back to top
26.3 C
Chư Sê
Chủ Nhật, 5 Tháng Năm, 2024
Home Blog Page 3

Từng bước chuyển hóa tâm thức

Giảng giải về Tứ thánh đế và Bát thánh đạo là phương pháp truyền thống để diễn đạt giáo pháp nhưng ở đây chúng ta lại diễn đạt giáo pháp bằng phương pháp mới hơn; đó là trình bày hành trình từng bước tiến đến giác ngộ.

Hai phương thức này hỗ tương với nhau. Rất là hữu ích nếu chúng ta biết được cả hai phương thức vì khi chúng ta quan sát một điều gì dưới hai góc độ khác nhau thì nhận thức của chúng ta sẽ sâu sắc và phong phú hơn.

Có duyên nghe học giáo pháp là những người với nhiều hạng căn cơ khác nhau. Những người sơ cơ lúc nào cũng đông và thường khi mù mờ và hoang mang, không biết bắt đầu việc học giáo pháp từ điểm nào và phải tu tập ra làm sao. Vì vậy, vào đầu thế kỷ thứ 11 nhà hiền trí Ấn Ðộ Atisha đã viết tác phẩm Ánh Sáng Pháp Ðăng, trong đó ông tóm lược những điểm tinh yếu trong Thánh điển rồi sắp xếp lại cho có hệ thống để phác họa ra một hành trình tu tiến dần dần theo thứ lớp. Sau đó nhà hiền trí Tây Tạng Tzong Khapa (1357 – 1419) đã phát triển thêm những điểm tinh yếu cô đọng trong tác phẩm của Atisha và viết thành quyển Giảng Giải Tiến Trình Từng Bước Ðến Giác Ngộ.

Hiện tại chúng ta đang có kiếp sống của một con người với nhiều phẩm chất cao đẹp, khó có trong đời.

Hiện tại chúng ta đang có kiếp sống của một con người với nhiều phẩm chất cao đẹp, khó có trong đời.

Hành trình tu tiến từng bước này giúp cho chúng ta có thể nhìn quán xuyến toàn bộ tiến trình của tâm thức, từ trạng thái u mê đến trạng thái giác ngộ. Tiến trình này bắt đầu với những thứ lớp được trình bày rất rõ ràng để từng bước nhận thức giáo pháp. Nếu chúng ta thuộc nằm lòng mỗi bước đi này thì mỗi khi nghe thuyết giảng giáo pháp chúng ta sẽ nhận biết được giáo pháp đó thuộc về cấp độ nào của tiến trình và nên áp dụng như thế nào. Nhờ hiểu biết các pháp tu trong từng cấp độ khác nhau của tiến trình từ mê đến giác chúng ta sẽ nhận thức được rằng không hề có mâu thuẫn trong giáo pháp của Ðức Phật. Tất cả giáo pháp chúng ta đều có thể tu tập để đạt được trạng thái giác ngộ. Nhận thức được như vậy chúng ta sẽ tránh được một tội lỗi lớn là phê phán, chỉ trích một truyền thống hay một pháp môn tu tập nào đó. Sau đây chúng ta sẽ tóm tắt hành trình từng bước đến giác ngộ.

Ðời của một người là quý báu

Bước đầu tiên của tiến trình là hiểu được rằng hiện tại chúng ta đang có điều kiện và cơ hội để tu tập theo giáo pháp và thăng hoa bản thân của chúng ta. Nếu một người ăn xin không biết rằng mình có một viên ngọc quý trong túi thì người ăn xin ấy bỏ phí viên ngọc và tiếp tục làm kẻ nghèo hèn. Tương tự như vậy, nếu chúng ta không hiểu rằng chúng ta đang có cơ hội lớn thì chúng ta sẽ không sử dụng quỹ thời gian của chúng ta một cách sáng suốt (và là hiện thân của một kẻ nghèo hèn theo một ý nghĩa nào đó).

Hiện tại chúng ta đang có kiếp sống của một con người với nhiều phẩm chất cao đẹp, khó có trong đời. Vì vậy chúng ta phải làm cho kiếp sống này trở nên có ý nghĩa hơn. Thường thường chúng ta cứ nghĩ rằng ta có kiếp người này là chuyện đương nhiên đồng thời chúng ta cứ vương vấn, níu kéo những cái mà chúng ta ưa thích. Chúng vận hành và chuyển biến theo quy luật riêng của chúng thế mà chúng ta cứ mãi lo sắp xếp và mong rằng chúng sẽ vận hành và chuyển biến theo ý riêng của chúng ta. Như vậy là không thực tế và khiến cho chúng ta phải phiền muộn. Ngược lại, nếu chúng ta ý thức rằng chúng ta đang có tự do và đang có những phẩm chất cao quý, ý thức rằng mọi việc trong cuộc sống của chúng ta nói chung đang diễn ra một cách tốt đẹp thì chúng ta sẽ có một cách nhìn tích cực hơn và một cuộc sống an vui hơn.

Một trong những phẩm chất phú bẩm cao quý nhất mà chúng ta đang có là trí thông minh của con người. Phẩm chất quý báu này giúp cho chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích thực của cuộc sống và cho phép chúng ta tu tập theo giáo pháp của bậc giác ngộ. Nếu tất cả các quan năng của chúng ta như mắt, tai… và ý thức còn nguyên vẹn thì chúng ta có thể nghe Chánh pháp, đọc sách về Chánh pháp và suy tư theo Chánh pháp. Chúng ta đã được sinh ra và sống trong chu kỳ lịch sử của Hiền kiếp có Phật và Chánh pháp. Chánh pháp còn thuần khiết này đã được truyền thừa từ thầy sang trò liên tục qua nhiều thế hệ mà khởi điểm đầu tiên là từ bản thân Ðức Phật. Chúng ta lại có được cơ hội tham kiến những vị đạo sư tâm linh có phẩm hạnh để nghe được những lời khuyên bảo quý giá. Và, vẫn còn đó những giáo đoàn xuất gia và những tập thể pháp lữ đồng tu có cùng ý hướng giống nhau, có thể khích lệ nhau trên con đường tu tập.

Chúng ta may mắn sống trong đất nước mà tự do tôn giáo được tôn trọng nên việc tu học và thực hành Chánh pháp không bị trở ngại. Hơn nữa, hầu hết chúng ta đều có cuộc sống không quá nghèo khổ, thức ăn đồ mặc đầy đủ, chỗ ở yên ổn. Ðó là cơ sở để chúng ta có thể dấn thân vào việc rèn luyện tâm linh mà không phải quá bận tâm tới việc cơm áo gạo tiền; quá tổn hao tinh lực trong cuộc vật lộn để mưu sinh. Tâm thức của chúng ta cũng không bị các tà kiến hay định kiến che án quá nặng nề. Ưu điểm quan trọng là chúng ta lại ưa thích việc tu tập để chuyển hóa bản thân và thăng tiến trên con đường tìm cầu chân lý tối thượng.

Cùng với những điều kiện và những cơ duyên thù thắng mà chúng ta hiện giờ đang có thì trong bản thân mỗi người trong chúng ta lại đều có khả năng tiềm ẩn để có thể thành tựu được những việc có ý nghĩa to lớn dựa trên những điều kiện và cơ duyên đó. Nhưng để hưởng được những giá trị to lớn, chúng ta phải có một dự kiến đầy đủ, bền bỉ và thực hiện lâu dài. Kiếp sống hiện tại của chúng ta thật là ngắn ngủi. Dòng chảy tâm thức của chúng ta không dừng lại ngay cả khi sắc thân của chúng ta đã rã rời và trả về cho cát bụi. Tâm thức của chúng ta không có hình dáng hay màu sắc. Chúng ta có thể tạm hiểu rằng lúc chúng ta mệnh chung thì tâm thức của chúng ta rời bỏ thân thể này rồi đi vào một thân thể khác. Kiếp sống kế tiếp của chúng ta như thế nào là tùy vào những hành động và những thói quen mà chúng ta hình thành trong hiện tại. Vì vậy mà một trong những mục đích của kiếp mà chúng ta đang sống là chuẩn bị cho cái chết cũng tức là làm cho kiếp sống kế tiếp ở tương lai an vui và giải thoát hơn. Nhờ đó mà chúng ta có hướng sống tốt đẹp trong hiện tại, để khi mệnh chung được chết một cách thanh thản với ý thức biết rằng ta sẽ tái sinh vào cảnh giới tốt đẹp.

Một mục đích khác mà chúng ta có thể hướng tới trong việc sử dụng kiếp sống này là đạt đến sự giải thoát hay giác ngộ. Chúng ta có thể chứng quả vị A-la-hán, giải thoát khỏi vòng sinh tử; hoặc chúng ta có thể tiếp tục tu tập để trở thành vị Chánh Ðẳng Giác, có khả năng làm lợi lạc cho mọi người một cách hiệu quả nhất.

Ðạt đến sự giải thoát, dòng chảy tâm thức của chúng ta sẽ được thanh tịnh và trong sạch hoàn toàn, không còn những tâm thái nhiễu loạn. Như vậy chúng ta sẽ không bao giờ sân hận, ganh tỵ hay tự cao nữa; chúng ta sẽ không còn cảm thấy tội lỗi, lo âu hay thất vọng nữa. Tất cả những tập quán xấu của chúng ta tan biến hết. Hơn thế nữa, nếu có chí nguyện đạt đến sự giác ngộ vì lợi ích cho tha nhân thì lúc đó chúng ta sẽ phát khởi lòng từ ái đối với tất cả sinh linh và biết làm những việc cụ thể để giúp đỡ cho mọi người một cách thích hợp nhất.

Cách thứ ba để sử dụng những ưu thế của kiếp sống quý báu là sống một đời sống viên mãn nhất trong từng giây, từng phút. Có nhiều phương pháp khác nhau để làm như vậy. Một là sống với Chánh niệm trong từng phút giây, tức là hiện hữu trọn vẹn ở tại đây và ngay bây giờ trong từng hành động. Khi chúng ta ăn chúng ta đặt tâm ý trong việc ăn, cảm nhận được mùi vị và độ nhu nhuyến của thức ăn; khi bước đi chúng ta đặt tâm ý trong những cử động liên can đến việc di chuyển, không để cho tâm thức của chúng ta lông bông với một ngàn lẻ một chuyện khác nhau, một ngàn lẻ một ý tưởng khác nhau.

Một cách khác nữa để sống từng giây, từng phút một cách viên mãn và tích cực là tu tập chuyển hóa tâm thức. Thí dụ, khi đi lên lầu, chúng ta có thể tâm niệm: “Ta nguyện giúp cho mọi người được sinh vào cảnh giới tốt đẹp, được thăng hoa, được giải thoát và giác ngộ.” Khi rửa chén bát hay giặt đồ, chúng ta có thể tâm niệm: “Ta nguyện giúp cho mọi người có được tâm thức thanh tịnh, không còn những tâm thái nhiễu loạn và u mê.” Khi trao một vật gì cho ai, chúng ta có thể tâm niệm: “Nguyện rằng ta có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của chúng sinh.” Một cách sinh động, chúng ta có thể chuyển hóa từng hành động của chúng ta bằng cách siêng năng sáng tác ra những câu tâm niệm tương tự tương ứng với từng trường hợp với tấm lòng từ ái muốn mang lại hạnh phúc cho người khác. Những phương cách khác để làm cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta đầy ý nghĩa sẽ được diễn giải trong Chương X, “Kim chỉ nam cho đời sống.”

Tâm ý là kẻ tạo tác cảm nhận của chúng ta

Theo quan điểm của Phật giáo thì chẳng có ích lợi gì trong việc tìm kiếm khởi thủy của đời sống và điểm bắt đầu của những trạng thái nhiễu loạn của chúng ta.

Audio

Cái ý phát khởi trước rồi mới có hành động,

Cái ý dẫn dắt mọi hành động; chính ý tưởng làm phát sinh hành động.

Nếu ai đó nói ra hay hành động với ý tưởng sa đoạ,

thì khổ não sẽ đi theo người đó như bánh xe lăn theo con bò kéo xe.

Cái ý phát khởi trước rồi mới có hành động,

Cái ý dẫn dắt mọi hành động, chính ý tưởng làm phát sinh hành động.

Nếu ai đó nói ra hay hành động với ý tưởng thanh thoát,

thì hạnh phúc chắc chắn sẽ đi theo người đó như bóng không rời hình.

(kinh Pháp Cú, câu 1 và 2)

Theo đạo Phật thì cái ý của chúng ta là kẻ tạo tác cũng là nguồn cội làm phát sinh ra những niềm vui và nỗi buồn của chúng ta. Ðiều này có ý nghĩa rất thâm sâu: Vì chính mỗi người chúng ta điều khiển cái ý hướng riêng của bản thân mình cho nên chung cuộc chúng ta phải chịu tránh nhiệm đối với những vui buồn do cái ý của chúng ta đem lại. Không có cơ sở nào để đổ lỗi cho người khác về những khốn khổ mà chúng ta gặp phải khi chính ý lực hay ý hướng của chúng ta là nguồn gốc của những khốn khổ đó. Tương tự như vậy muốn có được hạnh phúc, chúng ta không cần phải cầu vái, phỉnh nịnh một ai ở bên ngoài cả mà chúng ta phải tạo nên nguồn cội của hạnh phúc bên trong bản thân mình bằng cách phát huy những ý tưởng lành mạnh.

Chữ “ý” trong đạo Phật bao hàm nhiều lãnh vực hoạt động tâm lý khác nhau gồm ý tưởng và cảm nhận, nhận thức và cả tình cảm của chúng ta nữa. Như vậy cái ý bao hàm không phải chỉ là cái suy nghĩ, chí hướng hay chỉ thuộc chức năng của não bộ như người ta vẫn thường nghĩ. Cái ý không hình không dạng và không phải do vật chất tạo thành nên người ta không thể đo đếm được nó.

Cái ý là cái cảm nhận hạnh phúc và đau khổ; cái suy nghĩ, cái thấy, cái nghe, ngửi, nếm và xúc chạm. Cái ý cũng là cái trong sáng và tỉnh thức vì nó phản ánh những đối tượng của nhận thức đồng thời lại vướng mắc với những đối tượng đó. Mặc dù chúng ta có thể nói “cái ý của chúng ta” nhưng nó không có nghĩa là một cái ý tổng thể chung nhất mà chỉ có nghĩa là cái ý cá nhân của mỗi một người trong chúng ta. “Dòng ý thức” là từ ngữ dùng để chỉ cho sự có mặt liên tục của ý thức từ phút giây này sang phút giây kế tiếp.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Cái ý tạo tác ra những vui buồn của chúng ta theo hai nguyên lý: (1) Cái ý làm động cơ cho hành động hay còn gọi là nghiệp. Những hành động mà chúng ta thực hiện sẽ tạo ra dấu ấn trong dòng tâm thức của chúng ta. Khi những dấu ấn nghiệp thức này chín muồi thì chúng sẽ tác động lên những hoàn cảnh mà chúng ta gặp phải. (2) Cái ý của chúng ta sẽ lý giải và phân tích mọi sự, mọi chuyện mà chúng ta đối diện và như vậy cái ý điều tiết nhận thức của chúng ta. Qua cơ chế đó, cái ý của chúng ta là kẻ quyết định ta sẽ tiếp nhận những sự kiện của cuộc đời ta theo cách như thế nào. Ở đây chúng ta sẽ xem xét sâu xa hơn hai nguyên lý này.

Cái ý là kẻ tạo tác ra nghiệp

Trong bài kinh Gieo Mạ, Ðức Phật cho chúng ta biết làm thế nào mà cuộc sống lại là kết quả của những hành động mà chúng ta thực hiện, và làm thế nào mà những hành động này lại có gốc gác từ cái ý của chúng ta. Vô minh chính là nguồn gốc. Vô minh tạo ra những trạng thái nhiễu loạn khác như sân hận và chấp thủ. Bị thúc đẩy bởi những trạng thái nhiễu loạn nên chúng ta hành động. Những hành động có ý thức hay còn gọi là nghiệp đã để lại dấu ấn trong dòng chảy tâm ý của chúng ta. Những dấu ấn nghiệp thức giống như là một lực lượng tồn đọng (trong tâm ý) khi chúng ta hoàn thành xong một hành động. Một cách âm thầm, lực lượng này đã chảy theo dòng chảy tâm thức của chúng ta. Khi thời cơ chín muồi thì những lực lượng nghiệp thức tiềm ẩn này trỗi dậy tạo nên những vui buồn của chúng ta.

Tiến trình này rất phức tạp và thường phải mất nhiều thời gian quán chiếu, chiêm nghiệm chúng ta mới có thể hiểu thấu đáo. Dưới đây chỉ là một cách diễn đạt ngắn gọn với những khái niệm tổng quát mà thôi.

Theo cái nhìn của Phật giáo, tâm ý hiện tại của chúng ta đang bị vô minh che mờ: Chúng ta không biết được chúng ta là ai theo ý nghĩa thâm sâu nhất; chúng ta cũng không biết con người và vạn vật đang tồn tại như thế nào. Không ý thức được bản chất tối hậu ra sao nên chúng ta cứ tưởng rằng chúng ta là vững mạnh, có thực chất và có thể nắm bắt. Ảo tưởng về cái ngã càng trở nên rõ ràng khi chúng ta ở trong một trạng thái khích động. Thí dụ, khi chúng ta tức giận thì chúng ta có cảm giác rằng có một cái tôi mà cái tôi này đang bực dọc một cách chính đáng. Nhưng nếu chúng ta tự hỏi mình: “Ai đang giận dữ đó?” Thì lập tức chúng ta khó có thể chỉ ra một cách chính xác một cái “tôi” dường như là độc lập đó. Thật ra cái tự ngã hay cái “tôi” là có chớ không phải không nhưng nó tồn tại không giống như cách mà chúng ta nghĩ đâu.

Chúng ta tìm cách để bảo vệ và làm thỏa mãn cái ngã độc lập này; những ý niệm sai lầm đã khiến cho chúng ta làm như vậy. Thế nên chúng ta bị vướng mắc vào sự vật làm cho chúng ta vui thích, ngược lại chúng ta bực tức những sự vật hay người nào can thiệp vào hạnh phúc của chúng ta. Từ quan điểm vô minh này phát sinh ra tánh ganh tỵ, lòng kiêu ngạo, tâm hẹp hòi, cố chấp, lười trễ và hàng loạt những tính xấu khác của con người. Những trạng thái nhiễu loạn này cản trở những phẩm tính tốt đẹp của chúng ta và làm cho chúng ta không thể trở nên mẫu người như chúng ta muốn.

Bị thúc bách bởi những trạng thái nhiễu loạn này nên chúng ta tạo nghiệp. Nghiệp có nghĩa là những hành động có ý đồ được thực hiện qua thân, khẩu và ý; tức là những điều mà chúng ta nghĩ, nói và làm. Ba loại hành động này phát sinh từ cái ý của chúng ta. Trước tiên một động lực phát khởi trong tâm ý rồi chúng ta mới thể hiện động lực đó ra thành hành động bên ngoài. Có những khi chúng ta không ý thức được những động lực nằm bên trong nên chúng ta cảm thấy ngạc nhiên với những hành động mà chúng ta làm hay những lời mà chúng ta nói. Nhưng nếu chúng ta có tỉnh giác thì chúng ta sẽ thấy được rằng tất cả những hành động của chúng ta đều được khởi phát bởi những động lực nằm sẵn trong tâm ý rồi.

Thí dụ trước khi chúng ta chỉ trích một người nào đó thì ý tưởng này khởi lên, “Người này đang làm cho ta không vui. Ta phải ngăn chặn người này lại.” Rồi chúng ta to tiếng với người ấy, kể lể cho người khác thấy những khuyết điểm của người đó. Ðức Phật dạy rằng hành động như vậy sẽ tạo nên những dấu ấn nghiệp trong dòng tâm thức của chúng ta; về sau, khi chúng ta gặp những hoàn cảnh bên ngoài đồng tình thuận hạp thì dấu ấn nghiệp thức sẽ có điều kiện để trở nên chín muồi và quyết định trạng thái vui buồn của chúng ta.

Cũng như một hạt giống nhỏ bé có thể phát triển để trở thành một cây to có nhiều trái, một hành động duy nhất có thể tạo ra nhiều kết quả khác nhau: những người khác sẽ chỉ trích chúng ta, những người xung quanh không thân thiện với chúng ta, chúng ta sẽ có thói quen chỉ trích người khác và khi mệnh chung chúng ta sẽ sinh vào cảnh giới kém may mắn.

Cũng vậy, khi chúng ta có những động cơ tốt, không có tính chất vị kỷ đồng thời quan tâm tới sự lợi lạc của người khác thì chúng ta sẽ thể hiện ra bằng những hành động lợi lạc. Ðiều này tạo nên những dấu ấn tốt trong tâm thức của chúng ta; những dấu ấn tốt này sẽ tạo nên nhiều kết quả: những người khác sẽ mến chúng ta, nơi chúng ta cư trú rất đáng ưa thích, chúng ta sẽ có những phẩm tính tốt đẹp và khi mệnh chung chúng ta sẽ sinh vào những cảnh giới may mắn.

Như thế, trong những thời gian khác nhau, chúng ta có những trạng thái và tình cảm nhiễu loạn khác nhau như tức giận, cố chấp và hẹp lượng, đồng thời chúng ta cũng có trạng thái và tình cảm tốt đẹp khác nhau như thương yêu, tự trọng, trí tuệ và quan tâm tới người khác. Ðạo Phật là một con đường tẩy trừ trạng thái nhiễu loạn và phát triển trạng thái tốt đẹp với mục đích mang lại hạnh phúc cho bản thân chúng ta và cho những người xung quanh.

Nhận lấy tái sinh

Nhờ vào quán trí thâm sâu về cách thức mà các pháp hiển hiện, Ðức Phật biết được rằng những trạng thái nhiễu loạn và nghiệp lực khiến cho chúng sinh phải bị tái sinh. Trong giây phút sắp từ bỏ thân này những người phàm phu chúng ta theo bản năng cảm thấy thèm khát, níu giữ xác thân. Rồi người phàm phu gần như hoảng loạn khi từ bỏ xác thân và vĩnh biệt mọi sự vật thân thuộc quanh họ. Cũng giống như khi người chết thấy rõ ràng rằng mình đang từ từ rời bỏ thân xác này và đang kết thúc sinh mạng thì người chết bèn lập tức nắm chắc một thân thể khác.

Hai lực lượng – thèm khát và níu giữ – hoạt động như những nhân tố tiền đề hỗn hợp để làm cho những dấu ấn nghiệp thức được chín muồi trong giây phút mệnh chung. Khi mà những dấu ấn nghiệp thức này bắt đầu chín muồi thì cái ý của người đang chết lập tức bị lôi cuốn vào một xác thân khác và kiếm cách tái sinh vào xác thân đó. Trong trường hợp của loài người thì sau khi trải qua giai đoạn trung ấm giữa mạng sống này và mạng sống kế tiếp, tâm thức của chúng ta đi vào một cái trứng đã thụ tinh. Thế là theo ngày tháng chúng ta phát triển các uẩn của một con người gồm thân thể và ý thức.

Trong đời sống mới này, chúng ta nhận thức những người và những sự vật nhờ vào các giác quan mới. Khi cảm nhận được những niềm vui và nỗi buồn, chúng ta lại phát sinh chấp thủ, sân hận hay bình thản. Những động lực này thúc đẩy chúng ta hành động. Những hành động của chúng ta lại tạo nên nhiều dấu ấn mới nữa trong dòng chảy của tâm thức và đến khi chúng ta phải vĩnh viễn từ bỏ xác thân thì chúng ta lại một lần nữa bị thôi thúc tìm tái sinh trong một thân xác khác.

Vòng tròn tái sinh như vậy được gọi là luân hồi (samsara). Luân hồi không phải là một cảnh giới: nó không phải là thế giới của chúng ta. Ðúng hơn luân hồi, còn gọi là vòng tròn hiện hữu, tức là tình trạng mà chúng ta nhận lấy hết cuộc sinh tồn này đến cuộc sinh tồn khác dưới sự điều khiển của những lực lượng nhiễu loạn và những hành động tạo nghiệp.

Như vậy những lực lượng của chính chúng ta đã khiến cho chúng ta sinh ra và trưởng thành như chúng ta đang hiện diện ở đây. Tuy nhiên nghiệp không phải là một “khối đông cứng,” cũng không mang tính chất cố định của định mệnh nên số phận của chúng ta không phải đã được sắp đặt trước đâu vào đó rồi. Tất cả đều tùy thuộc vào hoàn cảnh mà chúng ta đang sống và trạng thái tâm ý của chúng ta. Chính hoàn cảnh sống và ý hướng hay ý chí của chúng ta sẽ quyết định dấu ấn nghiệp lực nào chín muồi và những dấu ấn nghiệp nào không chín muồi được. Hơn nữa, chúng ta có khả năng kiểm soát được hành động của mình và qua đó định dạng cho tương lai.

Ðây là quy luật của nghiệp, là sự vận hành của nguyên nhân và hậu quả trong dòng chảy tâm ý của chúng ta. Chúng ta cảm nhận niềm vui hay nỗi buồn là do những hành động có tác ý mà chúng ta đã làm trong quá khứ. Tâm ý của chúng ta trước đây đã tạo tác ra những hành động hay là những hạnh nghiệp. Như vậy thì tâm ý của chúng ta là kẻ tạo tác chủ chốt đã tạo ra những cảm nhận vui buồn mà chúng ta đang nhận lãnh.

Phải chăng có một khởi thủy?

Một số người tự hỏi: “Tiến trình này bắt đầu như thế nào? Phải chăng có một điểm khởi đầu cho cái vũ trụ này và vạn loại sinh linh trong đó?”

Quá trình tiến hóa về phương diện vật lý của vũ trụ này là một đối tượng nghiên cứu của khoa học. Khoa học đã xem xét tính chất liên tục về phương diện vật chất của vũ trụ này. Khoa học đã nghiên cứu xem làm thế nào mà nhân và quả vận hành để tạo ra vô vàn những sự vật muôn màu muôn vẻ trong vũ trụ của chúng ta.

Phải chăng vật chất trong vũ trụ có một nguyên nhân tức là một thời điểm khi đó chưa có một dạng vật chất nào cả, chưa có một dạng năng lượng nào cả? Khó mà chứng minh được rằng có một thời gian lúc đó vật chất chưa có, và năng lượng cũng chưa có. Giả sử có một thời gian như vậy thì vật chất từ đâu phát sinh? Không có gì làm nguyên nhân thì làm sao tạo tác ra sự vật được? Người ta có thể khẳng định rằng vũ trụ hiện nay mà chúng ta thấy là dạng biến hóa của một năng lượng vật chất đã có sẵn từ trước.

Tâm ý của chúng ta không phải được làm bằng vật chất và do vậy nguyên nhân của nó cũng không phải là vật chất. Tương tự như vấn đề khởi nguyên của vật chất, tâm ý của chúng ta phát sinh từ một tâm ý có trước trong dòng chảy của tâm ý. Chúng ta có thể tìm lại tâm ý của chúng ta lui lại từng bước một trở về trước cho đến hồi chúng ta còn thơ ấu. Tâm ý của chúng ta đã thay đổi từ hồi đó, và tâm ý hiện nay của chúng ta được tạo tác bởi và có liên quan với tâm ý trước đây của chúng ta.

Như vậy chúng ta có thể đi ngược dòng thời gian tìm lại lúc dòng tâm ý của chúng ta xuất hiện, đó là lúc thọ thai. Cái tâm thức đi vào một cái trứng đã thụ tinh trong tử cung cũng phải từ một nhân trước đó. Theo Phật giáo thì phải có một tâm ý trước đó, tức là tâm ý của một đời sống trong kiếp trước. Cứ như vậy mà truy ngược về quá khứ vô cùng tận. Không có một điểm đầu tiên. Một dãy số đại số cũng không có số nào có thể gọi là số đứng đầu, vì người ta có thể thêm vào một con số nữa. Cũng vậy dòng chảy của tâm ý của chúng ta không có điểm khởi đầu.

Những trạng thái nhiễu loạn của chúng ta, trong đó có vô minh, cũng phát sinh từ những nguyên nhân tức là những trạng thái nhiễu loạn có trước. Dòng chảy của những trạng thái nhiễu loạn này có mặt từ vô cùng vô tận về quá khứ. Nếu có một cái mốc thời gian đầu tiên của những trạng thái nhiễu loạn thì chúng ta lại phải nêu ra cái gì là nguyên nhân của trạng thái nhiễu loạn đầu tiên đó. Nếu thoạt kỳ thủy chúng ta thanh tịnh và sau đó chúng ta trở nên vô minh thì vô minh từ đâu mà phát sinh? Không thể có những chúng sinh thanh tịnh nhận thức được thực tại là gì rồi lại trở nên vô minh. Nếu một người trong hiện tại đang trở nên vô minh thì chắc chắn trước đó trong quá khứ người ấy đã không phải là hoàn toàn thanh tịnh.

Không có ai làm chúng ta vô minh. Không ai có thể đổ những gáo nước đen vô minh vào trong dòng chảy của tâm thức chúng ta.

Theo quan điểm của Phật giáo thì chẳng có ích lợi gì trong việc tìm kiếm khởi thủy của đời sống và điểm bắt đầu của những trạng thái nhiễu loạn của chúng ta. Ðức Phật rất là thực tế, luôn nhấn mạnh việc xử lý tình trạng trước mắt và cố gắng cứu vãn nó. Bị lạc hướng vào trong những ức đoán phiếm luận vô bổ khiến cho chúng ta không tận tâm lo cho những việc hiện tại hầu cải thiện chúng.

Thí dụ một người bị xe tải tông đổ máu nằm giữa đường. Ông ta cứ nằng nặc đòi biết ai là người lái chiếc xe tải đó, hãng nào đã sản xuất ra chiếc xe “chết tiệt” như vậy, xe đó đời nào, rồi mới chịu băng bó và chữa trị. Trong khi bận rộn và mất thời giờ trong quá trình tìm hiểu về chiếc xe tải đã gây tai nạn cho mình thì người ấy chết. Chúng ta cho rằng người ấy là một kẻ ngu. Biết được nguồn gốc của chiếc xe tải thì vết thương trên người không bớt đi chút nào, máu cũng không ngưng chảy chút nào, vi trùng cũng không ngừng xâm nhập cơ thể qua vết thương. Biết được ai là người tài xế đã lái chiếc xe tải gây tai nạn thì cũng không thay đổi được gì trong việc người ấy phải đối diện với tử thần. Người khôn ngoan hơn sẽ xử lý tình huống trước mắt, tìm cách cứu cấp để vượt qua cơn hiểm nghèo.

Cũng vậy, thay vì mất thời giờ vô ích trong việc bàn luận, đoán già đoán non về một khởi điểm không hề có, tốt hơn hết chúng ta nên xem xét những cái khó khổ trong hiện tại, tìm ra nguyên nhân của chúng – những trạng thái nhiễu loạn – và khắc phục chúng. Ðức Phật không bàn về nguyên nhân của vũ trụ, vì bàn về việc đó không giúp cho chúng ta giải quyết được những vấn đề mà chúng ta đang gặp phải và làm cho cuộc sống tốt hơn. Thay vào việc đó Ðức Phật đã tìm cách giải thích cách thức mà tâm ý của chúng ta tạo nên những cảm nhận vui buồn thông qua việc thúc đẩy chúng ta hành động tạo nghiệp. Hiểu biết được việc này giúp cho chúng ta có thể chế ngự và làm cho thanh tịnh quá trình này.

TT. Minh Thành chuyển ngữ

Tụng kinh là ở gần Phật

Là Phật tử dù xuất gia tu hành hay cư sĩ Phật tử tại gia cũng phải thường xuyên tụng kinh niệm Phật ngồi thiền. Như thế không khác gì chúng ta đang ở gần Phật, được Phật giáo hoá, tăng trưởng tâm Phật.

Tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền

Cả ba pháp ấy cùng khuyên nhau làm

Có Phật tử ở xa thưa hỏi việc tụng kinh niệm Phật, thầy trả lời:

Là Phật tử dù xuất gia tu hành hay cư sĩ Phật tử tại gia cũng phải thường xuyên tụng kinh niệm Phật ngồi thiền. Như thế không khác gì chúng ta đang ở gần Phật, được Phật giáo hoá, tăng trưởng tâm Phật.

Ngược lại nếu không thường xuyên tụng kinh niệm Phật toạ thiền thì dù ở chùa cũng cách xa Phật lắm. 

Tụng kinh chữ Hán 誦經 là xướng đọc lên những lời giáo huấn của Phật (sa. Buddhavacana) thông qua các kinh điển (sa. Sutra) do đức Phật truyền dạy.

Tụng kinh là một trong những phương pháp tu tập, được thực hành rộng rãi ở mọi tông phái khác nhau của Phật giáo (Phật giáo Nguyên thủy, Đại thừa và Kim Cang thừa) là học thuộc lòng, quán xét nghĩa lý kinh văn một cách thấu đáo.

Ý nghĩa và công đức của tụng kinh

14976709_1813991872189956_2388004046149013583_o

Tụng kinh Phật là phương pháp tu hành cần thiết của Phật giáo đối với cả người tu hành lẫn cư sĩ Phật tử.

Khi tụng kinh sẽ giúp tịnh tâm nhớ lại những lời dạy của Phật thì được gọi là mình niệm Pháp. Người tụng kinh sẽ một cách đọc một cách thành kính nhất những lời dạy của Đức Phật trong kinh điển phù hợp với chân lý và căn cơ của những chúng sanh, kết hợp với chuông và mõ. 

Trì chú là thường niệm các câu thần chú Phật dạy, nắm giữ một cách chắc chắn lời bí mật của Chư Phật. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú.

Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo, học theo, làm theo Ngài.

Người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải thường tụng kinh, trì Chú và niệm Phật. Nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý.

Phần sự là phần thực hành tụng kinh niệm Phật trì chú tọa thiền

Phần lý là phần cao siêu khó thấu đáo, mà nếu chúng ta không tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh điển

Người nào quy y Tam Bảo xưng là Phật tử mà hàng ngày không tụng kinh lễ Phật, niệm Phật thì xem như chưa phải Phật tử đúng nghĩa. 

Nơi tụng kinh phải được dọn dẹp sạch sẽ, bàn Phật phải được trang hoàng sao cho trang nghiêm.

Khi tụng kinh tâm phải tịnh, tập trung vào lời kinh Phật mà mình đang tụng, giúp mình có thể hiểu được ý nghĩa của từng câu kinh mà Phật, chư Bồ tát đã chỉ dạy trong Kinh.

Không nói chuyện và để tâm vào những chuyện chung quanh khi đến nơi tụng kinh.

Đúng giọng điệu nhịp nhàng khi tụng kinh. 

Nên quỳ/ ngồi trang nghiêm khi tụng kinh trừ những người đã cao tuổi, bệnh tật thì có thể ngồi ghế. 

Luôn phải giữ cho bản thân khi hành lễ được nghiêm chỉnh, khoan thai và trang trọng.

Có sự phân biệt nhỏ giữa “tụng kinh” và “đọc kinh”. Tụng kinh thường là phương pháp tu tập mà người Phật tử học thuộc lòng kinh điển và xướng tụng có khi không cần xem kinh sách. Đọc kinh là phương pháp tu tập mà người Phật tử khi đọc tụng có xem kinh sách, để suy tư chiêm nghiệm về chân lý rồi thực hành lời Phật dạy.

Kinh Phật có công năng khai mở trí tuệ, phá trừ mê mờ, tiêu trừ nghiệp chướng cho nên tụng kinh rất lợi ích, khó có thể nói hết, ở đây chỉ nói một vài lợi ích thiết thực nhất

– Tụng kinh, học kinh giúp ta nâng cao trí tuệ, thông tỏ chân lý, hiểu biết thấu đáo và như thật về thực tướng của vạn vật

– Tụng kinh để thâu nhiếp sáu căn, tập trung tâm vào một dối tượng, làm cho ba nghiệp được thuần tịnh, nâng cao định lực và tăng cường sức mạnh của ý chí

– Tụng kinh giúp ta tăng trưởng phúc đức từ bi, tiêu trừ tai ương chướng nạn.

– Tụng kinh góp phần làm cho quốc thái dân an, xã hội ổn, định gia đình nhờ thế mà được an lạc và hòa thuận.

– Tụng kinh giúp con người nâng cao đạo đức phẩm chất làm người, hạn chế những việc ác đức trong xã hội, dạy dỗ con cái ngoan hiền…

– Góp phần tĩnh thức người chung quanh bằng lời kinh tiếng mõ.

– Tụng kinh là gieo trồng chủng tử Phật, hạt giống Phật trong tâm mình, tương lai sẽ thành Phật

Nhờ tụng kinh mà thông hiểu giáo lý và thực hành đúng chánh pháp.

Gợi ý những bài kinh ngắn cho các Phật tử cư sĩ tại gia nên tụng đọc hàng ngày: Kinh Phước đức, kinh Chuyển pháp luân, kinh sám hối, kinh Phổ Hiền hạnh nguyện, kinh Bát đại nhân giác, kinh Phổ môn, kinh người áo trắng….Mỗi ngày cả nhà tụng một thời kinh sẽ góp phần giúp cho gia đình yên ấm hạnh phúc con cái ngoan hiền…

Người Phật tử

Thường tụng kinh

Lễ Phật, toạ thiền

Tích cực hướng thiện

Sống gần Phật.

Ngộ ra những điều “không thể được” để tùy duyên tiếp vật, sống tự tại an nhiên

Khi nhìn trẻ con khóc lóc cố đòi cho bằng được những vật ngoài khả năng sở hữu của cha mẹ nó, người lớn chúng ta hay mỉm cười cảm thông độ lượng. Chỉ có trẻ con mới cố đòi những vật “không thể được”. Khi nào lớn khôn các cháu sẽ hiểu.

Vậy mà không ít người đã lớn khôn, học rộng hiểu nhiều, thừa kinh nghiệm sống nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn không hơn trẻ con là mấy. Vẫn hy vọng, mong chờ vô số điều vốn “không thể được”. Câu chuyện vua Văn-trà dưới đây là một điển hình.

“Một thời Tôn giả Na-la-đà ở trong vườn trúc của trưởng giả nước Ba-ca-lê. Bấy giờ vua Văn-trà có đệ nhất phu nhân mạng chung. Vua rất yêu bà chưa từng lìa tâm. Khi ấy, có một người đến tâu vua:

– Đại vương nên biết! Nay đệ nhất phu nhân đã mạng chung.

Vua nghe phu nhân chết, ôm lòng sầu lo, nói với mọi người.

 – Các ngươi mau khiêng xác phu nhân, ướp dầu mè cho ta được thấy.

Bấy giờ, người ta vâng lệnh vua, đem phu nhân đặt trong dầu mè. Vua nghe phu nhân đã chết, hết sức sầu não, không ăn, không uống, không cai trị theo vương pháp, cũng bỏ bê việc vua. Khi ấy, tả hữu có một người tên Thiện Niệm, thường cầm kiếm hầu đại vương, tâu:

– Đại vương nên biết! Trong nước này có Sa-môn tên Na-la-đà đắc A-la-hán, có đại thần túc, hiểu rộng biết nhiều, không gì chẳng rành, biện tài dũng tuệ, khi nói thường cười nụ. Xin vua hãy đến nghe ngài thuyết pháp. Vua nghe pháp sẽ không còn sầu lo, khổ não nữa. (…)

Bấy giờ, vua ngồi xe vũ bảo ra khỏi thành đến chỗ Na-la-đà, đi bộ vào vườn trúc của trưởng giả; bỏ năm uy dung của nhân vương xuống một chỗ. Đến ngài Na-la-đà, quỳ lạy rồi ngồi một bên.

 Khi ấy, Na-la-đà bảo vua:

– Đại vương nên biết! Pháp huyễn mộng chớ khởi sầu lo, pháp bọt bèo, và chớ đem tuyết đọng mà khởi sầu lo và cũng chớ nên đem tưởng pháp như hoa mà khởi sầu lo. Vì sao thế? Nay có năm việc rất không thể được, là lời Như Lai nói. Thế nào là năm?

Phàm vật đáng dứt mà muốn cho chẳng dứt, điều này không thể được. Phàm vật đáng diệt mà muốn cho đừng diệt, điều này chẳng thể được. Phàm già muốn mà không già, điều này chẳng thể được. Lại nữa, bệnh mà muốn cho không bệnh, điều này chẳng thể được. Lại nữa, chết mà muốn cho không chết, điều này chẳng thể được. Đó là, này đại vương! Có năm việc này rất chẳng thể được, là lời Như Lai nói”…

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 32. Thiện tụ [trích],VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.231)

Suy niệm về vô thường để sống có ý nghĩa hơn

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Khi mất đi một cái gì quý giá nhất, như mất người thân thương chẳng hạn thì niềm đau dường như khiến chúng ta hóa đá. Nỗi đau, tiếc thương như trùm phủ lên xám xịt cả cuộc đời này. Chúng ta trân trọng những niềm riêng ngập tràn xúc cảm ấy nhưng vấn đề là phải biết cách gượng dậy, bước tới để tiếp tục cuộc hành trình.

Trong kinh văn, Tôn giả Na-la-đà đã khai thị cho vua Văn-trà về tính vô thường của các pháp, rõ biết đó là điều “không thể được”. Vì vô thường xảy ra trong từng tích tắc mà ta cứ mong mọi sự thường hằng thì làm sao được. Nên khi bị “mất, diệt, già, bệnh, chết” thì hãy quán chiếu: “Chẳng phải riêng một mình phải chịu. Người khác cũng có pháp này”. Nghĩa là, ai trên đời này cũng phải chịu “mất, diệt, già, bệnh, chết” cả, đây là điều bình thường luôn xảy ra với ta và mọi người.

Mặt khác, nếu cứ để cho niềm đau hành hạ mà không tự thoát ra thì rốt cuộc chỉ hại thân này. Thực tế có không ít người phải gánh chịu nỗi đau kép. Cái vật hay con người mất rồi thì đau khổ đã đành. Nhưng vì quá đau thương, chúng ta quyết không chấp nhận sự thật ở đời là “không thể được” để tự nguôi ngoai nên khổ đau lại chồng thêm đau khổ. Thế nên, thường suy ngẫm về vô thường để ngộ ra nhiều điều “không thể được” mà tùy duyên tiếp vật, sống tự tại an nhiên. 

Phụng tống kim quan Hòa thượng Danh Nhuôn nhập tháp

Chiều 1/5 (23/3/Giáp Thìn), tại chùa Khlang Ong (thị trấn Minh Lương, huyện Châu Thành), Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Kiên Giang cùng môn đồ pháp quyến đã trang nghiêm cử hành lễ truy niệm và phụng tống kim quan Hòa thượng Danh Nhuôn nhập tháp.

Audio
Quang cảnh buổi lễ

Quang cảnh buổi lễ

Trong không khí trang nghiêm, Thượng tọa Thích Minh Nhẫn – Ủy viên Thư ký HĐTS, Phó Văn phòng 2 Trung ương, Phó ban Thường trực kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Kiên Giang và Thượng tọa Danh Phản – Ủy viên Hội đồng trị sự GHPGVN, Phó Ban Trị sự Phật giáo tỉnh, Phó Chủ tịch Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước (ĐKSSYN) tỉnh đồng cung tuyên tiểu sử.

Theo tiểu sử, Hòa thượng Nanapanna, thế danh Danh Nhuôn sinh năm 1948 trong một gia đình trung nông. Ngài nguyên Ủy viên HĐTS GHPGVN khóa V, VI, VII; nguyên Phó BTS GHPGVN tỉnh, Chứng minh BTS Phật giáo tỉnh; Chủ tịch danh dự hội ĐKSSYN tỉnh; Chứng minh BTS Phật giáo huyện Châu Thành, trụ trì chùa Khlang Ong.

Ngài sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước điêu linh do ngoại xâm đô hộ, nhân dân sống trong cảnh lầm than đau khổ, đạo pháp không được xiển dương. Từ đó, ngài sớm tham gia cách mạng, tích cực hoạt động bí mật trong lòng giặc, ủng hộ các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Di ảnh Hòa thượng Danh Nhuôn

Di ảnh Hòa thượng Danh Nhuôn

Với tinh thần phụng sự đạo pháp và chúng sanh, ngài đã thường xuyên mở các lớp chuyển giao khoa học kỹ thuật tại chùa, thường xuyên đến thăm và tặng quà các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi, trẻ em khuyết tật, ảnh hưởng chất độc da cam, đến thăm những chùa, những nơi nuôi dưỡng người già không nơi nương tựa, chỉ đạo dạy cách mở khóa thiền tại các chùa trong tỉnh.

Trong buổi lễ, Hòa thượng Danh Đổng – Ủy viên Thường trực HĐTS, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh, Chủ tịch Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang đã có đôi lời tưởng niệm đến cố Hòa thượng Danh Nhuôn.

“Với ân đức uy nghiêm, trí huệ viên dung, tòng lâm thạch trụ, bậc mô phạm cho đàn hậu học, trong 76 năm trụ thế, mỗi việc làm của Trưởng lão Hòa thượng là để mở lối cho tương lai, mỗi cử chỉ của Hòa thượng đều thể hiện sự khoan dung độ lượng, lòng từ bi. Hòa thượng chính là hình ảnh giải thoát vô ngại, là lẽ sống muôn đời cho Tăng Ni, Phật tử học tập và noi theo”, Hòa thượng Danh Đổng bày tỏ.

Hòa thượng Danh Đổng tưởng niệm

Hòa thượng Danh Đổng tưởng niệm

Đại đức Danh Hồng đại diện môn đồ pháp quyến đệ tử dâng lời cảm tưởng ân sư: “Sự ra đi của Hòa thượng để lại biết bao sự xót xa thương tiếc, ngài đã hết lòng phụng sự và cống hiến cho sự phát triển Phật pháp, hướng dẫn mọi người kính tin Tam bảo, tu học chánh pháp làm lợi lạc cho chúng sanh…”.

Thay mặt ban tổ chức, Hòa thượng Danh Liêm – Trưởng BTS Phật giáo huyện Châu Thành, Phó Chủ tịch Hội ĐKSSYN huyện Châu Thành dâng lời cảm tạ.

Sau cùng, chư tôn đức, môn đồ pháp quyến, Phật tử thành kính dâng nén tâm hương tưởng niệm cúng dường Giác linh Hòa thượng trong mối tâm giao, tình pháp lữ đời đời trong chánh pháp và phụng tống kim quan của ngài nhập bảo tháp.

Chùm ảnh buổi lễ:

Chư tôn đức Tăng và đại diện chánh quyền

Chư tôn đức Tăng và đại diện chánh quyền

Thượng tọa Thích Minh Nhẫn

Thượng tọa Thích Minh Nhẫn

Và Thượng tọa Danh Phản cung tuyên tiểu sử Hòa thượng Danh Nhuôn bằng tiếng Việt và Khmer

Và Thượng tọa Danh Phản cung tuyên tiểu sử Hòa thượng Danh Nhuôn bằng tiếng Việt và Khmer

Đại đức Danh Hồng đại diện môn đồ pháp quyến cảm niệm ân sư

Đại đức Danh Hồng đại diện môn đồ pháp quyến cảm niệm ân sư

Hòa thượng Danh Liêm thay mặt Ban tổ chức lễ tang cảm tạ

Hòa thượng Danh Liêm thay mặt Ban tổ chức lễ tang cảm tạ

Nghi thức dâng hương cũng dường Giác linh Hòa thượng Danh Nhuôn

Nghi thức dâng hương cũng dường Giác linh Hòa thượng Danh Nhuôn

Thỉnh di ảnh rời Giác linh đường trong lễ phụng tống kim quan nhập tháp

Thỉnh di ảnh rời Giác linh đường trong lễ phụng tống kim quan nhập tháp

Nghi thức phụng tống kim quan nhập tháp theo Phật giáo Nam tông Khmer

Nghi thức phụng tống kim quan nhập tháp theo Phật giáo Nam tông Khmer

Phật tử đặt hoa tiễn biệt vị sư cả khả kính của mình

Phật tử đặt hoa tiễn biệt vị sư cả khả kính của mình

Kiên Giang: Hòa thượng Danh Nhuôn viên tịch

Nghiệp chướng hôn trầm, ham mê ngủ nghỉ

Đức Phật dạy rằng có năm triền cái – năm trạng thái tâm lý, tình cảm làm ngăn che trí tánh của con người, còn gọi là năm phiền não nghiệp chướng, đó là: ái dục, sân hận, trạo cử, hôn trầm, nghi hoặc, làm trở ngại trên đường tu tập thiền định, phát triển trí tuệ, thành tựu Phật đạo.

Muốn được giải thoát hay tới Niết-bàn, ta phải chiến thắng những kẻ thù phiền não đó.

Tham ái, sân hận, si mê… là những kẻ thù nội tại, dù chúng không có khí giới, chúng vẫn chế ngự và sai khiến ta được. Chúng tạo nên những ảnh hưởng và hậu quả tác hại vô cùng. Ta phải nhận diện, biết những cảm thọ phiền não là kẻ thù thật sự của mình và phải diệt chúng, bởi đó là nguồn gốc của tất cả khổ lụy.

Phần lớn chúng ta đều biết và nghe danh Ma Vương phá đạo bằng cách này hay cách khác, nhưng ít ai biết Ma Vương chính là sự cám dỗ. Nó luôn ngự trị trong lòng chúng ta nhưng ta không nhận ra nó, bị nó lôi kéo vào tội lỗi, thúc dục ta làm những gì để thỏa mãn khoái lạc ngũ dục.

Cổ đức nói:

Trầm luân bởi một chữ tình

Tội mình chẳng vượt nổi mình vậy thôi.

Tình đây không chỉ có nghĩa là tình ái. Mà tình ở đây là chỉ chung cho mọi thứ đam mê tiền tài, sắc dục nam nữ, ăn uống say sưa, ngủ nghỉ mê si, danh vọng địa vị quyền lợi, tham lam cố chấp,… Và đi đôi với chữ tình là chữ tội. Tội ở đây không có nghĩa là lầm lỗi mà chỉ cho tất cả nỗi khổ đau vật lý lẫn khổ đau tâm lý của con người khi không vượt qua chính mình, vượt qua con người đam mê trần tục của mình.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Phật dạy người đệ tử xuất gia vào lúc sáng sớm thức dậy nên đọc bài kệ Tảo Giác:

Âm:    

Thụy miên thỉ ngộ,

Đương nguyện chúng sanh,

Nhứt thiết trí giác,

Châu cố thập phương.

Nghĩa:           

Như khi vừa ngủ dậy

Cầu cho chúng sanh,

Nhứt thiết trí thành tựu,

Mười phương thấy rõ rành.

Kinh Hoa nghiêm nói: “Dùng trí tuệ dũng mãnh mà thức tỉnh cho tất cả chúng sanh đang ngủ mê.”

Kinh Đại thừa Bồ-tát tạng Chánh pháp nói: “Tất cả các loài hữu tình đều ham thích ngủ nghỉ. Chỉ có các bậc Bồ-tát mới hay thường tỉnh giác”.

Chúng sanh đang mê đắm trong biển khổ, vọng chịu sự luân hồi, cũng đều do không có trí huệ quán chiếu của thỉ giác mà thôi. Thụy miên: Chữ Phạn là Middha, nghĩa là ngủ, là một pháp bất định (không nhất định là thiện hay ác). Trạng thái tâm, ý, thức hôn mê thì gọi là thụy. Trạng thái năm thức trước tối tăm không có hiểu biết thì gọi là miên. Nếu ở trong ngũ cái (năm món phủ che: tham dục, sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi ngờ) thì gọi là thụy miên cái. Nghĩa là chúng sanh bị phiền não về ngủ nghỉ phủ che tâm thức, làm cho chúng sanh không thể tiến bước trên con đường thực hành pháp lành mà phải bị chìm đắm trong ba cõi luân hồi không có thời kỳ ra khỏi.

Nếu ở trong ngũ dục (năm thứ ham muốn: Tài, sắc, danh, thực, thùy) thì gọi là thùy miên dục. Nghĩa là hàng phàm phu phóng túng, lười biếng, chẳng siêng năng tu tập Thánh pháp mà chỉ ham mê trong việc ngủ nghỉ, đắm chìm trong sự đeo bám lạc thú trần gian.

Sách Đại thừa quảng ngũ uẩn nói: “Sao gọi là ngủ nghỉ? Nghĩa là hoạt động không được tự tại, bởi tánh của nó là mê mờ. Nghĩa là nó làm cho tâm, ý, thức hoạt động không được tự tại, bởi vì ngủ nghỉ làmột phần của Si. Lại do tánh không được tự tại này mà làm cho tâm và tâm sở thành ra rất mê muội. Nếu ở trong ba tánh thiện, ác và vô ký, thì sự ngủ nghỉ này hay cùng với sự lỗi lầm tạo thành nghiệp”.

Thụy miên là hôn trầm, là lúc tâm không ngủ nhưng cũng không thức. Trạng thái dật dờ đó khó thể làm nên chuyện gì. Hôn trầm chỉ khác với cái ngủ là ta có thể dễ dàng ra khỏi nó hơn. Nhưng hôn trầm dầu không mê man như khi ngủ, nó vẫn đáo đi, đáo lại hoài. Tâm trạng này ở ngoài đời được coi là tâm không có phương hướng, từ đó nó dẫn đến thiếu nghị lực. Và nghị lực là một trong bảy yếu tố dẫn đến sự giác ngộ.

Đức Phật đã so sánh hôn trầm hay thuỵ miên giống như một nhà tù. Khi ta bị giam tù trong một căn phòng nhỏ thì ta khó có thể làm được gì. Tâm trí ta uể oải, ngầy ngật, giam hãm, tù túng, cho đến nỗi ta chỉ có đủ nghị lực để kéo lê một kiếp sống.

Phần đông chúng ta không biết hay không nghĩ hành thiền là một việc làm cần thiết nên ta dễ dàng đầu hàng các trở ngại. Sống không chỉ cần ăn ngủ, tắm rữa, giặt giũ, chúng chỉ là các hoạt động theo bản năng.

Khi mê đọc một quyển sách, ta có thể thức đến nửa đêm để đọc mà không thấy mệt, hay khi đi ăn tiệc ta có thể nói suốt buổi mà không mệt vì ta vui thích. Khi tu tập thiền định, nếu tâm ta không có sự say mê, phấn khởi thì mới vừa đau chân là chúng ta thấy khổ sở, không thú vị… Nhưng khi tâm đã hiểu ra được tầm quan trọng của tu thiền, thì chúng ta sẽ biết việc ta làm, biết từng giây phút tâm ta khởi niệm, ta sẽ thấy hứng thú để tìm hiểu chính tâm ta. Còn gì hấp dẫn hơn khi đọc một quyển sách, hay trò chuyện với người khác, ta chỉ biết về người đó. Nhưng nếu ta có thể theo dõi tâm ta từng phút, lúc nó dấy niệm, lúc nó tĩnh lặng, rồi lại dấy niệm, dấy niệm rồi lại tĩnh lặng, thì hấp dẫn và lợi ích biết bao.

Một lần Mahamoggallana đến sám hối với Phật rằng tôn giả đã ngủ gục trong khi toạ thiền. Đức Phật dạy khi cảm thấy buồn ngủ, hãy mở mắt ra và đứng dậy đi kinh hành… Đó là những cách thức bên ngoài để chữa trị bệnh buồn ngủ. Nhưng còn nhiều cách thức khác để dẫn tâm đi theo đúng hướng của chánh đạo:

1. Như quán tưởng về cuộc đời vô thường, khổ và sự chết thì có thể đến với chúng ta bất ngờ không biết trước.

2. Được làm người, được xuất gia, có chỗ tu tập, có đủ ăn, có nơi ở, thân không bịnh hoạn, được nghe kinh, học đạo, hành thiền,… là cơ duyên phước đức tốt nhất cho ta tu tập mà không phải ai cũng có được. Chúng là kết quả của các căn lành của ta. Đó là phương cách giúp tâm ta tăng thêm nghị lực mà tinh tấn vượt qua nghiệp chướng hôn trầm ngủ nghỉ.

Đức Phật so sánh hôn trầm giống như một cái ao hồ, bị sình bùn dấy động nổi lên mặt hồ làm ta không thể nào soi mặt vào để thấy bóng mình trong ao. Cũng như vậy trong trạng thái tranh sáng tranh tối giữa ngủ và thức ta không thể có sự tỉnh thức. Trong Kinh Đại Hạnh Phúc (Maha Mangala Sutta) có dạy: Cái phước hạnh thật sự của đời sống là có được một định hướng đúng”, nghĩa là ta phải nhận thức đúng đắn vị trí của mình trong thế gian này, đặt cho mình mục tiêu và tìm con đường đúng đắn để tiến đến mục tiêu đó. Một phương hướng rõ ràng đem lại cho ta nghị lực cần thiết, có thể hăng hái sấn bước. Khi ta không có đích đến, ta không có niềm say mê, hứng thú với điều gì. Thật khó tìm được một hướng đi đúng trong cuộc đời này. Đức Phật đã chỉ cho ta con đường mà Ngài đã chứng nghiệm, để đi đến đoạn tuyệt khổ đau, giải thoát, niết-bàn.

***

Ngài Lai Quả thiền sư trong giờ tham thiền, ông nghe văng vẳng có tiếng thở than. Ông bước xuống giường lần theo tiếng than rên rỉ thì phát giác có một con rận từ trên giường té xuống gãy mất một chân lăn lộn đau đớn vô cùng. Ngài nhận thấy cảm thọ của nó như con người. Do đó nếu như loài người chỉ nhận lấy sinh mạng để làm biểu tượng mà cuộc sống không bám víu vào mục đích gì thì khác gì con rận.                                    

Trong kinh Sa Di Thập Giới, Phật dạy: “Nỗi khổ bị thiêu trong ba đường dữ, nỗi khổ của con lạc đà, con lừa chở nặng, nỗi khổ đói khát áp bức của loài ngạ quỉ chưa gọi là khổ. Si mê không học, chẳng biết hướng đi mới là khổ”.

Xét ra, chúng sanh bị phiền não về ngủ nghỉ trói buộc nên từ đời này đến đời khác đều thường sống ở trong trạng thái ngủ mộng. Và thật ra là từ cõi này đến cõi kia, chúng sanh đều luôn bị chìm đắm trong biển khổ. Do đó, trong kinh Di Giáo đức Phật dạy: “Này các thầy Tỳ-kheo! Ban ngày các thầy phải siêng năng tu tập các pháp lành mà không được để cho thì giờ trôi qua đi một cách luống uổng. Đầu hôm và cuối đêm cũng chớ có bỏ phế. Ở phần thời gian giữa đêm các thầy phải lấy việc tụng kinh làm sự nghỉ ngơi. Không được để cho nhân duyên ngủ nghỉ làm cho một đời trôi qua một cách luống uổng mà không có được một sự chứng đắc nào. Phải nhớ rằng ngọn lửa vô thường đang thiêu đốt cả thế gian, cho nên cần phải biết sớm tự độ thoát mà chớ có ham ngủ nghỉ. Việc các giặc phiền não luôn luôn rình rập giết hại người còn đáng sợ hơn cả oan gia nữa, thế thì làm sao các thầy có thể cứ mê ngủ nghỉ mãi mà không biết tự cảnh giác ư! Rắn độc phiền não đang ở trong tâm của các thầy cũng giống như rắn hổ mang đang ngủ ở trong nhà, cho nên các thầy cần phải sớm lấy cái móc trì giới mà móc kéo nó ra. Khi nào con rắn phiền não đang ngủ trong tâm đã được kéo ra, thì các thầy mới có thể ngủ yên được. Nếu nó chưa ra mà cứ mê ngủ mãi, thì các thầy quả là người không biết xấu hổ”!

Luận Đại Trí Độ nói: “Các thầy chớ có ôm cái thây chết mà nằm ngủ. Bởi vì thân này do các thứ bất tịnh hợp lại mà thành, giả gọi là người, nên nó giống như mắc bệnh nặng, như bị trúng tên, đủ thứ đau khổ nhóm hợp lại, thì làm sao có thể ngủ yên? Giống như người đang bị trói mang đi hành hình, đang ở trong tình cảnh đại hoạ sắp đến nơi thì làm sao có thể ngủ được? Giặc phiền não chưa được diệt trừ, thì tai hoạ cho thân chưa hết, cho nên cũng giống như đang ngủ chung nhà với rắn độc. Cũng giống như là lúc ra trận đang đứng giữa muôn ngàn gươm giáo nhọn hoắc, sáng loáng, thì làm sao có thể ngủ yên được?” Không ham ngủ nghỉ là hạnh của người con Phật biết tu tâp trí tuệ.

Ngủ là một kẻ giặc đen tối mà ta không thể trông thấy được, nhưng hằng ngày nó cứ luôn đi lường gạt đoạt lấy ánh sáng của người ta. Bởi vì khi ngủ thì nó phủ che làm cho tâm thức của người ta mờ tối đi không thấy biết được điều gì nữa cả. Do vì ngủ có nhiều nguy hại lớn lao như vậy, cho nên làm sao mà có thể mê ngủ được ư ?.

Luật Tứ phần nói: “Phần đầu hôm thì đi kinh hành hoặc ngồi thiền với trạng thái luôn nhất tâm diệt trừ các triền cái. Phần giữa đêm thì nằm nghiêng bên sườn phải, hai chân xếp chồng lên nhau mà ngủ nghỉ, suy nghĩ là sẽ thức dậy đúng giờ, tâm luôn nhiếp niệm tỉnh giác không tán loạn. Đến phần cuối đêm thì thức dậy tư duy thiền quán, đi kinh hành hoặc ngồi thiền với trạng thái luôn nhất tâm, nhớ diệt trừ các triền cái”.

Lại ngủ có những thứ tai hại như trong kinh Phát Giác Tịnh Tâm đã nói: “Bồ tát nên quán 20 điều tai hại của việc ngủ nghỉ. Hai mươi điều tai hại ấy là những gì ?

1. Người ưa ngủ nghỉ thì hay sinh lười biếng.

2. Thân thể nặng nề.

3. Da dẻ nhơ nhớp, không sạch.

4. Da thịt thô nhám.

5. Các đại nhơ bẩn, oai đức kém cỏi.

6. Ăn uống không tiêu.

7. Thân thể sanh nhiều ghẻ lác.

8. Có nhiều lười biếng, trễ nải.

9. Thêm lớn mạng lưới hoài nghi.

10. Trí tuệ yếu kém.

11. Mệt mỏi với ý muốn làm điều lành.

12. Đang hướng về nẻo đường tăm tối.

13. Người khác không kính trọng.

14. Bẩm chất ngu si. 

15. Nhiều phiền não, tâm hướng về các kiết sử.

16. Không có tâm ưa thích các pháp lành.

17. Hay làm cho các pháp lành bị giảm bớt ít lại.

18. Thường sống trong sợ hãi.

19. Thấy người siêng năng tu tập thì hay nói xấu, mắng chửi. 

20. Bị mọi người khinh khi.

Lại một hôm trong khi Phật đang nói pháp cho chúng hội nghe, tôn giả A-Na-Luật ngồi ngủ gục. Phật thấy vậy mới quở trách rằng:

“Thầy cớ sao mê ngủ,

Như là loại ốc, trai,

Ngàn năm một giấc ngủ,

Từ Phật chẳng qua tai!”

Sau khi nghe Phật quở trách như vậy, tôn giả A-Na-Luật rất xấu hổ, nên quyết tâm phấn đấu không ngủ để tu tập, và trải qua bảy ngày đêm, tôn giả bị mù cả hai mắt. Lúc đó, đức Thế tôn bèn dạy Tôn giả tu tập Tam muội nhạo kiến chiếu minh kim cang. Khi tôn giả tu tập pháp thiền định này được thành tựu viên mãn, tâm phát sáng, Ngài không cần nhờ vào con mắt mà vẫn nhìn thấy khắp cả mười phương một cách rõ ràng, tỉ mỉ, giống như là nhìn thấy một trái cây ở trên tay, cho đến diệt trừ hết các lậu hoặc, chứng quả A-la-hán.

Kinh Thí Dụ nói: “Có một thầy Tỳ kheo cứ sau khi ăn no là vào trong phòng đóng cửa lại mà nằm ngủ, bởi vì thầy này chỉ thích được sướng tấm thân. Nhưng một hôm, Phật thấy thầy tỳ kheo này thời hạn chỉ còn bảy ngày nửa sẽ chết nên Phật mới từ bi thương xót mà kêu dạy bảo với thầy rằng: “Ở vào thời đức Phật Duy Vệ (tức Phật Tỳ-bà-thi (Vipasyin), còn gọi là Phật Phất-sa, là đức Phật đầu tiên trong bảy đức Phật quá khứ, ra đời cách nay 91 kiếp), thầy từng được xuất gia, nhưng cũng do vì không chịu nhớ nghĩ đến kinh điển, giới luật mà chỉ biết sau khi ăn no là lo đi ngủ, cho nên sau khi chết thầy bị đoạ sanh làm loài rít trong suốt 50.000 năm. Sau đó chết lại đoạ làm các loài sò, ốc và mọt cây, lần lượt mỗi loài đều 50.000 năm nữa. Cả bốn loài này chỉ sống trong chỗ tối, yêu quý thân mạng, chỉ thích lấy những khuất tối làm nhà ở mà không ưa ánh sáng, mỗi một lần ngủ là cả năm mới thức, luôn bị trói buộc triền miên trong lưới tội mà không biết mong cầu ra khỏi. Đời này tội hết mới được làm Sa-môn, thì tại sao thầy lại còn ham mê ngủ nghỉ mà không biết chán đủ ư? Thầy Tỳ-kheo này nghe đức Phật quở trách như vậy, bèn sanh tâm xấu hổ, sợ hãi mà tự biết quở trách tội nghiệp của mình. Rồi nhờ đó mà thầy diệt trừ được năm món triền cái, và chứng thánh quả A-la-hán”.

Kinh Tăng Hộ Nhân Duyên nói: “Một hôm Ngài Mục Kiền Liên thiền định thấy cái lu thịt bị lửa thiêu đốt cháy phừng dưới địa ngục, Ngài liền xả định và bạch hỏi đức Phật. Phật dạy: Cái lu thịt lớn mà thầy thấy đó chẳng phải thật là lu thịt mà là một người nghiệp tội. Số là vào thời Phật Ca-diếp, kẻ ấy là một Thượng toạ ở trong chúng Tăng mà không chịu ngồi thiền, tụng kinh, không thông hiểu giới luật, chỉ biết ăn no rồi đi ngủ, và hay luận bàn những chuyện vô ích. Có những thức ăn ngon bổ dưỡng, mà người ta cúng dường cho chúng Tăng thì Thượng toạ ấy lấy ăn uống trước, do nhân duyên này mà bị đoạ vào trong địa ngục làm một cái lu thịt lớn, chịu cái khổ lửa đốt đến nay vẫn chưa dứt”.

Nếu ai đã hàng phục được bốn con rắn độc (bốn đại), diệt trừ xong năm món triền cái, thì cả Trời, Rồng sẽ cúi đầu cung kính khi trông thấy mặt, loài quỷ thần phải thót tim sợ hãi lúc nghe đến tên, và khi ấy sự ngủ nghỉ cũng không còn bị đau khổ nữa.

Trước khi ngủ phải quay mặt về phương Tây, chánh tâm buộc niệm mà quán tưởng, niệm Phật một trăm câu, ngàn câu, cho đến muôn câu, hoặc tưởng niệm đến điều lành, rồi mới được ngủ. Và trước khi ngủ Phật cũng chế luật cho Tỳ-kheo bài kệ thức tỉnh:

Dĩ thời tẩm tức,

Đương nguyện chúng sanh

Thân đắc an ổn,

Tâm vô động loạn

Nghĩa:                              

Đến khi nằm ngủ,

Cầu cho chúng sanh,

Thân thể yên ổn,

Chẳng còn loạn tâm.

Động loạn nghĩa là tâm niệm tán loạn không dừng trụ được một chỗ. Thân đã ngừng sinh hoạt để nằm ngủ thì tâm ý được thảnh thơi, muôn tiếng động đều im bặt, trăm ý niệm đều lặng dừng, dứt sạch tư tưởng phan duyên, lìa xa hành vi si mê, điên loạn, thường lặng lẽ nhiệm mầu, hiển bày cái lặng lẽ, nên nói là chẳng còn loạn động tâm (tâm vô loạn động).

Kinh Pháp Hoa Phật dạy: “Không bị năm trược, tám khổ làm hại nên gọi là an, dù cho mặt trời có rơi rụng, cuồng phong, bão tố có thổi tạt cũng không làm chao động nên gọi là ổn”.

Tông Cảnh Lục chư Tổ dạy: “Người an ổn khoái lạc thì thường lặng lẽ nhiệm mầu, người vĩnh viễn dừng hết việc thế gian thì đoạn trừ tâm tựa nương bám víu”.

Luật Thập tụng nói: “Khi ngủ mà loạn động, không nhứt tâm thì có năm điều tệ hại: 1- Khổ sở vì khó ngủ. 2- Khổ sở vì khó thức. 3- Có ác mộng. 4- Khi ngủ không được các thiện thần bảo vệ. 5- Khi thức khó nhập tâm vào các pháp khéo giác quán”.

Tam thiên oai nghi nói: “Ngủ nghỉ có năm điều: 1. Đỉnh đầu phải hướng về phía hình tượng Phật. 2. Không được nằm nhìn hình tượng Phật. 3. Không được nằm duỗi thẳng hai chân. 4. Không được hướng đỉnh đầu vào gần vách và cũng không được nằm xấp. 5. Không được nằm dựng đứng hai bàn chân (nằm ngửa) mà phải một chân trên một chân dưới, hai chân đều co và hai gối chồng lên nhau, đầu gối lên cánh tay phải”.

Luật Tăng-kỳ nói: “Không được nằm kiểu quỷ đói. Không được nằm kiểu A-tu-la. Không được nằm kiểu người tham dục. Nếu nằm ngửa tức là nằm kiểu A-tu-la. Nếu nằm xấp tức là nằm kiểu quỷ đói. Nếu nằm nghiêng bên sườn trái tức là nằm kiểu người tham dục. Tỳ kheo phải nằm như sư tử chúa nằm mà ngó nhìn thân”.

Lại nói: “Xếp chồng hai chân, ngậm miệng, lưỡi để trên nướu răng, tay phải gối đầu, tay trái duỗi xuôi theo trên thân, tâm luôn nhiếp niệm tỉnh giác, khởi nghỉ là sẽ thức dậy đúng giờ. Không được ngủ cho đến lúc mặt trời mọc rồi mới dậy. Đến phần cuối đêm phải tỉnh thức dậy ngồi ngay thẳng mà tư duy tu tập theo pháp tu của mình. Nếu đêm ngủ say không tự biết mà xoay mình đổi cách nằm thì không có tội. Nếu là người già bệnh, hoặc ở bên sườn phải có ghẻ nhọt nên không nằm nghiêng bên ấy được thì cũng không có tội. Cách thức nằm ngủ của Tỳ kheo là phải làm đúng như trên đây. Nếu Tỳ kheo nào không làm đúng như vậy thì mắc tội Vượt qua giới luật”.

Không được nằm trên giường mà đọc kinh. Không được nằm dựa vào vách. Không được nuối tiếc, nghỉ ngợi về những việc thế gian. Không được làm cho giường kê ra tiếng. Nằm ngủ mà đúng như pháp thì thân sẽ được điều hoà, an ổn.

Như trong Căn bản thuyết nhứt thiết hữu bộ Tỳ-nại-da nói:

“Hay trừ các tội ác,

Chẳng bị dục trần ràng,

Lìa niệm về viên tịch,

Thì nằm ngủ được an.

Hay trừ bệnh nhiệt não,

Hết thảy dứt cầu mong,

Tâm ý thường trong lặng,

Thì yên ngủ giấc nồng.

Ở phần Phá Tăng sự trong Căn bản thuyết nhứt thiết hữu bộ Tỳ-nại-da nói: “Hôm nọ, lúc Trưởng giả Cấp Cô Độc mới đến gặp Phật, bèn theo phép thế gian mà thăm hỏi Phật rằng đức Thế Tôn ăn có ngon, ngủ có yên không, thì Phật liền dùng kệ mà đáp rằng:

“Lìa tất cả phiền não,

Tâm không nhiễm dục trần,

Được vô lậu giải thoát,

Thường ngủ được ngon lành.

Chặt đứt mọi ràng buộc,

Trong tâm tắt lửa phiền,

Luôn trong lặng sáng suốt,

Nên ngủ được bình yên”.

***

Trở lại bài kệ thức tỉnh, đương nghĩa là phải, nên; nguyện chữ Phạn là Prani-dhana, nghĩa là chí cầu đầy đủ.

Trong Chỉ Quán nói: “Phát nguyện nghĩa là thệ, bởi lẽ giống như hứa cho ai đó một món đồ mà không có đưa giấy xác nhận là sẽ cho món đồ gì, thì món đồ được cho đó sẽ không nhất định. Chúng ta cho chúng sanh điều thiện mà không có tâm huyết, thì e rằng có lúc sẽ sanh tâm hối hận, lui sụt, cho nên cần phải dùng đến sự trợ giúp sức của thệ nguyện. Lại không có thệ nguyện thì giống như trâu bò không có người điều khiển, thì hẳn là nó sẽ giúp sức cho công hạnh, thì công hạnh ắt sẽ được đứng vững”.

Luận Đại Trang Nghiêm nói: “Về nước Phật là việc lớn, nếu một mình riêng thực hành thì công đức sẽ không thể thành tựu, cho nên cần phải có sức trợ giúp của thệ nguyện. Cũng giống như việc kéo xe, dù cần sức của trâu bò nhưng cũng cần phải có năng lực của người điều khiển thì việc về cõi tịnh độ của chư Phật cũng cần phải nhờ vào sức trợ giúp của thệ nguyện dẫn dắt thì mới thành công. Do nhờ vào sự trợ giúp của thệ nguyện mà phước đức được tăng trưởng, không hư, không mất, thường gặp chư Phật”.

Lại nguyện gồm có tổng nguyện và biệt nguyện. Tổng nguyện nghĩa là như Tứ hoằng thệ nguyện, biệt nguyện nghĩa là như 10 nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, 12 nguyện của Bồ-tát Quán Âm, 12 nguyện của Phật Dược Sư, 48 nguyện của Phật A-di-đà, vô lượng nguyện của Phật Thích Ca v.v…

Nếu khi hành giả trông thấy các loài hữu tình lẫn vô tình mà khéo dụng tâm phát khởi thệ nguyện tốt lành to lớn, thì ắt sẽ có được tất cả công đức tốt đẹp, nhiệm mầu.

Chúng sanh tiếng Phạn là Tát-đoả (Sattva), nghĩa là vì các loài hữu tình do nhiều pháp (chúng) giả hợp mà sanh ra nên gọi là chúng sanh. Lại nhân vì bị vô biên phiền não làm cho từ vô thỉ đến nay phải thuận theo thế gian mà chịu rất nhiều lần (chúng) sanh ra (sanh) rồi chết đi, trôi nổi mãi trong biển khổ, cho nên gọi là chúng sanh. Kinh Pháp Cổ nói: “Do muôn pháp (chúng) hoà hợp lại mà thành (sanh), nên gọi là chúng sanh”. Nếu ước theo sự, thì chúng sanh có bốn loại là:

1. Noãn sanh (Andaja): loài sanh ra từ trứng.

2. Thai sanh (Jarayuja): loài sanh ra từ bào thai.

3. Thấp sanh (Samavedaja): loài sanh ra từ nơi ẩm ướt.

4. Hoá sanh (Upapa-duka): loài sanh ra bằng cách tự nhiên hoá hiện.

Nếu ước theo lý, thì chỉ có chúng sanh tự tánh.

Kinh Đại Bảo Tích nói: “Ngươi ngày đêm mỗi niệm thường khởi ra vô lượng trăm ngàn chúng sanh”. Các hàng Bồ-tát đạo, trang nghiêm nơi cõi Phật, thành tựu cho chúng sanh, cho nên hoặc tự hoặc tha đều phải phát thệ nguyện rộng lớn là hoá độ hết tất cả chúng sanh.

Nhứt thiết trí: Tiếng Phạn là Tát-bà-nhã-na, nghĩa là trí của Phật, là một trong ba trí (nhất thiết trí, đạo chủng trí, nhứt thiết chủng trí). Vì trí này hiểu biết hết tất cả các pháp nên gọi là Nhứt thiết trí.

Luận Đại Trí Độ nói: “Cũng giống như cái hộp lớn thì nắp hộp cũng phải lớn, vì dùng vô tận trí mà biết vô tận pháp, cho nên Như Lai được gọi là bậc nhứt thiết trí”.

Lại nói: “Nhứt thiết trí thì tổng phá vô minh tối tăm trong tất cả pháp. Nhứt thiết chủng trí thì quán xét những pháp môn phá diệt vô minh”.

Kinh Nhân Vương nói:

“Cái được gọi là nhứt thiết trí,

Tức tâm vô lậu đã đầy tràn,

Thân thường giải thoát và thanh tịnh,

Tịch diệt không còn thể nghĩ bàn”.

Lại luận Đại Trí Độ nói: “Nhứt thiết trí là trí của hàng Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ biết được tổng tướng của của tất cả pháp. Đạo chủng trí là trí của hàng Bồ-tát, biết được tất cả những đạo pháp sai biệt. Nhứt thiết chủng trí là trí của chư Phật, hiểu biết thông suốt cả tổng tướng cùng biệt tướng của tất cả các Pháp”.

***

Gương Hạnh người xưa:

– Từ Minh, Cốc Tuyền, Lang Da là ba người bạn kết thân đến Phần Dương tham học. Bấy giờ ở Hà Đông rất lạnh, mọi người đều kinh sợ thoái lui. Duy có Từ Minh quyết chí cầu đạo cam chịu lạnh ở đây, sớm chiều bền chí tinh tấn tu tập. Ban đêm toạ thiền, ma ngủ đến, Từ Minh lấy dùi chích vào mình khiến ma ngủ tan mất. Về sau đắc đạo hiệu là Sư tử Tây Hà.

– Thiền Sư Triết khi ngủ lấy cây tròn làm gối đầu. Ngủ vừa trở mình thì đầu rớt xuống chiếu, Ngài giật mình thức dậy tu tập. Ngài lấy làm sự thường. Có người bảo: “dụng tâm như thế là thái quá”. Ngài đáp: “Duyên phận của tôi đối với Bát-nhã rất mong manh, nếu không cố gắng như vậy, thì e bị thói quen xấu lôi cuốn”.

– Thiền Sư Phật Đăng Tuần học đạo với Tổ Phật Giám. Tham vấn mãi mà không khế ngộ, Ngài than: “Nếu đời này không tỏ ngộ ta thề không xổ mền ra nằm nghỉ”. Phát thệ rồi, suốt 49 ngày, Thiền sư chỉ đứng dựa cột chuyên tâm tham cứu, trạng thái như ngây dại, không khác nào người mất mẹ. Nhờ đó Ngài được đại ngộ.

– Thiền Sư Tịnh Lâm sau khi nghỉ diễn giảng để tu tập thiền định, thường bị hôn trầm làm mê loạn tâm. Ngài cố hết sức trấn tỉnh, nhưng cứ mỗi lần ngồi được một lúc, lại mơ màng hồi nào không hay. Gần chỗ Ngài ở có một cây đại thọ nghiêng mình ra giữa vực sâu thăm thẳm. Muốn đuổi con ma ngủ đi, Ngài leo lên cây ngồi thiền. Trải mấy ngày đêm, vì sợ hơ hỏng sẽ té nát thây, mất mạng, Ngài giữ tâm định tỉnh không dám chợp mắt. Nhờ thế, Ngài đại ngộ.

– Thừa tướng Di Thích Sở Tài đến tham học với Vạn Tùng lão nhân. Ông bỏ hết việc nhà bế cửa thất không tiếp khách. Dù những khi giá lạnh, nóng bức, không ngày nào ông dừng nghỉ tham cứu. Đêm đến, ông thắp đèn sáng kế tiếp mặt trời để bỏ ngủ. Ban ngày thì ông quên ăn. Như vậy suốt 3 năm, ông mới được ấn chứng.

Lời bình: Dụng tâm như vậy, chứng đạo như vậy, đáng gọi là Bồ-tát tại gia, đâu có giống kẻ ăn thịt no nê rồi đi tìm các vị Tăng để nói thiền, nói đạo.

Sự tự ái có thể lan rộng và thiêu đốt mọi thứ xung quanh

Sự tự ái thường là ngọn lửa nhỏ, nhưng có thể lan rộng và thiêu đốt mọi thứ xung quanh nếu không được kiểm soát. Khi chúng ta nhận ra rằng việc giữ lại sự tự ái chỉ làm hại cho mối quan hệ của chúng ta, ta bắt đầu dứt khoát buông bỏ.

Khi chơi với bạn, có những khoảnh khắc ngọt ngào nhưng cũng không tránh khỏi những lúc bất đồng và giận dữ.

Đôi khi, những hiểu lầm nhỏ bé đã đủ khiến ta bực tức, khiến cho bầu không khí trở nên căng thẳng. Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta học cách xử lý những tình huống này.

Khi giận dữ nổi lên, màn vô minh che phủ khả năng nhìn thấy của ta. từ sâu thẳm trong tâm nổi lên đầy sự tức giận và bất mãn. Nhưng dần dần, ta nhận ra rằng sự giận dữ chỉ là một bức tranh lớn với những sắc màu tương phản.

Tự ái là cánh cửa đầu tiên phải vượt qua

438101153_1183977612958176_2448124234348976836_n

Chúng ta nhận ra rằng, mỗi sự giận dữ chỉ là một phần nhỏ trong câu chuyện lớn của tình bạn.

Và sau bức tranh đó, ta nhìn thấy ánh sáng. Chúng ta nhận ra rằng, để tạo nên bình an và yêu thương, ta cần phải kết nối với nhau qua những giọt nước mắt, những lúc bất đồng và cả những lúc giận dữ.

Chúng ta nhận ra rằng, sức mạnh của tình bạn không chỉ nằm ở việc cùng nhau vui vẻ, mà còn ở việc cùng nhau vượt qua những khó khăn, và học được từ những sai lầm.

Và khi hiểu lầm, giận hờn trôi qua, một cảm giác bình yên lan tỏa trong tâm hồn. Chúng ta hiểu rõ hơn về nhau, và tình bạn của chúng ta trở nên chắc chắn hơn. Và trong cái bình an đó, ta thấy rằng yêu thương không bao giờ phai mờ, mà ngày càng trở nên rõ ràng và mãnh liệt hơn.

Một trong những năng lượng ngăn trở tình bạn của ta đó là tự ái và tự ti. Khi nhận ra rằng sự tự ái chỉ là một bức tường ngăn cách chúng ta khỏi nhau, ta dần dần học cách buông bỏ. Buông bỏ những cảm xúc tự ti và sự tự ái, ta mở rộng lòng mình để chứa đựng tình bạn.

Sự tự ái thường là ngọn lửa nhỏ, nhưng có thể lan rộng và thiêu đốt mọi thứ xung quanh nếu không được kiểm soát. Khi chúng ta nhận ra rằng việc giữ lại sự tự ái chỉ làm hại cho mối quan hệ của chúng ta, ta bắt đầu dứt khoát buông bỏ.

Buông bỏ sự tự ái không chỉ là một hành động mạnh mẽ mà còn là biểu hiện của sự trưởng thành. Chúng ta nhận ra rằng sự tự ái không đáng giữ lại khi nó đặt nguy cơ cho mối quan hệ của chúng ta.

Khi ta dám buông bỏ sự tự ái, một cảm giác nhẹ nhàng và tự do lan tỏa trong tâm hồn. Chúng ta cảm nhận được sự gần gũi và chân thành hơn trong mối quan hệ của chúng ta. Tình bạn của chúng ta trở nên bền vững hơn, bởi vì nó được xây dựng trên sự hiểu biết và sự chia sẻ thực sự, không bị che khuất bởi sự tự ái và tự ti.

Khi ta buông bỏ sự tự ái, ta mở cửa trái tim mình cho tình bạn. Và ta thấy rằng giữ lại sự tự ái chỉ làm chúng ta cô đơn, trong khi buông bỏ nó, ta tìm thấy niềm vui và sự hạnh phúc trong mối quan hệ đáng trân trọng này.

Dứt trừ được phiền não sẽ giúp người tu Tịnh độ dễ sanh về Tây phương

Đã là phàm phu, tất còn ở trong vòng phiền não, bị nó mê hoặc sai khiến, lắm lúc không tự chủ được. Phiền não có nghĩa: “khuất động thiêu đốt” làm cho tâm niệm không yên, ngăn trở bước tu hành, nên gọi nó là phiền não chướng.

Pháp thân huệ mạng ta bị phiền não phá hại, nên cũng gọi nó là phiền não ma.

Có những Phật tử tuy ăn chay, bố thí, tụng kinh, niệm Phật, nhưng chỉ chú ý về hình thức, không quan tâm đến việc dứt trừ phiền não vọng duyên. Nên biết, nếu phiền vọng tăng một phần, tất đạo tâm phải thối một phần, dù có tụng kinh niệm Phật cũng không được thanh tịnh. Cho nên trong Kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ đã bảo:

“Người mê tu phước chẳng tu đạo

Bảo rằng tu phước ấy là đạo

Bố thí cúng dường phước không lường

Nơi lòng ba ác vẫn còn tạo”.

Chữ Đạo của đức Lục Tổ nói, chỉ cho chân tâm thanh tịnh. Tất cả đường lối tu hành đều là phương tiện trở về chân tâm ấy. Chứng được chân tâm mới hoàn phục tánh bản giác, thoát nỗi khổ luân hồi, mà điểm căn bản để tu chứng, là phải dứt trừ phiền não vọng niệm.

Lão thật niệm Phật tiêu nghiệp vãng sanh thành Phật

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật cũng dạy:

“Bậc sa môn hành đạo đừng giống như con trâu kéo chiếc cối xay, thân tuy hành đạo mà tâm đạo chẳng hành. Nếu tâm đạo được hành, cần gì dùng thân hành đạo?”

Niệm Phật, sám hối, ngồi thiền, lễ bái, kinh hành, đều là phương tiện phá trừ vọng nghiệp, mở rộng chân tâm. Nếu thân, miệng áp dụng hình thức ấy, mà lòng còn dẫy đầy nghiệp chướng tham, sân, si, thì đâu gọi là hành đạo? Trái lại, tuy không dùng hình thức đó, nhưng tâm vẫn luôn luôn trong sáng như gương nguyệt hồ thu, mới thật là người hành đạo.

Khi xưa vua Hương Chí hỏi Tổ Bát Nhã Đa La rằng: “Các vị tu hành khác đều tụng kinh, sao Ngài lại không tụng?”

Tổ đáp: “Bần tăng hơi thở ra không tiếp xúc các duyên, hơi thở vào không ở trong ấm giới, thường chuyển thứ kinh ấy đã ngàn muôn ức quyển rồi!”

Tổ muốn nói rằng mình hằng tụng vô tự tâm kinh, tâm kinh ấy là chẳng trụ trước muôn duyên bên ngoài, và bên trong hằng vắng lặng không thấy có năm ấm mười tám giới, cả tướng trong, ngoài, chính giữa cũng đều dứt tuyệt. Đây là ý nghĩa “tâm hành đạo”.

Tuy nhiên, cũng đừng chấp theo điều nói trên, mà bác bỏ ăn chay, bố thí, sám hối, niệm Phật, tụng kinh. Bởi các sự kiện ấy về mặt huệ nó giúp cho hành giả mau tiêu nghiệp chướng, sớm ngộ bản tâm; về mặt phước nó lại khiến cho người tu được quả báo đẹp vui, sanh về các cõi lành, hoặc miền Tịnh Độ để tiếp tục đường tu không còn thối chuyển. Mà phước huệ lưỡng toàn mới thành Phật được. Cho nên các bậc đại Bồ Tát tuy đã ngộ suốt nguồn tâm, nhưng vẫn tu muôn phước để trang nghiêm Phật độ. Như đức Di Lặc Bồ Tát tuy đã lên ngôi Nhất Sanh Bổ Xứ, xong mỗi ngày vẫn sám hối sáu thời để cầu tiêu trừ tế chướng, mau chứng quả Diệu Giác của Phật Đà.

Nên biết lời dạy trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương và lời của Tổ Bát Nhã Đa La ở trên, chỉ có tánh cách phiến diện hoặc bán dụ, để phá trừ lối tu chấp tướng quên tâm mà thôi.

Để kết lại vấn đề, người tu tịnh nghiệp ngoài phương diện niệm Phật, trì chú, tụng kinh, sám hối, còn phải chú trọng về phương diện “khai tâm”. Muốn cho tâm mở mang sáng suốt, để giúp kết quả niệm Phật mau thành tựu được sanh về Tây Phương, phải dứt trừ phiền não.

Nếu nhận thức sâu thêm, câu niệm Phật tuy là tướng mà cũng chính là tánh, bởi lý không ngoài sự, tức niệm là Phật, tức niệm là tâm. Cho nên trong sáu chữ hồng danh, phước huệ gồm đủ, sự lý viên dung, vừa đưa người tu mau đến thể viên giác diệu tâm, vừa khiến hành giả được tịnh báo vãng sanh cõi Phật.

Trích “Niệm Phật Thập Yếu”. 

Nhận diện tính ghen tuông và thói đố kỵ

Tính ghen tuông và đố kỵ làm cho chúng ta trở nên đau khổ. Chúng kìm hãm sự phát triển về tinh thần và tình cảm của chúng ta. Nếu chỉ vì ghen tức mà trở nên hung dữ thì không những chúng ta tự làm hại mình mà còn làm hại người.

Đức Đạt Lai Lạt Ma

Đức Đạt Lai Lạt Ma

Ghen ghét đố kỵ người khác, nói chung là một điều vô lý. Dù ta có ghen tức với người khác thế nào đi chăng nữa thì ta cũng không ngăn cản họ bớt giàu có hơn hoặc làm cho họ giảm mất những đức tính tốt đi. Có chăng nó chỉ làm cho chúng ta thêm đau khổ mà thôi. Ngoài ra, có gì đáng lên án hơn khi chỉ vì ganh ghét mà chúng ta tìm mọi cách phá những thành công và sự giàu sang của người khác. Bảo đảm không cần phải nghi ngờ gì hết, không chóng thì chầy, sự đố kỵ ấy sẽ quật ngược lại mà hại đến chúng ta.

Ghen ghét đố kỵ vì một lý do nào đi chăng nữa cũng là điều sai trái. Xã hội ngày nay được sung túc là do liên quan đến nhiều người, nhiều yếu tố khác nhau. Một khi có đôi ba người trong xã hội thành công thì đó chính là “lợi tức” của toàn xã hội gặt hái được, và suy cho cùng thì thành công của họ cũng đem lại lợi ích cho mỗi người chúng ta. Khi ta gặp được những người thành công trong xã hội thì ta phải nhận định rõ ràng, cái thành công của họ rồi cũng đem lại tác dụng tốt cho chính ta. Như thế chúng ta hãy vui với thành công của người thay vì cứ lấy đó mà giận dữ, đố kỵ để tự hành hạ thân mình.

Lẽ thường, một khi yêu thích ai thì ta vui với thành công của họ, còn không thì ngược lại. Nhưng đúng hơn mà nói, chúng ta cũng nên vui với những thành công của người không quen biết, không đem lại lợi ích trực tiếp cho mình. Nếu những người này thành công thì xã hội cũng sẽ được hưởng một phần tốt đẹp nào đó.

Càng có nhiều người thành công thì xã hội càng thêm tiến bộ. Thành công này, dĩ nhiên là phải có thành công đạo đức đi kèm. Nếu chỉ nghĩ đến riêng tư thì chúng ta không bao giờ có thể đem lại cơm no áo ấm và cuộc sống hạnh phúc cho toàn xã hội được. Xã hội muốn tiến bộ thì cần phải có số đông những người tài giỏi, đạo đức, chịu khó làm việc.

Nhưng ngay cả trường hợp chúng ta biết rõ có người giàu có và thông minh hơn mình nhưng họ chỉ chăm lo cho cuộc sống riêng tư của họ mà xã hội không được hưởng lợi ích gì hết thì chúng ta cũng không nên đố kỵ. Thử hỏi, có lợi ích gì cho chúng ta không, một khi chúng ta cứ quay cuồng ganh tỵ cùng họ? Và tại sao người khác lại không có được cái mà chính chúng ta cũng mong ước?

Tôi dành nhiều cảm thông cho việc ghen tuông hơn là đố kỵ, mặc dù đây cũng là một cảm giác không tốt. Cảm giác ấy xuất hiện khi chúng ta bị người bạn đời lợi dụng lòng tin tưởng của mình. Thí dụ, hai người thương yêu nhau thực sự rồi đi đến quyết định cùng chung sống. Họ hiểu nhau và hoàn toàn đặt tin tưởng ở nhau, họ sinh con và quyết định xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc. Nếu ngày nào đó, một trong hai người đi yêu người khác, thì ghen tuông xảy ra là điều dễ hiểu.