Quán Thế Âm Bồ Tát, một vị đại sĩ vạn năng, thân thương của loài người ở cõi Ta Bà, mà bất cứ đệ tử nào của đức Phật cũng đều hướng tâm kính lễ, và cầu nguyện Ngài.
Trong Kinh “Diệu Pháp Liên Hoa”, đức Phật Thích Ca đã giải thích rõ cho Vô Tận Ý Bồ Tát về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ tát này khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì bèn tầm thanh để cứu khổ. Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm bèn xem xét âm thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát.
Thần Chú Đại Bi được rút ra từ “Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni”, do chính Đức Phật Thích Ca diễn nói trong một pháp hội, trước mặt đông đủ các vị Bồ Tát, Thinh văn, Thánh chúng, Trời, Thần, Thiên, Long, các Đại thánh tăng như Ma Ha Ca Diếp, A Nan… cùng câu hội, tại núi Bồ Đà Lạc Ca (Potalaka), một hải đảo ở về phía Nam xứ Ấn Độ, được coi như là nơi mà Đức Bồ Tát Quán Thế Âm thường trụ tích. Ta có thể tin chắc điều đó, bởi vì Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn được mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A Nan “Như thế tôi nghe”, cũng như xuyên qua nội dung hỏi đáp giữa ngài A Nan và Đức Thế Tôn, đã được ghi lại ở trong kinh.
Trong pháp hội này, Bồ Tát Quán Thế Âm vì tâm đại bi đối với chúng sanh, muốn cho “chúng sanh được an vui, được trừ tất cả các bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được tăng trưởng công đức của pháp lành, được thành tựu tất cả các thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu” mà nói ra Thần Chú này.
Ngài cho biết lý do ra đời của Thần Chú như sau:
Vào vô lượng ức kiếp về trước, Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, vì tâm thương tưởng đến chúng sanh, nên đã nói ra thần chú Đại Bi và khuyến khích Bồ Tát Quán Thế Âm nên thọ trì tâm chú này, để mang đến lợi ích an vui lớn cho chúng sanh trong đời vị lai.
Bồ Tát Quán Thế Âm lúc bấy giờ mới ở ngôi sơ địa, khi nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Vui mừng trước oai lực của thần chú, Ngài bèn phát đại nguyện: “Nếu trong đời vị lai, con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn mắt ngàn tay”.
Lập tức, Ngài thành tựu ý nguyện. Từ đó, hình ảnh của vị Bồ Tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt, trở thành một biểu tượng cho khả năng siêu tuyệt của một vị Bồ Tát, mang sứ mệnh vào đời cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sanh.
Ngàn tay, ngàn mắt nói lên cái khả năng biến hóa tự tại, cái dụng tướng vô biên của thần lực Từ bi và Trí huệ, tỏa khắp của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngàn mắt để có thể chiếu soi vào tất cả mọi cảnh giới khổ đau của nhân loại và ngàn tay để cứu vớt, nâng đỡ, như Đức Phật giải thích với Ngài A Nan ở trong kinh, “tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh”.
Kinh và Thần chú Đại Bi sau đó đã được ngài Dà Phạm Đạt Ma (Bhagavaddharma: có nghĩa là Tôn Pháp) một Thiền sư Ấn Độ, du hóa qua Trung Quốc vào niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường, dịch và chuyển âm từ tiếng Phạn qua tiếng Trung Hoa và được Hoà Thượng Thích Thiền Tâm chuyển ngữ qua tiếng Việt.
Với oai lực và linh nghiệm đã được chứng minh qua không gian và thời gian, thần chú Đại Bi đã được trân trọng trì tụng trong các khoá lễ, các nghi thức tụng niệm chính của các quốc gia theo truyền thống Phật giáo Đại thừa như: Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam,…
Sự linh ứng khi đọc tụng chú Đại Bi:
1. Không bị chết vì đói khát, khốn khổ.
2. Không bị chết vì gông, tù, đòn roi.
3. Không bị chết vì oan gia thù nghịch.
4. Không bị chết vì chiến trận tương tàn.
5. Không bị chết vì cọp, sói, ác thú tàn hại.
6. Không bị chết vì trúng độc rắn, rết, bò cạp.
7. Không bị chết vì nước cuốn, lửa thiêu.
8. Không bị chết vì trúng phải độc dược.
9. Không bị chết vì cổ độc tác hại.
10. Không bị chết vì điên loạn, mất trí.
11. Không bị chết vì núi lở, cây ngã, vách đá sụp.
12. Không bị chết vì kẻ ác thư ếm.
13. Không bị chết vì tà thần, ác quỷ thừa cơ làm hại.
14. Không bị chết vì ác bệnh triền thân.
15. Không bị chết vì tự sát, tự tử.”
Nội dung chú Đại bi:
“Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni:
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
Nam mô a rị da
Bà lô yết đế thước bát ra da
Bồ Đề tát đỏa bà da
Ma ha tát đỏa bà da
Ma ha ca lô ni ca da
Án
Tát bàn ra phạt duệ
Số đát na đát tỏa
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da
Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà
Nam mô na ra cẩn trì
Hê rị, ma ha bàn đa sa mế
Tát bà a tha đậu du bằng
A thệ dựng
Tát bà tát đa (Na ma bà tát đa)
Na ma bà dà
Ma phạt đạt đậu đát điệt tha
Án. A bà lô hê
Lô ca đế
Ca ra đế
Di hê rị
Ma ha bồ đề tát đỏa
Tát bà tát bà
Ma ra ma ra
Ma hê ma hê rị đà dựng
Cu lô cu lô yết mông
Độ lô đồ lô phạt xà da đế
Ma ha phạt xà da đế
Đà ra đà ra
Địa rị ni
Thất Phật ra da
Giá ra giá ra
Mạ mạ phạt ma ra
Mục đế lệ
Y hê di hê
Thất na thất na a
Ra sâm Phật ra xá lợi
Phạt sa phạt sâm
Phật ra xá da
Hô lô hô lô ma ra
Hô lô hô lô hê rị
Ta ra ta ra
Tất rị tất rị
Tô rô tô rô
Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ
Bồ đà dạ bồ đà dạ
Di đế rị dạ
Na ra cẩn trì
Địa rị sắc ni na
Bà dạ ma na
Ta bà ha
Tất đà dạ
Ta bà ha
Ma ha tất đà dạ
Ta bà ha
Tất đà dũ nghệ
Thất bàn ra dạ
Ta bà ha
Na ra cẩn trì
Ta bà ha
Ma ra na ra
Ta bà ha
Tất ra tăng a mục khê da
Ta bà ha
Ta bà ma ha a tất đà dạ
Ta bà ha
Giả kiết ra a tất đà dạ
Ta bà ha
Ba đà ma kiết tất đà dạ
Ta bà ha
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ
Ta bà ha
Ma bà rị thắng yết ra dạ
Ta bà ha
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
Nam mô a rị da
Bà lô kiết đế
Thước bàn ra dạ
Ta bà ha
Án. Tất điện đô
Mạn đà ra
Bạt đà gia
Ta bà ha”.