng nhờ đọc kinh nhiều, nên Phật hiện ra nhiều. Yếu nghĩa này được Phổ Hiền diễn tả rằng “Trong một trần có trần số cõi. Trong mỗi cõi có nan tư Phật. Mỗi Phật đều ở giữa chúng hội. Tôi thấy hằng giảng hạnh Bồ đề”.

Nhờ chúng ta tụng kinh nhiều, công hạnh và cảnh giới của Phật, của Bồ tát được đem vào lòng mình; do đó, hạnh đức và cảnh giới của Phật, của Bồ tát dễ dàng hiện lên trong tâm khi chúng ta khởi nghĩ đến. Tâm không có hình tướng và chúng ta không thấy, nhưng nó chứa đựng được dữ kiện nhiều vô lượng vô biên. Chúng ta có một tâm thôi, chúng ta cũng không biết được tâm, nhưng tâm có khả năng biết tất cả. Vì vậy, Bồ tát Phổ Hiền đã khẳng định rằng trong một niệm tâm có đủ ba đời mười phương chư Phật.

Tu gia hạnh tuần thứ hai: Lễ Hồng danh Pháp Hoa và tụng 7 phẩm Bổn môn Pháp Hoa.

Trước nhất, Bổn môn Pháp Hoa có nghĩa là cốt lõi, hay yếu chỉ của kinh Pháp Hoa. Cốt lõi của kinh này Phật muốn chỉ chúng ta thấy Phật không Niết bàn, Ngài vẫn hiện hữu. Phật và chúng ta vẫn ở chung trong một thế giới, nhưng chúng ta cách Phật, vì phiền não, nghiệp chướng và trần lao.

 Theo Hòa thượng Tôn sư, 7 phẩm Bổn môn Pháp Hoa gồm có phẩm 1, phẩm 10, phẩm 15, phẩm 16, phẩm 17, phẩm 25 và phẩm 28. 7 phẩm này có ý nghĩa rất quan trọng, vì đó là cốt lõi của bộ kinh Pháp Hoa 28 phẩm.

Phẩm Tựa thứ nhất thể hiện tinh thần vô lượng nghĩa, vì tóm lược tất cả kinh của Phật nói đều nằm trong phẩm 1. Tất cả kinh mà Phật giảng dạy nhằm đào tạo con người an lạc dù sống trong hoàn cảnh nào. Tu Pháp Hoa được an lạc trong khổ lụy trần gian là chính, còn ở chỗ an, chúng ta được an lạc là bình thường. Ở chỗ không an lạc, nhưng tâm chúng ta an lạc và thanh tịnh ví như hoa sen ở trong bùn. Được như vậy, chúng ta mới tham dự được hội Pháp Hoa và diện kiến được bổn Phật. Ý này tiêu biểu bằng hoa Mạn đà la và hoa Mạn thù sa rơi xuống khi Phật nói kinh Pháp Hoa. Và nhờ có hai loại hoa này, hay nhờ có tâm an lạc và thanh tịnh, chúng ta thấy được 18.000 thế giới, mới gặp được Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và Bồ tát Di Lặc. Hai vị Bồ tát này tiêu biểu cho cốt lõi của đạo Phật. Văn Thù tiêu biểu cho trí tuệ giải được tất cả mọi sự việc và Di Lặc tiêu biểu cho phước đức. Hai vị Bồ tát này kết hợp với nhau mới có Pháp Hoa. Như vậy, hướng về tương lai thấy Ngài Di Lặc ra đời và tìm về quá khứ thì thấy có Bồ tát Văn Thù; đó là sự kết hợp quá khứ và vị lai trong một niệm tâm tu của chúng ta.

Từ phẩm Tựa thứ nhất đi thẳng đến phẩm Pháp sư thứ 10, không nhắc đến 8 phẩm giữa, vì từ phẩm 2 đến phẩm 9 kết tinh thành phẩm 10. Cốt lõi của phẩm 10 thể hiện 3 ý cần ghi nhớ để tu. Ý một là Đức Phật Thích Ca đã thành Phật, vì thương nhân gian mà Ngài sanh lại cõi đời này, Ngài mới đủ tư cách là hành giả Pháp Hoa. Chúng ta chưa thành Vô thượng Đẳng giác mà tự xưng mình là hành giả Pháp Hoa là đại vọng ngữ. Chúng ta may mắn gặp giáo pháp của Phật để lại, nương theo được phần nào thì an lạc và giải thoát phần đó. Vì giáo lý Phật có công năng làm tiêu phiền não và sanh ra công đức.

Ý thứ 2 trong phẩm 10 là ở trên cao nguyên đào giếng. Đức Phật khuyên chúng ta nhẫn nhục tu hành và siêng năng làm việc đạo, ví như ra công đào giếng không ngừng nghỉ, nhất định có ngày sẽ tìm được nước.

Ý thứ 3 trong phẩm 10 là muốn tu Pháp Hoa phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai. Tòa Như Lai là trí Bát nhã, áo Như Lai là hạnh nhu hòa, nhà Như Lai là tâm từ bi.

Tuần lễ thứ ba của mùa tu gia hạnh Phổ Hiền, tụng các bài kệ và kinh Bát Đại Nhân Giác. 

Đạo tràng Pháp Hoa tụng các bài kệ tán thán hạnh đức của chư vị Bồ tát và chư vị Thánh La hán mà các chúng trong đạo tràng đã thờ các Ngài là vị Tổ của mình. Các bài kệ này do Hòa thượng Tôn sư cảm tác. Sau đó, tụng kinh Bát Đại Nhân Giác nói về 8 điều giác ngộ của Đức Phật để nhắc nhở các Phật tử ghi nhớ và thực hành 8 điều mà Đức Phật Thích Ca đã thành tựu trên lộ trình tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tóm lại, trong mùa tu gia hạnh Phổ Hiền, mỗi người trong đạo tràng Pháp Hoa cần nỗ lực tinh tấn tu hành, trên là nương nhờ thần lực của Đức Phật và chư Bồ tát, cũng như nương theo sự giáo dưỡng của Hòa thượng Tôn sư, để khai tâm mở trí, ít nhiều được thăng hoa trên bước đường giác ngộ, giải thoát. Làm được như vậy, con đường lìa xa phiền não khổ đau của chúng ta được rút ngắn lại và con đường chúng ta tiến đến quả vị hiền thánh được gần thêm. Và đó chính là bổn hoài của Đức Phật, của chư vị Bồ tát và của Hòa thượng Tôn sư. Các Ngài hiện thân trên cuộc đời này chỉ nhằm mục tiêu duy nhất như vậy và mỗi năm tu gia hạnh Phổ Hiền, chúng ta càng thực hiện được tinh ba của giáo pháp mà các Ngài đã trao truyền. Hành trang tốt đẹp đó sẽ nuôi lớn căn lành của chúng ta để đời đời kiếp kiếp được làm quyến thuộc Bồ đề của Phật, của Bồ tát và của Hòa thượng Tôn sư.

Rate this post
- Advertisement -spot_img

Đọc tiếp

- Advertisement -spot_img

Dành cho bạn

MessengerZalo