back to top
21.5 C
Chư Sê
Thứ Sáu, 17 Tháng Năm, 2024
Home Blog Page 171

Đáp đền ân nghĩa sinh thành như thế nào để đúng với tinh thần của Đạo Phật

Có hai hạng người, này các Tỳ-kheo, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Là cha và mẹ.

Đức Phật dạy về cách báo hiếu cha mẹ đúng pháp

“Nếu một bên vai cõng mẹ, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy hết trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội và dù tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ cha và mẹ. Hơn nữa, nếu có an trí cho cha mẹ vào quốc độ với tối thượng và uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ cha và mẹ. Vì cớ sao? Vì rằng cha mẹ giúp đỡ rất nhiều cho con cái, nuôi dưỡng chúng lớn và dẫn dắt chúng vào cuộc đời này”.

“Nhưng này các Tỳ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, người ấy khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào lòng tin; đối với cha mẹ theo ác giới, người ấy khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào thiện giới; đối với cha mẹ có lòng xan tham, người ấy khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác trí tuệ, người ấy khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỳ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ cha và mẹ”.

(kinh Tăng Chi Bộ 2).

Đáp đền ân nghĩa sinh thành như thế nào để đúng với tinh thần của Đạo Phật - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Không có cha mẹ thì không thể có bản thân của chúng ta. Cha mẹ đã sinh ta ra, đã chia sẻ một phần máu xương để ta có mặt trên cuộc đời này.

Ân nghĩa sinh thành cao như núi, rộng như biển

Đức Phật dạy các Thầy, có hai người không thể trả ơn, đó là cha và mẹ. Mỗi chúng ta có mặt trên thế gian này, nhờ cha mẹ tạo ra, chứ không phải thần linh hay thượng đế nào tạo ra cả. Trong kinh Tăng Chi Bộ 4, đức Phật dạy Phạm thiên: “Này các Tỳ-kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. Các bậc đạo sư thời xưa là đồng nghĩa với cha mẹ. Chư thiên thời xưa là đồng nghĩa với cha mẹ. Các bậc Thánh là đồng nghĩa với cha mẹ. Vì cớ sao? Vì cha mẹ giúp đỡ rất nhiều cho các con, nuôi dưỡng chúng lớn và dẫn dắt chúng vào cuộc đời này”.

Đức Phật ví cha mẹ ngang hàng với Phạm thiên. Ấn Độ thời điểm đó, đạo Bà-la-môn coi Phạm thiên là bậc tối cao, tối thượng của họ. Nếu những người con cúng dường vật thực hay những thứ khác cho cha và mẹ, mà đức Phật nói trong kinh, cũng không thể nào đền đáp được hết công ơn cha và mẹ.

Người Việt Nam ta rất coi trọng tình cảm gia đình. Vì thế, ca dao Việt Nam có rất nhiều bài diễn tả những tình cảm gia đình, tiêu biểu như:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ, kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Đáp đền ân nghĩa sinh thành như thế nào để đúng với tinh thần của Đạo Phật - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê

Tại sao ta lại nói công ơn cha mẹ không thể nào đền đáp cho hết được?

Trước hết, đó là công lao sinh thành. Không có cha mẹ thì không thể có bản thân của chúng ta. Cha mẹ đã sinh ta ra, đã chia sẻ một phần máu xương để ta có mặt trên cuộc đời này. Cha mẹ là người nuôi dưỡng ta từ khi chào đời đến lúc trưởng thành. Mẹ nuôi ta bằng những giọt sữa ngọt lành. Cha mẹ đã chăm sóc ta những khi ta đau ốm. Cha mẹ cũng ra sức làm việc vất vả để nuôi ta khôn lớn. Từ một hình hài nhỏ xíu đến khi biết đi, rồi biết đọc, biết viết, biết nấu cơm quét nhà, biết làm việc để tự nuôi mình, đâu phải chuyện ngày một ngày hai. Cha mẹ đã dành cho ta cả tình thương và sức lực của mình. Công lao ấy kể làm sao cho hết.

Không chỉ nuôi ta lớn, cha mẹ còn có công dạy dỗ cho ta nên người. Cha mẹ dạy ta bằng chính những việc làm, kiến thức, những hiểu biết về cách ứng nhân xử thế trong giao tiếp, học tập… Có thể xem cha mẹ chính là người thầy đầu tiên, dạy cho chúng ta đủ thứ. Để đền đáp công lao to lớn đó, mỗi chúng ta không phải thờ mẹ, kính cha khi cha mẹ không còn trên cuộc đời, mà chúng ta phải báo hiếu ngay khi cha mẹ còn hiện hữu trên cõi đời này. Chăm sóc cha mẹ lúc về già là bổn phận và nghĩa vụ của người làm con. Khi cha mẹ đau ốm, chúng ta lo lắng từ miếng ăn, giấc ngủ, viên thuốc, ly nước. Thiết nghĩ, đây là nguồn an ủi cho cha mẹ đỡ đau đớn, đỡ buồn và hiu quạnh. Đó là nguồn sức mạnh, là liều thuốc tinh thần, giúp cha mẹ đủ nghị lực vượt qua căn bệnh.

Vậy ta cần làm gì để báo hiếu với hai đấng sinh thành?

Công ơn cha mẹ thật lớn lao. Chúng ta cần suy nghĩ lại những hành động và việc làm của mình đối với cha mẹ. Chúng ta đừng chần chừ thêm giây phút nào. Hãy sống thật tốt cho cha mẹ vui lòng. Hãy chăm sóc cha mẹ bằng tất cả tấm lòng khi cha mẹ còn sống với chúng ta.

Đáp đền ân nghĩa sinh thành như thế nào để đúng với tinh thần của Đạo Phật - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Đức Phật hóa độ vua cha, giúp cho đấng sinh thành chứng quả thánh trước khi mạng chung

Đức Phật dạy ta nên an trú cha mẹ vào lòng tin, tin Phật, Pháp và Tăng; khuyến khích, hướng dẫn, quy y Tam Bảo, thọ trì Tam quy và Ngũ giới; khuyến khích, hướng dẫn, bố thí, làm các việc lành, xa lìa các việc xấu ác; nghiên cứu kinh điển với những lời dạy của đức Phật để mở mang trí tuệ, áp dụng vào trong đời sống… Được vậy, ta có thể mang lại giá trị đích thực hiện tại, an lạc cho cha mẹ ngay trong đời này và đời sau.

Tâm Huấn

Đức Phật, bậc lương y vĩ đại cứu chữa mọi nỗi khổ đau của nhân sinh

Để chữa trị các căn bệnh về thân tâm của chúng sinh, Đức Phật đã đem hết thời gian của đời mình diễn thuyết Tam tạng mười hai bộ kinh điển, chỉ ra từng toa thuốc điều trị thân tâm.

Đức Phật như vị lương y cứu chữa nỗi thống khổ của chúng sanh

“Hết thảy các pháp đều do duyên sinh, và cũng đều do duyên mà diệt”. Duyên sinh duyên diệt, sinh lão bệnh tử trong cõi trần gian phù du này, là hiện tượng không thể tránh khỏi. Nỗi thống khổ của chúng sinh, ngoài bệnh tật đến từ các bộ phận cơ thể, còn bao gồm bệnh tật tâm lý, cũng chính là do vô minh tham sân si. Để chữa trị các căn bệnh về thân tâm của chúng sinh, Đức Phật đã đem hết thời gian của đời mình diễn thuyết Tam tạng mười hai bộ kinh điển, chỉ ra từng toa thuốc điều trị thân tâm. Vì vậy, trong kinh điển ví von: “Phật là y sư, pháp là đơn thuốc, Tăng là y tá điều dưỡng, chúng sinh như người bệnh”. Từ nội hàm này thì có thể nói Phật giáo là y học với ý nghĩa rộng lớn nhất, giáo pháp của Đức Phật là toa thuốc trị liệu mọi nỗi khổ đau của nhân sinh, Đức Phật là lương y đệ nhất thế gian.

Y phương minh, một trong Ngũ Minh, phương pháp trị bệnh mà Đức Phật và chư Thánh đệ tử đã dùng để cứu độ chúng sanh

Đức Phật lúc còn trẻ tuổi từng học qua Ngũ minh, một trong ngũ minh là Y phương minh, sự sáng suốt về phương pháp trị bệnh. Căn cứ những ghi chép của kinh điển, trong hàng đệ tử của Đức Phật có Kỳ-bà, danh y thời đại Đức Phật, từng dựa vào những chỉ thị của Ngài để hoàn thành rất nhiều phương cách chữa trị xuất sắc; ví dụ, sau khi chẩn đoán người bệnh bị tắc đường ruột, trước hết, người y sĩ thực hiện việc gây tê, cùng vá lại phần ổ bụng, hoàn thành công việc trị liệu: đây chính là kỹ thuật giải phẫu thuộc ngoại khoa trong y học hiện đại.

“Hết thảy các pháp đều do duyên sinh, và cũng đều do duyên mà diệt”. Duyên sinh duyên diệt, sinh lão bệnh tử trong cõi trần gian phù du này, là hiện tượng không thể tránh khỏi.
“Hết thảy các pháp đều do duyên sinh, và cũng đều do duyên mà diệt”. Duyên sinh duyên diệt, sinh lão bệnh tử trong cõi trần gian phù du này, là hiện tượng không thể tránh khỏi.

Trong lịch sử Phật giáo, đa số chúng Tăng thông đạt y phương minh, đã từng xuất hiện không ít y Tăng tiếng tăm lừng lẫy, ví như Phật –đồ-trừng, Trúc-pháp-điều, Đơn-đạo-khai, Trúc-pháp-khoáng, Ha-la-kiết, Pháp Hỷ. Na-liên-đề-da-xá đời Tuy, Đạo Thuân ở núi Dương Đầu thuộc huyện Trạch Châu đời Đường, Đạo Tích chùa Phúc Thành quận Ích Châu (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên), Sa-môn Trí nghiêm ở Đan Dương, Sa môn Tăng Triệt ở huyện Giáng Châu…các Ngài đã không ngại khó khăn gian khổ cứu giúp chữa trị bệnh tật, hay tẩy rửa quần áo và đồ dùng hàng ngày cho những bệnh nhân, lòng từ cảm động lòng người.

Y học trong kinh điển Phật giáo

Trong kinh điển Phật giáo, cũng không ít những tác phẩm chuyên ngành bàn đến lĩnh vực y dược, trong đó có đến hai mươi loại từ các lãnh thổ Ấn Độ, Tây Vực truyền vào Trung Quốc; bên cạnh đó, sách vở về y thuật do giới Tăng sĩ Trung Quốc sáng tác cũng ước chừng mười lăm loại. Trong Tam tạng mười hai bộ kinh điển, văn hiến, tài liệu về y học Phật giáo nhiều vô kể; chẳng hạn như trong Tăng nhất A hàm kinh ghi chép, Đức Phật có nói đến ba loại bệnh lớn là phong, đàm và rét, đồng thời nêu ra phương cách trị liệu; trong y dụ kinh, Đức Phật chỉ ra điều kiện đủ các bác sĩ, cho đến các hạng mục khi chăm sóc bệnh nhân cần tuân thủ; trong Phật y kinh, Đức Phật nói có mười nguyên nhân khiến con người bị bệnh; Ma-ha-chỉ quán chỉ ra rằng có sáu nguyên nhân tạo nên bệnh tật; Đại trí độ luận cho biết sự sản sinh của bệnh tật là do các nhân duyên ngoại tại hoặc nội tại tạo thành; Thanh tịnh đạo luận của Nam truyền cũng đề cập đến tám loại nguyên nhân dẫn đến bệnh tật. Ngoài ra, còn có các kinh, luật khác như: Phật thuyết chú xỉ kinh, Phật thuyết chú mục kinh, Phật thuyết chú tiểu nhi kinh, Chú thời khí bệnh kinh, Liệu bệnh trí kinh, Trị thiền bệnh bí yếu kinh, trừ nhất thiết tật bệnh a la ni kinh, Kim quang minh tối thắng vương kinh, Tứ phần luật, Ngũ phần luật, Thập tụng luật, ma ha tăng kỳ luật, vân vân và vân vân, tất cả cũng đều có nói đến vấn đề y dược.

Y học của Phật giáo thì không chỉ bao gồm y lý thế gian, mà còn coi trọng việc diệt tận gốc ba độc tham sân si ở nội tâm.
Y học của Phật giáo thì không chỉ bao gồm y lý thế gian, mà còn coi trọng việc diệt tận gốc ba độc tham sân si ở nội tâm.

Chữa tâm bệnh, Ngài giúp chúng sanh loại trừ phiền não tham, sân, si

Đức Phật không chỉ là một đại y vương giỏi chữa lành bệnh tật thân thể của chúng sinh, Ngài đặc biệt còn là một bậc y sư chuyên về tâm lý khéo léo đối với việc trị liệu các chứng tâm bệnh của chúng sinh. Chính Đức Phật đã lập nên tám vạn bốn ngàn pháp môn như Tam học, Lục độ, Tứ vô lượng tâm, Ngũ đình tâm quán,… những điều này không ngoài mục đích nhằm đối trị tám vạn bốn ngàn loại phiền não tật bệnh như tham sân si của chúng sinh.

Sự sinh sôi của bệnh tật, thông thường có quan hệ với tâm lý, sinh lý, hành vi của con người, cho đến môi trường sống xã hội xung quanh. Đặc biệt trong thời đại mới ngày nay, nhiều người thích ăn những đồ ngon thứ lạ, ăn vào thì bệnh tới; có người thì ham chơi bời lêu lổng, nhàn rỗi thì bệnh sinh; có người thì thông tin quá nhiều, ôm đồm nhiều quá thì cũng bệnh; có người thì áp lực công việc quá lớn, chịu không nổi áp lực thì bị bệnh; có người tâm tính hèn yếu, tinh thần sa sút, âu sầu thì đổ bệnh; có người thì quá bận tâm với những chuyện thị phi, vì bực bội mà không tránh được bệnh hoạn. Nói gọn, hết thảy nguyên nhân nảy sinh bệnh tật, đều chỉ vì tâm không thể tĩnh lặng….khí không thể hài hòa, sự bao dung không thể rộng lớn, miệng không thể giữ gìn, sự giận dữ không thể kiềm chế, nỗi khổ không thể chịu đựng, nghèo không thể an, cái chết không thể quên, nỗi oán giận không thể buông, kiêu căng không thể kiềm chế, sợ hãi không thể gạt bỏ, tranh đua không thể cản, biện luận không thể dứt, ưu tư không thể hóa giải, vọng tưởng không thể trừ bỏ…thế là tạo nên các loại bệnh tật thân tâm. Phật giáo cũng có nhiều con đường trị liệu đối với các loại bệnh này, ví dụ: tiết chế ăn uống, lễ Phật bái sám, trì chú niệm Phật, thiền định tu hành, hành hương lễ bái, sổ tức chỉ quán, lạc quan tiến thủ, tâm khoan tự tại, buông bỏ an nhiên…

Y học Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa và cân bằng sức khỏe sinh lý và tâm lý cho con người

Y học của thế gian đối với việc trị liệu bệnh tật, phần lớn nhấn mạnh đến các liệu pháp như ẩm thực, vật lý, hóa học, tâm lý, môi trường, khí hậu, y dược, nội trong phạm vi hữu hạn, chữa trị theo con bệnh. Y học của Phật giáo thì không chỉ bao gồm y lý thế gian, mà còn coi trọng việc diệt tận gốc ba độc tham sân si ở nội tâm. Cõi trần thế chừng nào còn tâm bệnh, thì chừng đó còn cần đến tâm dược y của Phật, chỉ có điều hòa sức khỏe về sinh lý và tâm lý, mới có thể thực sự rảo bước, tiến tới con đường sức khỏe, tráng kiện.

Nguồn: Trích từ Tác phẩm Phật giáo và thế tục –  Phật học giáo khoa thư của Đại sư Tinh Vân, NXB Từ thư Thượng Hải, 2008.

Việt dịch: Nguyễn Phước Tâm 

Đại sư Tinh Vân

Đức Phật thăm vị tỷ kheo lâm bệnh

“Những người đồng hạnh với các ông bị đau ốm, các ông không săn sóc cho nhau thì ai săn sóc? Các ông mỗi người đều khác họ, khác nhà, vì niềm tin mà bỏ nhà xuất gia, sống không nhà, đều cùng một họ Sa môn Thích tử, đồng tu phạm hạnh, nếu không săn sóc lẫn nhau thì ai săn sóc?”

Đức Phật đã nhắc nhở đại chúng nên chăm sóc, quan tâm lẫn nhau như vậy nếu như trong Tăng đoàn có bất kỳ một ai bị đau bệnh, cần có sự săn sóc của người xung quanh. Không chỉ chỉ bằng khẩu giáo, chính Ngài cũng thực hiện điều này, làm thân giáo cho chúng Tăng noi theo.

Đức Phật, bậc vô lượng phước đức, trí tuệ; đáng để nhân thiên quy ngưỡng, kính về

Đức Thế Tôn Chánh đẳng Chánh giác sau khi thành đạo, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá Vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán, danh tiếng vang khắp mười phương, mọi loài đều xem Ngài như bậc tối thắng trong các bậc xứng đáng được cúng dường. Chúng sinh nào cầu phước đức, Ngài ban cho phước đức. Chúng sinh nào cầu trí tuệ, Ngài ban cho trí tuệ. Chúng sinh nào khổ não, Ngài làm cho an lạc. Ngài vì chư Thiên, nhân loại mà mở cửa cam lồ. 

Thế nên, 16 nước lớn tại cõi Thiên Trúc lúc bấy giờ không nước nào là không ngưỡng mộ phục tùng. Những ai tự thân chứng kiến được cách an trú của Phật thì đều hiểu rằng đó là cách an trú của chư Thiên, là cách an trú của Phạm Thiên, là cách an trú của Hiền Thánh, là cách an trú cao quý nhất, là cách an trú với trí tuệ tuyệt vời, được hòan toàn tự tại, vô ngại. Thế nên, Đức Như Lai an trú tại thành Xá Vệ.

Những người đồng hạnh với các ông bị đau ốm, các ông không săn sóc cho nhau thì ai săn sóc? Các ông mỗi người đều khác họ, khác nhà, vì niềm tin mà bỏ nhà xuất gia, sống không nhà, đều cùng một họ Sa môn Thích tử, đồng tu phạm hạnh, nếu không săn sóc lẫn nhau thì ai săn sóc?
Những người đồng hạnh với các ông bị đau ốm, các ông không săn sóc cho nhau thì ai săn sóc? Các ông mỗi người đều khác họ, khác nhà, vì niềm tin mà bỏ nhà xuất gia, sống không nhà, đều cùng một họ Sa môn Thích tử, đồng tu phạm hạnh, nếu không săn sóc lẫn nhau thì ai săn sóc?

Đức Phật và vị tỳ kheo đau bệnh

Thế rồi một hôm, Phật bảo A Nan:

– Ông hãy khóa cửa phòng lại rồi đi với ta, Như Lai muốn đi thăm viếng chỗ ở của chư Tăng.

A Nan đáp:

– Lành thay, bạch Thế Tôn!

Rồi thầy khóa cửa phòng lại đi theo sau Phật, Thế Tôn đi đến một căn phòng bị hư nát, thấy có một Tỷ kheo đang lâm bệnh, nằm trên phân tiểu, không thể đứng dậy nổi, Phật liền nói:

– Này Tỷ kheo! Bệnh tình của ông như thế nào? Cơn đau tăng hay giảm?

– Bạch Thế Tôn! Cơn đau chỉ có tăng chứ không giảm.

– Hôm nay có ăn được không?

– Dạ thưa không được, bạch Thế Tôn!

– Hôm qua ăn có được không?

– Dạ thưa không được, bạch Thế Tôn!

– Hôm kia ăn có được không?

– Cũng không được, bạch Thế Tôn! Con không được ăn nay đã 7 ngày.

– Có thức ăn mà không ăn được hay không có thức ăn nên không ăn?

– Không có thức ăn, bạch Thế Tôn!

– Ở đây có Hòa thượng của ông không?

– Không có, bạch Thế Tôn!

– Có các Hòa thượng khác không?

– Không có, bạch Thế Tôn!

– Có thầy Giáo thọ của ông không?

– Không có, bạch Thế Tôn!

– Có các thầy Giáo thọ khác không?

– Cũng không có, bạch Thế Tôn!

– Phòng bên cạnh không có Tỷ kheo nào sao?

– Bạch Thế Tôn! Vì con bị bệnh hôi thối, nên họ đã dời đi nơi khác, do  đó, con cô độc đau khổ lắm, bạch Thế Tôn! Con cô đơn lắm. Bạch Thiện Thệ!

– Ông đừng sầu não nữa, Ta sẽ giúp đỡ ông. Này Tỷ kheo! Hãy lấy y phục đưa đây, ta sẽ giặt cho.

Khi ấy, A Nan bạch với Phật:

– Bạch Thế Tôn! Y của Tỷ kheo bệnh để đó con giặt cho!

– Vậy ông giặt y đi, để Ta xối nước cho.

Đức Phật thăm vị tỷ kheo lâm bệnh - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Đức Phật không ngại dơ bẩn, giúp vị tỷ kheo bệnh lau rửa thân mình

Thế rồi, A Nan đem y của bệnh nhân ra giặt, còn Thế Tôn thì xối nước. Khi giặt xong, thầy đem đi phơi nắng, rồi thầy bồng Tỷ kheo bệnh đặt nằm trên một tấm ra ở chỗ đất trống, lau chùi phân uế, lại đem giường gối và các vật bất tịnh ra ngoài phòng, rưới nước trong phòng, quét dọn sạch sẽ, dùng khăn lau lau sàn nhà, giặt giũ giường nệm, vá lại ghế dây, rồi đem chúng đặt vào chỗ cũ. Tiếp đến, thầy tắm rửa cho Tỷ kheo bệnh sạch sẽ, rồi bồng thầy đặt nằm lại trên giường. Khi ấy, Thế Tôn  dùng bàn tay mềm mại, sắc vàng óng ánh được kết tinh bằng vô lượng công đức xoa trên trán Tỷ kheo, và hỏi:

– Cơn đau của ông tăng hay giảm?

– Bạch Thế Tôn, nhờ ơn Thế Tôn dùng bàn tay đặt trên trán con, nên mọi thống khổ đều tiêu tan hết.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn tùy thuận thuyết pháp khiến thầy sinh tâm hoan hỷ. Rồi Thế Tôn tiếp tục thuyết pháp làm cho thầy đạt được pháp nhãn thanh tịnh.

Sau khi Tỷ kheo khỏi bệnh, Thế Tôn bèn đi đến chỗ đông đủ các Tỷ kheo, trải tọa cụ ngồi, rồi đem sự việc trên trình bày lại đầy đủ với các Tỷ kheo. Đoạn, Ngài hỏi thầy Tỷ kheo ở phòng bên cạnh là ai, thì vị ấy đáp:

– Chính là con đây, bạch Thế Tôn!

Này các Tỷ kheo! Các ông hãy trở về săn sóc Tỷ kheo ở phòng mình cũng như phòng bên cạnh, nếu như người ấy lâm bệnh.
Này các Tỷ kheo! Các ông hãy trở về săn sóc Tỷ kheo ở phòng mình cũng như phòng bên cạnh, nếu như người ấy lâm bệnh.

Do vì thái độ thờ ơ của thầy đối với người bệnh, nhân cơ hội này, Phật muốn nhắc nhở các Tỷ kheo cần phải quan tâm giúp đỡ lẫn nhau nên ngài nói với Tỷ kheo:

– Này các Tỷ kheo! Những người đồng hạnh với các ông bị đau ốm, các ông không săn sóc cho nhau thì ai săn sóc? Các ông mỗi người đều khác họ, khác nhà, vì niềm tin mà bỏ nhà xuất gia, sống không nhà, đều cùng một họ Sa môn Thích tử, đồng tu phạm hạnh, nếu không săn sóc lẫn nhau thì ai săn sóc? Này các Tỷ kheo! Ví như các con sông Hằng, sông Diêu Phù Na, sông Tát La, sông Mê Hê chảy vào biển cả, liền mất tên cũ mà hòa chung thành một hợp thể, gọi là đại dương. Các ông cũng như vậy, ai nấy đều bỏ họ cũ mà cùng chung một họ mới là Sa môn Thích tử. Các ông không săn sóc cho nhau thì ai sẽ săn sóc? Ví như các chủng tộc Sát lợi, Bà la môn, Phệ xá, Thủ đà la, mỗi người đều khác họ, rồi cùng vượt đại dương đi kinh doanh trên thương trường thì được gọi là người đi buôn trên biển.

Cũng như thế đó, các Tỷ kheo, các ông mỗi người đều khác họ, khác nhà, vì niềm tin, bỏ nhà xuất gia, sống không nhà, đều cùng một họ là Sa môn Thích tử, nếu không săn sóc lẫn nhau thì ai săn sóc? Từ nay về sau, nếy Tỷ kheo bệnh thì Hòa thượng bổn sư phải săn sóc. Nếu không có Hòa thượng bổn sư thì các Hòa thượng khác phải săn sóc. Nếu ai không săn sóc thì phạm tội Việt tì ni. Nếu có thầy Giáo thọ thì thầy Giáo thọ phải săn sóc. Nếu ai không săn sóc thì phạm tội Việt tì ni. Nếu có người cùng phòng thì người cùng phòng phải săn sóc. Nếu không có người cùng phòng thì người ở phòng bên cạnh phải săn sóc. Nếu ai không săn sóc thì phạm tội Việt tì ni. Nếu như người ở phòng bên cạnh cũng không có thì Tăng phải sai người chăm sóc. Tùy theo người bệnh cần bao nhiêu người thì phải sai bấy nhiêu người lo việc nuôi bệnh. Nếu như không săn sóc thì tất cả chúng Tăng đều phạm tội Việt tì ni.

Này các Tỷ kheo! Các ông hãy trở về săn sóc Tỷ kheo ở phòng mình cũng như phòng bên cạnh, nếu như người ấy lâm bệnh.

Lời bàn

Câu chuyện trên là một trong nhiều lần Đức Phật đích thân chăm sóc cho những đệ tử của mình với tâm từ bi và lòng vị tha. Ngài dùng chính từng hành động, lời nói hằng ngày của mình làm bài học cho hàng đệ tử tại gia cũng như xuất gia. Những câu chuyện như vậy về Ngài là những lời nhắc nhở quý báu về lối sống, sự tu tập nên có của người con Phật. Chúng ta, dù là người xuất gia hay tại gia,đều tôn Đức Thích Ca là vị Thầy chỉ đường, đều lấy đạo quả Giác ngộ làm đích đến, cùng tu tập trong đoàn thể thanh tịnh, hòa hợp. Vì vậy, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau là đều cần thiết và nên làm để có thể vững bước tiến lên trên con đường giải thoát khỏi khổ sầu sanh tử. “Muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì đi cùng nhau”. Sự hiện diện, hỗ trợ của thiện hữu (người bạn thiện lành) đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tiến đạo của chúng ta.

Minh Chính (Sưu Tầm)

Giá trị to lớn của tùy hỷ công đức

Thế nào là tùy hỷ công đức ?

Tùy hỷ là vui theo, công đức là những điều lành, điều tốt, điều vui vẻ, hạnh phúc. Nghĩa là thấy ai có cái gì tốt, cái gì lành, cái gì hạnh phúc, chúng ta đều hoan hỷ phát tâm vui mừng như chính mình được và cố công giúp đỡ khiến họ được toàn vẹn. Hoặc thấy họ làm điều phước thiện, đạo đức chúng ta sẵn sàng ùa vào trợ giúp với một niềm hân hoan vô hạn. Vui cái vui của người, mừng thấy cái tốt của người. Cho đến không còn thấy họ là đối tượng khác biệt. Sự vui mừng ấy phá tan được cái cách biệt giữa ta và người. Chân thành hòa đồng trong tâm niệm hạnh phúc.

Giá trị to lớn của tùy hỷ công đức - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê

Công đức của sự tùy hỷ

Người phát tâm làm việc bố thí, chính họ đã khởi lòng từ bi và dứt tính bỏn xẻn, nếu họ không vì hoàn cảnh bắt buộc. Thấy người bố thí, ta phát tâm tùy hỷ trợ giúp, chính ta đã khởi tâm khuyến thiện và phá tan tính tật đố. Công đức của người phát lòng từ bi, dứt tính bỏn xẻn đem so với công đức của người khởi tâm khuyến thiện, dứt tính tật đố ngang nhau.

Lại, công đức y cứ tự tâm mà thành, nên cùng phát sanh trong một việc, mà công đức của người này không làm mòn giảm công đức của người kia. Vì thế, đức Phật ví dụ ngọn lửa của một cây đuốc dù đem trăm ngàn cây đuốc khác đến mồi, ngọn lửa ấy vẫn không bị giảm khuyết. Tuy cùng làm một việc, mà người phát tâm nhỏ hẹp thì công đức sẽ nhỏ hẹp, người phát tâm rộng lớn thì công đức rộng lớn. Công đức tùy tâm mà có rộng hẹp chớ không do của nhiều ít. Phật dạy: “Người phát tâm rộng lớn bố thí, của chỉ bằng hạt cải mà quả báo như núi Tu di. Ngược lại, người ôm lòng nhỏ hẹp bố thí, của bằng núi Tu di, công đức chỉ bằng hạt cải”. (Kinh Kim Cang)

Giá trị to lớn của tùy hỷ công đức - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Công đức y cứ tự tâm mà thành. Người tùy hỷ công đức cũng có phước báu như người làm việc thiện lành

Tùy hỷ giúp cho tâm được vui vẻ

Thấy người làm việc bố thí, chúng ta phát tâm tùy hỷ trợ giúp họ, tự nhiên người ấy sẽ hăng hái vui vẻ làm thêm. Họ càng thích làm bố thí thì những người quanh họ sẽ giảm nhiều phần đau khổ. Vậy ta đã giúp được hai bên bớt khổ thêm vui hiện tại và vị lai. Đó là chưa nói đến phần ích lợi của cá nhân ta. Chính khi ta tùy hỷ việc thiện của người, chắc chắn người đã có cảm tình với ta. Ta đã được công đức ngang bằng họ, lại được họ thương mến ta, thật là một việc làm “nhất cử mà tam lợi”.

Việc làm không tốn hao tài sản, sức lực gì bao nhiêu mà đem lại kết quả lớn lao như vậy, tại sao chúng ta không chịu làm ? Hẳn là tính tật đố, ganh tị đang ngự trị trong tâm tư chúng ta nên không cho phép ta làm. Lúc nào chúng còn làm chủ ta là lúc ấy ta mãi mãi khổ đau. Bởi chúng xây một bức tường ngăn cách giữa ta và mọi người. Chẳng những ngăn cách thôi, chúng còn tấn công mọi người chung quanh bằng mũi tên thù hận, để rồi ta và mọi người suốt đời mang nặng những vết thương đau khổ hận thù.

Ngược lại với tùy hỷ, tâm tật đố ganh ghét đem đến nhiều tai hại

Thấy người làm điều thiện, ta không phát tâm hoan hỷ, mà còn sanh tâm tật đố, khinh chê gièm siểm khiến người ấy – nếu không có tín tâm mãnh liệt, ý chí quả cảm – sẽ thối tâm không muốn làm điều thiện nữa, thế là ta đã ngăn trở điều thiện của người và gây ra thù hằn giữa ta và họ. Người ngăn trở điều thiện của kẻ khác quả là Ma-vương đội lốt người. Ta muốn ngăn trở điều tốt của kẻ khác để đề cao cái tốt của ta, kỳ thật ta đã nói lên với mọi người ta là Ma-vương, là quỉ sứ. Đâu ngờ, muốn làm thỏa mãn tánh ngạo mạn của ta, mà ta tự lao mình vào địa ngục A-tỳ.

Bạn bè, thân hữu gặp điều may, được việc tốt, ta tùy hỷ với họ là đẹp đẽ biết mấy. Chân thành chung vui với nhau thì tình thân hữu mỗi ngày được gắn bó, nối giây liên lạc giữa ta và người mỗi lúc mỗi siết chặt thêm vì ta và bạn đã hòa đồng trong tâm tưởng hoan hỷ, trong niềm hoan hỷ của nhau. Ranh giới cá nhân, tư hữu được xóa nhòa. Cuộc sống như vậy hạnh phúc biết bao.

Trái lại, thấy bạn có dịp may, được điều tốt, ta sanh tâm đố kỵ, khiến tình keo sơn phải bị rã rời. Biết bao người, khi bần cùng bè bạn thân nhau như cốt nhục, nhưng khi một người phát quan hoặc giàu có, một người nghèo khổ thì tình thân ấy tự nhiên ly tán. Phải chăng vì người giàu sang kia sanh tâm bạc bẽo ? Không hẳn thế. Lắm khi người giàu sang ấy vẫn hết tình chiều chuộng, mà không sao giữ được tình thân hữu ngày xưa. Ấy là do tính tự ái của kẻ nghèo không cho phép họ lân la với bạn. Nhất là khi những người ở trước mặt mình ca ngợi tài đức của người quen thuộc mình hoặc là bạn mình mà người ấy vắng mặt. Ở trường hợp đó, nếu ta vẫn giữ được vẻ mặt thản nhiên, không thốt một lời chỉ trích kẻ ấy, thật là điều rất khó. Vì thế, chúng ta nên nhớ mãi câu này “Ngồi nghe người khác khen ngợi bạn mình, mà không thay đổi nét mặt, thật là người can đảm”.

Bởi tánh tật đố ngã mạn không khi nào muốn nghe ai khen kẻ khác hơn là khen mình. Nếu người ta khen kẻ khác, tất nhiên mình tìm cách tấn công khiến kẻ ấy mất hết uy tín mới chịu.

Tình bạn, tình cốt nhục không phải do tiền của danh vọng mà có, tại sao vì tiền tài danh vọng, ta lại chia ly tình thân hữu ? Nếu vì giàu sang bạn ta thay đổi tình ý, ta xa họ đã đành. Nếu họ vẫn giữ trước sau như một thì ta đừng vì lý do đố kỵ sang hèn mà lẫn tránh họ. Ta nên mừng khi bạn ta được giàu sang, ta nên vui khi bạn ta được sung sướng, đó là tâm niệm tùy hỷ của con người đạo đức.

Tuy nhiên, chúng ta không vì thấy bạn giàu sang, giả tâm tùy hỷ để cầu cạnh van xin. Thái độ đó là thái độ của kẻ hèn hạ, chớ không phải của người thật tâm tùy hỷ.

Tâm tùy hỷ, đạo đức chân thật biến Ta-bà thành Cực lạc thanh lương

Lại một điều rất khó, đối với người thù địch của ta khi họ gặp dịp may, làm điều tốt, hay thành công trong một công việc gì, mà ta khởi tâm vui mừng cho họ. Người phát tâm tùy hỷ với kẻ thù địch mình, người ấy đã vượt lên trên tất cả, không còn mãnh lưới phiền não nào bao vây được họ.

Giá trị to lớn của tùy hỷ công đức - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Theo lời Đức Phật, hãy cố gắng gieo trồng thiện căn và tùy hỷ phước lành

Phát tâm tùy hỷ mọi việc vui của người, dĩ nhiên những điều đau khổ của người làm sao ta không thông cảm được ? Đã hòa đồng trong niềm vui thì trong cảnh khổ ta đã chia sớt nhau rồi. Vui khổ của mọi người coi như vui khổ của chúng ta.

“Chúng sanh thanh tịnh, Bồ-tát thanh tịnh. Chúng sanh nhiễm ô, Bồ-tát nhiễm ô”.

Bao giờ nhân loại tiến bộ được như vậy, thì cõi Ta-bà uế trược này đã trở thành cõi Cực-lạc thanh lương. Tìm đâu thấy sự phân chia riêng biệt giữa người này và kẻ khác. Làm gì có sự tranh đấu giữa giai cấp này với giai cấp nọ. Tất cả đồng ưu, cộng lạc. Đó mới là hạnh phúc thật sự của nhân loại, đạo đức như vậy mới chân thật đạo đức.

Trích “TÙY HỶ CÔNG ĐỨC”

H.T Thiền Sư Thích Thanh Từ

Đức Phật, nhà Đại Giáo dục

Chúng ta hãy tìm hiểu Đức Phật dạy cho nhân loại những gì, hay gần ta hơn, Đức Phật dạy chúng ta những gì khi Ngài đứng trên bình diện một nhà Đại Giáo dục hoán cải con người theo hướng Ngài muốn cho chúng sinh đi. Sau đây là ba bài học mà qua giáo lý của Ngài, chúng ta nên tiếp nhận và thực hành.

Can đảm tìm hiểu và đối diện với sự thật

Lời dạy đầu tiên của Ngài là muốn giáo dục con người, muốn cải thiện xã hội, phải có can đảm và sáng suốt tìm hiểu sự thật, sự thật tâm linh, sự thật trí thức và đạo đức, sự thật xã hội, dầu sự thật ấy có xấu xa không tốt đẹp, nhất định không che đậy tuyên truyền nịnh bợ, không dối mình gạt người. Vị lương y cần phải hiểu thực trạng của bệnh nhân mới mong chữa triệt gốc bệnh. Sự giáo dục con người chỉ hữu hiệu khi chúng ta thấy rõ thực trạng con người và xã hội, khi chúng ta biết tôn trọng sự thật. Đó là lý do Ngài dạy bốn sự thật trong bài thuyết pháp đầu tiên.

Ngài khuyên Đại đức La Hầu La chớ có nói dối dầu chỉ nói mà chơi. Nói một cách khác, đạo Phật không phải là đạo của người nói dối, của những người sợ sự thật. Hòa bình giả hiệu, đạo đức giả hiệu, bất bạo động giả hiệu, tự do công bằng giả hiệu, không có chân đứng trong đạo Phật.

Tất cả những nét chính yếu về hướng đi và phương pháp giáo dục của đạo Phật vừa đề cập cho chúng ta thấy rõ lời dạy của đạo Phật nhằm một mục đích duy nhất là làm phát triển những khả năng tốt đẹp của con người.
Tất cả những nét chính yếu về hướng đi và phương pháp giáo dục của đạo Phật vừa đề cập cho chúng ta thấy rõ lời dạy của đạo Phật nhằm một mục đích duy nhất là làm phát triển những khả năng tốt đẹp của con người.

Con người cần quan tâm phát triển cả về mặt vật chất lẫn tâm linh

Lời dạy thứ hai của Ngài là con người là nơi tập trung của hai năng lực: Vật chất và tâm linh, Rùpa và Nàma, sắc pháp và tâm pháp. Nói con người là duy vật, tất phủ nhận năng lực tâm linh. Nói con người là duy tâm, tất bỏ quên sức mạnh vật chất. Một nền giáo dục hữu hiệu, phải là một nền giáo dục toàn diện, cả thân lẫn tâm, cả sắc pháp lẫn tâm pháp. Giáo dục theo đạo Phật gồm có Giới học, Định học và Tuệ học. Giới học là huấn luyện sắc thân con người, thúc liễm hành động con người để khỏi phải bị hoàn cảnh chi phối, khỏi bị ngoại duyên làm dao động. Định học là huấn luyện tâm linh con người, tập trung sức mạnh tâm linh trên đối tượng để sử dụng và phát huy định lực con người. Tuệ học là trực giác về bản chất của sự vật đưa đến sự giải thoát hoàn toàn của tâm linh, đến sự thực chứng chân lý tối hậu.

Theo tinh thần kinh Dhammacetiya trong bộMajjhima Nikàya, chúng ta thấy rõ những người đầu bù tóc rối, áo quần xốc xếch, xanh xao đau yếu, gắt gỏng ồn ào, những người ấy theo ngoại đạo tà giáo hơn là theo Phật giáo. Vì Đức Phật dạy chúng ta đối trị cả hai – tâm bệnh và thân bệnh – và người Phật tử đúng theo nghĩa chân chính của nó phải là người lành mạnh về thể xác cũng như về tinh thần. Những tâm hồn bệnh hoạn, những tư tưởng hắc ám, những người lập dị, những quái thai của thời đại, không có chân đứng trong Phật giáo.

Điều chỉnh thái độ của bản thân trước những đối tượng hoàn cảnh

Lời dạy thứ ba của đạo Phật là vấn đề giáo dục con người không phải là vấn đề thuần đạo đức hay thiện ác như thường bị hiểu lầm. Đức Phật tìm hiểu sự phản ứng của con người trước những đối tượng ngoại cảnh như sắc, thanh, hương, vị, xúc… Một sinh viên đứng trước sắc đẹp của một nữ sinh mà tâm hồn như mê dại, chứng tỏ sinh viên ấy bị chi phối, bị nô lệ bởi sắc đẹp. Một nữ sinh chỉ nghe nói me chua mà chảy nước miếng phải bỏ học đi mua ô mai ngậm cho đỡ thèm, nữ sinh ấy bị chi phối bởi vị chua, còn bị nô lệ bởi ngoại cảnh.

Dưới con mắt của đạo Phật, giá trị hay mức độ giải thoát của con người tùy thuộc phản ứng con người trước ngoại cảnh. Và giáo dục đạo Phật ở nơi đây nhằm huấn luyện con người ra khỏi sự chi phối hay đúng hơn khỏi sự nô lệ của sự vật. Đạo Phật không bao giờ chủ trương dùng sắc đẹp, tiền bạc, danh lợi và dọa nạt để chi phối và nô lệ hóa con người, dụ người vào đạo Phật. Đạo Phật chống lại mọi hình thức nô lệ, dầu là nô lệ tâm inh hay thần quyền. Chỉ những người, những chủ nghĩa ưa bị nô lệ hay ưa nô lệ hóa con người mới không ưa đạo Phật.

“Các ngươi hãy cố gắng tự mình tinh tấn lên, Đức Như Lai chỉ là một người chỉ đường”, “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”, “Sự chiến thắng vĩ đại nhất là sự chiến thắng tự thân”, là những lời dạy nói lên sự tin tưởng của Đức Phật ở giá trị và khả năng của con người, và một nền giáo dục chân chính phải là một nền giáo dục nhắm đến sự hướng thượng của con người.
“Các ngươi hãy cố gắng tự mình tinh tấn lên, Đức Như Lai chỉ là một người chỉ đường”, “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”, “Sự chiến thắng vĩ đại nhất là sự chiến thắng tự thân”, là những lời dạy nói lên sự tin tưởng của Đức Phật ở giá trị và khả năng của con người, và một nền giáo dục chân chính phải là một nền giáo dục nhắm đến sự hướng thượng của con người.

Đứng trước vấn đề thiện ác, Đức Phật không xem là một vấn đề thuần luân lý mà phải là vấn đề hiểu biết, nhận thức, một vấn đề lý tính. Theo đạo Phật, tham không nên hiểu theo nghĩa luân lý mà phải hiểu như một phản ứng của thân tâm trước sự vật mình ham thích. Phản ứng ấy tức là ôm vào cho mình những vật gì mình ưa thích. Sân cũng vậy, sân là phản ứng vứt xa tự thân những vật gì mình không ưa thích. Và sở dĩ có tham, có sân, vì hiểu lầm rằng có một cái ngã, cái Ta. Cái gì cái ta ưa thích thì tìm mọi cách đem về cho mình, cái gì cái ta ghét bỏ thì tìm mọi cách vứt xa chúng ra. Vì vậy vấn đề thiện ác ở đây không còn là một vấn đề luân lý mà chỉ là một vấn đề hiểu lầm, một vấn đề si mê. Nói một cách khác, chỉ người ngu mới tham và có sân. Theo A Tỳ Đàm học, si (moha) bao giờ cũng đi với tham (lobha), si (moha) bao giờ cũng đi với sân (dosa)…

Và sự giáo dục theo quan niệm đạo Phật chính là một vấn đề trí thức, hay nói cho đúng hơn, một thái độ trí thức, không chấp nhận có cái ngã, cái Ta đến nỗi hoàn toàn bị nô lệ bởi cái ngã, cái Ta ấy. Trong kinh Brahmajàla, có một câu khiến chúng ta phải giật mình. Đức Phật dạy: “Người ngu tán thán giới đức của Ta, chỉ có người trí mới tán thán trí đức của Ta”. Cho nên đạo Phật thường được gọi là đạo trí thức và những người không ưa đạo Phật phần lớn là người ngu, hay ưa ngu, hay các chánh sách, chủ nghĩa ngu dân và cuồng tín.

Thái độ trí thức ấy khiến Đức Phật giới thiệu một khía cạnh giáo dục thật rất đặc biệt, đó là sự hướng dẫn cá nhân tự mình có một thái độ do tự mình suy tư kinh nghiệm và quyết định, hơn là nhắm mắt theo Đức Phật hay lời Phật dạy.

Khi các người Kàlàma đến hỏi Đức Phật nên tin lời dạy của các vị ẩn sĩ Bà-la-môn nào khi những vị này tán thán giáo lý của mình và bài xích giáo lý của kẻ khác, Đức Phật  khuyên không nên vội vã, thụ động hay cảm tình tin theo giáo lý nào. Đức Phật dạy các người Kàlàma hãy tự mình suy tư chín chắn, sáng suốt và trầm tĩnh, dựa trên kinh nghiệm bản thân để đánh giá những lời dạy của các ẩn sĩ Bà-la-môn.

Đức Phật, nhà Đại Giáo dục - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Hãy tự mình suy tư chín chắn, sáng suốt và trầm tĩnh, dựa trên kinh nghiệm bản thân để đánh giá những lời dạy của Đức Phật

Cũng với thái độ trên, Đức Phật  từ chối không tự xem mình là vị lãnh đạo tối cao của giáo đoàn Tăng già và không muốn dùng địa vị, oai lực và trí đức của mình để biến các đệ tử thành những bầy cừu non dễ dạy dễ bảo. Nói một cách khác, đạo Phật chống lại đường hướng giáo dục đào tạo con người thành những con vật máy móc bảo sao nghe vậy, những con người điện tử. Đạo Phật cũng không tán thành một lối giáo dục nô dịch quần chúng, biến con người thành những máy móc của quần chúng bị giựt dây. Cho nên, những Phật tử thật sự độc tài, muốn làm mưa làm gió trong Giáo hội, thật chưa hiểu đến a, b, c của đạo Phật, chớ đừng nói hiểu đạo Phật.

Lời kết

Tất cả những nét chính yếu về hướng đi và phương pháp giáo dục của đạo Phật vừa đề cập cho chúng ta thấy rõ lời dạy của đạo Phật nhằm một mục đích duy nhất là làm phát triển những khả năng tốt đẹp của con người. Giáo dục của đạo Phật tôn trọng sự thật, chữa trị thân bệnh và tâm bệnh, chống đối mọi hình thức nô lệ, phát huy thái độ trí thức với chủ đích nâng cao giá trị của con người. Và thái độ nâng cao giá trị con người ấy được thể hiện một cách hùng hồn nhất khi Đức Phật dạy chỉ có con người mới giáo dục cho chính mình, chỉ có con người mới giải thoát cho mình, Đức Phật chỉ đóng vai trò một người chỉ đường. “Các ngươi hãy cố gắng tự mình tinh tấn lên, Đức Như Lai chỉ là một người chỉ đường”, “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”, “Sự chiến thắng vĩ đại nhất là sự chiến thắng tự thân”, là những lời dạy nói lên sự tin tưởng của Đức Phật ở giá trị và khả năng của con người, và một nền giáo dục chân chính phải là một nền giáo dục nhắm đến sự hướng thượng của con người.

Trích Sách “Đức Phật nhà đại giáo dục”

Bồ Tát vốn dĩ là chúng sanh

Bồ tát nghĩa là gì?

Bồ Tát là nửa tiếng Phạn, đầy đủ là “bồ đề tát đỏa”. Bồ đề dịch là “giác”, tát đỏa dịch là “hữu tình”. Tức cũng là giác hữu tình, còn gọi là hữu tình giác, ý nghĩa giống nhau, chẳng có khác biệt.

Gì gọi là ‘’giác hữu tình‘’? Tức là dùng đạo lý mà mình giác ngộ, phương pháp mà mình minh bạch, để giác ngộ mười phương tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được sự giác ngộ. Ðây là tư tưởng tự giác giác tha của Bồ Tát.

Gì gọi là ‘’hữu tình giác‘’? Bồ Tát vốn cũng là chúng sinh, vì tu lục độ vạn hạnh, cho nên thành Bồ Tát, đó là một bậc giác ngộ trong hữu tình. Chẳng những Bồ Tát là chúng sinh, mà chư Phật cũng do chúng sinh giác ngộ mà thành Phật. Cho nên Đức Phật dạy: “ ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.

Bồ Tát vốn dĩ là chúng sanh - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Chúng ta cũng có thể thành Phật, Bồ Tát nếu như tinh tấn tu tập, hướng đến quả vị giác ngộ

Tại sao ta lại chưa thành Bồ Tát ?

Phàm là có tri giác, có khí huyết, đều là chúng sinh, là chúng duyên hòa hợp mà sinh. Phật Bồ Tát trong quá khứ, đều giống như chúng ta chúng sinh, bất quá Phật Bồ Tát siêng tu lục độ vạn hạnh, cho nên thành Phật thành Bồ Tát; còn chúng ta lười biếng, chẳng chịu tu hành, cho nên vẫn là chúng sinh.

Tuy nhiên hiện tại chúng ta tu hành, nhưng chẳng tinh tấn, giống như phát nguyện tu hành, đợi ngày mai mới tu, ngày mai lại đợi ngày mai. Một ngày rồi một ngày, đợi đến già rồi cũng chẳng tu hành, cũng chẳng thành tựu. Có người nói, tôi tuổi còn trẻ, đợi tôi lớn tuổi mới tu. Song, sau khi lớn tuổi thì bị lưới thế gian ràng buộc, chẳng chịu tu hành. Ðến tuổi già thì càng chẳng có thời gian để tu hành. Ðợi đến lúc chết thì càng không thể tu hành, là vì có tư tưởng như thế, từ vô lượng kiếp đến nay, chẳng phát tâm bồ đề, chẳng hành đạo Bồ Tát, chẳng tu lục độ vạn hạnh, thì làm sao liễu sinh thoát tử ? Do đó mà sinh sinh tử tử, lưu chuyển không ngừng ở trong luân hồi. Nếu chúng ta chẳng lười biếng, giống như chư Phật, Bồ Tát, A la hán, dũng mãnh tinh tấn, thì sớm sẽ thành Phật thành Bồ Tát thành La Hán, mà trở thành bậc giác ngộ trong hữu tình.

Tư tưởng của Bồ Tát với tư tưởng của chúng sinh đều trái ngược nhau. Chúng sinh nghĩ ích kỷ, Bồ Tát thì nghĩ lợi người.
Tư tưởng của Bồ Tát với tư tưởng của chúng sinh đều trái ngược nhau. Chúng sinh nghĩ ích kỷ, Bồ Tát thì nghĩ lợi người.

Đại đạo tâm của Bồ Tát

Bồ Tát còn dịch là “đại đạo tâm”, vì tâm đạo đặc biệt lớn, chẳng sợ mọi sự khổ, chẳng sợ mọi sự khó, tinh tấn tu Phật pháp, hết mình hành đạo Bồ Tát. Còn gọi là Ðại Sĩ, là đại trượng phu. Do đó ‘’Nam Hải Ðại Sĩ,’’ tức là biệt danh của Bồ Tát Quán Thế Âm; còn gọi là Khai Sĩ, chẳng có ích kỷ, tướng ta, thấy cái ta, chẳng đố kỵ người khác, cũng chẳng chướng ngại người khác.

Bồ Tát xa lìa hết thảy vọng tưởng của chúng sinh. Những gì chúng sinh nghĩ, đều là vì mình mà tính toán, để làm thế nào mình được lợi ích. Hết thảy vọng tưởng của Bồ Tát, đều nghĩ ta muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, ta muốn giáo hóa tất cả chúng sinh, ta muốn cứu độ tất cả chúng sinh, đó là tư tưởng của Bồ Tát xả mình vì người.

Bồ Tát vốn dĩ là chúng sanh - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Với tâm vị tha vô lượng, Bồ Tát thực hành hạnh cứu khổ độ sanh không ngừng nghỉ, vì lợi ích của chúng sanh

Tư tưởng của Bồ Tát với tư tưởng của chúng sinh đều trái ngược nhau. Chúng sinh nghĩ ích kỷ, Bồ Tát thì nghĩ lợi người. Có người nói: ‘’Tôi hiện tại hành đạo Bồ Tát, tôi cũng là Bồ Tát.’’ Không sai, bạn là Bồ Tát, song là Bồ Tát mới phát tâm, chứ chẳng phải là lão Bồ Tát. Lão Bồ Tát là từ vô lượng kiếp đến nay tu lục độ vạn hạnh. Bạn vừa mới bước đi trên con đường Bồ Tát, là mới phát tâm Bồ Tát mà thôi. Do đó có câu:

‘’Ngư tử nại ma la

Bồ Tát ban đầu phát tâm

Tam sự nhân trung đa

Như kỳ kết quả thiểu.’’

Nghĩa là: Cá tuy đẻ trứng rất nhiều, nhưng thành cá thì rất ít. Cây nại ma la nở hoa rất nhiều, nhưng kết trái thì rất ít. Bồ Tát mới phát tâm, chẳng biết là bao nhiêu? Do đó: ‘’Phát tâm thì dễ, mãn nguyện thì khó.’’ Chân chánh hành đạo Bồ Tát, thành tựu quả Bồ Tát thì rất ít. Ba việc này tại nhân địa rất là nhiều, tại quả địa rất là ít. Tuy chúng ta là Bồ Tát mới phát tâm, thì nên phát tâm Bồ Tát vĩnh viễn, đừng phát tâm Bồ Tát năm phút, qua năm phút rồi, thì thối thất tâm Bồ Tát, điểm này rất quan trọng, hy vọng mọi người chú ý, phải có trước có sau, quán triệt thủy chung.

Hòa thượng Tuyên Hóa

Hạnh Nguyện Quán Âm

Với sự hưng thịnh và phát triển của Đại thừa Phật giáo, giáo lý cứu khổ của đức Phật đã được truyền bá một cách rộng rãi và thể nhập vào cuộc đời, cống hiến cho đời những tinh hoa triết lý, những hạnh nguyện cao đẹp, giúp con người thăng hoa trong cuộc sống và từ bỏ những hận thù, khổ đau để tìm về với suối nguồn giải thoát. Tiêu biểu cho những tinh hoa triết lý hay hạnh nguyện cao cả ấy là hạnh nguyện Quán Âm, đấy cũng chính là những hạnh nguyện, những lý tưởng cao đẹp của người con Phật. Từ ngàn xưa, thuở giáo lý Đại thừa bắt đầu hưng thịnh và phát triển, hình ảnh cũng như hạnh nguyện Quán Âm đã tỏa sáng, chinh phục khối óc và con tim của người con Phật khắp mọi nơi dưới vòm trời Á Đông: từ thung lũng Kashmir phồn thịnh, hay những ốc đảo hoang vắng của xứ Ấn trầm hùng cho đến cung điện Potala ngàn năm tuyết phủ của Tây Tạng huyền bí; từ Phổ Đà Sơn vang vọng triều âm của Trung Hoa rộng lớn cho đến hải đảo Fudaraku của xứ Phù Tang rợp bóng Anh Đào. Ngày nay, hình ảnh và hạnh nguyện ấy đã vượt trùng dương, vươn khỏi vòm trời Á Đông để được kính ngưỡng và tôn thờ khắp nơi trên thế giới.

Hạnh Nguyện Quán Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê

Hạnh nguyện Quán Âm là gì?

Hạnh nguyện Quán Âm, nếu nói đủ là hạnh nguyện của đức Bồ-tát Quán Thế Âm. Danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm là tên gọi của từ Hán Việt, được dịch từ tiếng Phạn là Bodhisattva Avalokiteśvara. Bodhisattva là danh từ kép của hai từ Bodhi và Sattva. Bodhi là Bồ-đề, tức là giác ngộ. Sattva là hữu tình, tức là chúng sanh. Do vậy, Bodhisattva thường được hiểu là một chúng sanh đã giác ngộ, rồi đem sự giác ngộ ấy hướng dẫn những chúng sanh khác để họ được giác ngộ như mình. Avalokiteśvara thường được dịch là: Quán Âm, Quán Thế Âm, Quán Tự Tại, Quán Thế Tự Tại, Hiện Âm Thanh, v.v… trong các danh hiệu ấy, danh hiệu Quán Thế Âm được dùng phổ biến nhất.
Như vậy, Quán Thế Âm Bồ-tát là vị Bồ-tát luôn lắng nghe âm thanh của thế gian, lắng nghe tiếng kêu tha thiết từ tâm khảm của chúng sanh đang chịu nhiều khổ đau trong trần thế để hiện thân cứu độ họ thoát khỏi mọi khổ đau.

Hạnh Nguyện Quán Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê

Trong tất cả các vị Bồ-tát, Bồ-tát Quán Thế Âm là một vị Bồ-tát rất đặc biệt, bởi Ngài không phải là vị Bồ-tát bình thường, mà Ngài đã thành Phật từ vô lượng kiếp. Trong kinh Bi hoa cũng như kinh Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi đều dạy rằng: Bồ-tát Quán Thế Âm đã thành Phật từ vô lượng kiếp với danh hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì hạnh nguyện cao cả của lòng đại từ, đại bi mà Ngài đã thị hiện ở địa vị Bồ-tát để cứu khổ chúng sanh.

Hạnh lắng nghe của Bồ Tát Quán Âm

Khi học qua cuộc đời và công hạnh của Bồ-tát Quán Âm, chúng ta sẽ hiểu được rằng hạnh nguyện đầu tiên của Ngài là hạnh lắng nghe. Kinh điển Đại thừa có mô tả rất nhiều về danh hiệu và hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Âm, nhưng chỉ có kinh Lăng Nghiêm là mô tả công hạnh tu tập và sự chứng ngộ của Ngài một cách cụ thể nhất. Trong kinh Lăng nghiêm trực chỉ, Bồ-tát Quán Thế Âm đã trình bày sở chứng của mình với đức Phật và các vị Thánh đệ tử như sau: “Tôi nhớ là hà sa số kiếp về trước, có một vị Phật hiệu là Quán Thế Âm; vị Phật đó dạy tôi muốn vào chánh định thì phải theo nghe-nghĩ-tu (văn-tư-tu). Từ trong nghe, khi trở về tự tánh thì sở duyên biến mất và con đường vào trở nên vắng lặng (sở không có, năng không có chỗ duyên, nên năng vẫn không hiện hữu, ở trong tự tánh vắng lặng). Hai tướng động và tịnh không sinh. Từ từ mà tiến lên như vậy, thì nghe và đối tượng bị nghe đều hết. Nghe đã hết không trụ, thì giác và đối tượng của bị giác đều không khi không giác đã tròn đầy, thì không và đối tượng không đều diệt. Khi sinh và diệt đã mất, thời cảnh tịch diệt hiện ra trước mắt.” 
Hạnh lắng nghe thì ai cũng thực tập được, nhưng để đạt được hạnh nguyện như ngài Quán Thế Âm thì chẳng khác nào đóa Đàm hoa muôn vạn năm mới xuất hiện một lần. Tiến trình tu tập của người con Phật luôn bắt đầu bằng hạnh lắng nghe (văn), rồi đến tư duy (tư), sau đó mới hành trì (tu). Ngài Quán Thế Âm cũng tu tập theo tiến trình ấy, nhưng công hạnh tu tập của Ngài thật cao siêu và thâm áo. Công hạnh ấy vượt lên trên cả hàng Thanh văn và Duyên giác, đó là an trú trong tam muội để chuyển dụng khả năng nghe những thinh trần bên ngoài và trở lại lắng nghe bản thể thanh tịnh tâm của chính mình. Với trí tuệ thâm áo đó, Ngài dứt trừ mọi hình tướng năng, sở của các tướng sanh diệt đối đãi, nhị nguyên, người nghe và âm thanh cũng không còn hiện khởi. Chính trong trạng thái nhất như ấy, tâm Ngài trở nên vắng lặng và sáng suốt, trên thì dung thông với oai lực của chư Phật, dưới thì thấu cảm đến tâm niệm khổ đau của chúng sanh, để ứng thân cứu độ.
Trong Tâm kinh Bát-nhã, đức Phật cũng thuyết minh về công hạnh tu tập của đức Bồ-tát này: “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã-ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách…”. Qua sự quán chiếu về ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) bằng trí tuệ siêu việt, Ngài đã trực nhận được thực tướng và tánh của vạn pháp đều là không, hay tánh không của vạn pháp. Nhờ sự quán sát ấy, Ngài đã vượt qua mọi sự khổ ách. Với trí tuệ siêu việt, Ngài không còn thấy sự tách biệt giữa mình và chúng sanh, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập. Từ đó, Ngài hiểu thấu được những tâm tư và nguyện vọng của chúng sanh và dắt dẫn họ vượt qua những khổ đau tai ách trong cuộc đời. Đây chính là bản tâm tự tại, tâm vô quái ngại của Bồ-tát Quán Âm.

Hạnh Nguyện Quán Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê

Công hạnh tu tập lắng nghe và quán chiếu của đức Quán Âm đã thành tựu sở chứng mà các kinh điển thường gọi là “Nhĩ căn viên thông”. Với sở chứng ấy, Ngài đã lấy âm thanh làm tiêu đích trong việc cứu khổ cứu nạn cho tất cả chúng sanh. Từ đó danh hiệu của Ngài được mọi người xưng tán là: Nam mô Đại từ Đại bi Tầm thinh Cứu khổ Cứu nạn Linh cảm Quán Thế Âm Bồ-tát.
Hạnh lắng nghe là một công hạnh tu tập vi diệu như thế. Trong cuộc sống hằng ngày, đôi khi, chúng ta chỉ cần lắng nghe những nỗi khổ niềm đau của những người quanh mình thì đã làm vơi đi nỗi khổ trong tâm họ rồi, huống gì công hạnh cao cả của đức Quán Âm. Một trong những vị Thiền sư nổi tiếng nhất hiện nay là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, những bài pháp của ngài đã cảm hóa được hàng triệu người trên thế giới có thể được cô đọng trong hai từ “hiểu và thương”. Ngài thường dạy rằng, chỉ cần giữ tâm chánh niệm và lắng nghe thôi, chúng ta sẽ giúp được nhiều người vơi bớt những nỗi khổ niềm đau đã chất chứa hàng chục năm trong tâm họ.

Công hạnh tu tập của các vị Bồ-tát cũng xuất phát từ trong vô lượng kiếp, sau khi thành tựu, các Ngài mới ứng thân để cứu khổ độ sanh. Tinh thần siêu việt của Đại thừa phải bắt nguồn từ sự tu tập vững chãi như thế. Trong trào lưu của cuộc sống hiện nay, rất nhiều vị xuất gia chưa có năng lực tu tập vững chãi, lại dấn thân vào đời gọi là cứu độ chúng sanh, nhưng vô tình bị chúng sanh ‘độ’ lại. Tinh thần siêu việt của Đại thừa vô tu, vô chứng, vô sở chấp, vô sở cầu… đã bị những người có tâm giải đãi, trong tâm còn nhiều phiền não, xan tham… nhưng không chịu chọn cho mình một đường hướng tu tập vững chãi, lại mượn tâm niệm ‘độ sanh’, ‘độ tử’ rồi cứ dấn thân vào đời, từ đó làm cho hình ảnh của lý tưởng Đại thừa bị lu mờ, nếu không nói là mai một. Trong kinh Hoa nghiêm, đức Phật cũng dạy rằng: “Quên mất tâm Bồ-đề mà làm các việc thiện, đó là việc làm của ma vương”. Học theo hạnh nguyện Quán Âm, chúng ta phải lắng nghe tự tánh chơn tâm của chính mình. Tiến trình ấy phải bắt đầu bằng sự lắng nghe, rồi tư duy, sau đó dụng công tu tập. Hàng phàm phu như chúng ta chưa thể nào khởi sự tu tập bằng cách lắng nghe tự tánh thanh tịnh tâm được, mà phải lắng nghe và suy tư về những giáo pháp căn bản trong kinh, luật, luận; sau đó mới dần tiến lên lắng nghe những giáo pháp cao siêu để tư duy và hành trì. Có như thế chúng ta mới dần dần tiếp cận được hạnh nguyện lắng nghe bản thể tự tánh, Như lai tạng tâm của chính mình.

Với tấm lòng đại từ đại bi, Bồ Tát Quán Âm hiện ra các ứng hóa thân để cứu độ chúng sanh

Hạnh Nguyện Quán Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê

Nếu kinh Lăng nghiêm thuyết minh về tiến trình tu tập của Bồ-tát Quán Âm, đấy là nhân hạnh tu tập chính bản tâm của mình, thì kinh Pháp Hoa thuyết minh về quả đức của Bồ-tát Quán Âm. Tức là, sau khi tu tập thành tựu viên mãn, chứng đắc “nhĩ căn viên thông”, với lòng bi ngưỡng, hạnh nguyện cứu đời, Ngài đã thị hiện ra các ứng thân để tùy duyên cứu độ. Theo kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn, đức Quán Âm đã thị hiện ra 31 ứng hóa thân là: “1. Thân Phật; 2. Thân Duyên Giác;3. Thân Thanh Văn; 4. Thân Phạm Vương; 5. Thân Đế-Thích; 6. Thân Tự Tại Thiên; 7. Thân Đại Tự Tại Thiên; 8. Thân Thiên Đại Tướng quân; 9. Thân Tỳ-sa-môn; 10. Thân Tiểu vương; 11. Thân Trưởng giả; 12. Thân Cư sĩ; 13. Thân Tể quan; 14. Thân Bà-la-môn; 15. Thân Tỷ-kheo; 16. Thân Tỷ-kheo-ni; 17. Thân Ưu-bà-tắc; 18. Thân Ưu-bà-di; 19. Thân phụ nữ của trưởng giả; 20. Thân Đồng nam; 21. Thân Đồng nữ; 22. Thân trời; 23. Thân Rồng; 24. Thân Dược-xoa; 25. Thân Càn-thát-bà; 26. Thân A-tu-la; 27. Thân Khẩn-na-la; 28. Thân Ma-hầu-la-già; 29. Thân Người; 30. Thân Phi nhân; 31. Thân Thần Cầm Kim Cương.”
Với hạnh nguyện đại từ bi, Quán Âm Bồ-tát đã quán sát tiếng kêu thống khổ của chúng sanh trong đời Ngũ trược, tuỳ căn cơ của chúng sanh mà Ngài ứng thân thích hợp để cứu độ. Có khi hạnh nguyện ấy thị hiện như những nhân vật huyền thoại, nhân vật lịch sử ngay trong cuộc sống đời thường. Chính vì thế mà văn học, sử truyện đã kể lại cho chúng ta những hoá thân từ Quán Âm Bồ-tát như: Quán Âm Diệu Thiện, Quán Âm Thị Kính, Quán Âm Linh Ứng, v.v…
Hạnh nguyện đại từ, đại bi của Ngài cũng được mô tả trong kinh Vô lượng thọ như là một nguồn năng lượng chói sáng, xóa tan bóng tối của vòng đối đãi, nhị nguyên, để lắng nghe những tiếng kêu thống thiết của chúng sanh giữa dòng đời oan nghiệt và ứng thân cứu độ họ thoát khỏi mọi ách nạn. Tuy cảnh giới cứu độ của Ngài là cõi Ta-bà, nhưng tùy theo tâm nguyện chí thành của chúng sanh mà Ngài có thể tiếp dẫn họ về cõi Tây phương Cực lạc thanh nhàn.

Hạnh nguyện Vô úy

Hạnh Nguyện Quán Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê

Bên cạnh các hạnh nguyện cao quí trên, đức Quán Âm Bồ-tát còn có hạnh nguyện Vô úy. Hạnh vô uý là hạnh không sợ hãi bất kì hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm nào, đó còn gọi là tâm Vô quái ngại hay là hạnh Tự tại của Ngài. Bởi vậy mà ngài Huyền Trang khi dịch các kinh điển thường dịch tên Ngài là Quán Tự Tại, mở đầu Tâm kinh Bát-nhã, ngài Huyền Trang dịch: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát-nhã ba-la- mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách…” Bằng trí tuệ Bát nhã siêu việt, đức Quán Âm đã quán chiếu vạn pháp giai không (śunyata). Với sự thể nhập tánh không của vạn pháp, cùng với nguyện lực đại từ bi, công hạnh vô úy, Ngài đã ứng thân dẫn dắt chúng sanh vượt qua mọi tai ương khổ ách trong cuộc đời, đấy chính là năng lực tự tại, là tâm vô quái ngại của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Hạnh nguyện vô úy của đức Quán Âm là một công hạnh cao quí, chúng sanh trong cõi Ta-bà nhờ hạnh nguyện này của Ngài mà được cứu thoát khỏi những hiểm nạn nguy khốn nhất. Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn, đức Phật nói với Bồ-tát Vô Tận Ý: “Quán Thế Âm Bồ-tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban cho sự vô uý, cho nên cõi Ta-bà này đều gọi Ngài là vị Thí Vô Uý.”
Phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, cũng như kinh Lăng Nghiêm Trực Chỉ đều mô tả 14 năng lực Vô úy của Bồ-tát Quán Âm: 1. Chúng sinh khổ não trong 10 phương thành kính niệm danh hiệu Ngài, liền được giải thoát; 2. Chúng sinh gặp lửa dữ…, lửa không thể thiêu đốt; 3. Chúng sinh bị nước cuốn trôi…, nước không thể nhận chìm; 4. Chúng sinh vào xứ ác quỉ…, ác quỉ không thể làm hại; 5. Chúng sinh gặp đao trượng…, đao trượng liền gãy; 6. Chúng sinh gặp ác quỉ, ác thần…, thì chúng không trông thấy; 7. Chúng sinh bị gông cùm, xiềng xích…, thì xiềng xích được tháo ra; 8. Chúng sinh khi vào đường nguy hiểm…, giặc cướp không thể cướp đoạt; 9. Chúng sinh tham dục…, liền dứt khỏi tham dục; 10. Chúng sinh nóng giận…, liền dứt hết nóng giận; 11. Chúng sinh mê ám…, liền dứt hết mê ám; 12. Chúng sinh muốn cầu con trai…, liền được con trai; 13. Chúng sinh muốn cầu con gái…, liền được con gái; 14. Chúng sinh niệm danh hiệu Quan Âm thì được lợi ích bằng niệm tất cả các danh hiệu khác.

Hạnh Nguyện Quán Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Long Đầu Quán Âm, hóa thân Bồ Tát thực hành hạnh gieo rắc tình thương, ban sự vô úy cho chúng sanh

Quán Âm, Đức Bồ Tát biểu trưng cho tinh thần từ bi cứu khổ của Đạo Phật

Hạnh Nguyện Quán Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê

Quán Âm Bồ-tát có rất nhiều hạnh nguyện cao cả, những hạnh nguyện ấy đã được chính đức Phật và chư Thánh đệ tử ngợi khen trong hầu hết các kinh điển Đại thừa. Những hạnh nguyện ấy luôn là những hạnh nguyện cao đẹp mà người con Phật hướng về. Đạo Phật là đạo từ bi cứu khổ, mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu và tuyệt vời nhất có lẽ là hình ảnh của đức Bồ-tát Quán Âm. Với tâm đại từ bi, hạnh nguyện vô uý, cùng với hạnh lắng nghe tầm thinh cứu khổ nạn cho chúng sanh khổ đau giữa cuộc đời oan nghiệt, Quán Âm Bồ-tát đã trở thành biểu tượng bất diệt trong tâm khảm của mọi chúng sanh. Qua tâm niệm độ sanh cứu khổ, qua những hạnh nguyện cao cả tuyệt vời đã cho chúng ta hiểu được vì sao hình tượng của Quán Âm Bồ-tát được mọi người con Phật kính ngưỡng phụng thờ khắp mọi nơi trên thế giới.

Delhi, Ấn Độ 2007
TK. Thích Quảng Phước

Địa ngục, quan điểm nên có của người con Phật

Địa ngục, nơi mà chúng ta vẫn thường sợ hãi, tìm cách chạy xa khỏi vì nó là nơi chỉ có toàn những khổ đau, nỗi khiếp đảm và than khóc. Mỗi người chúng ta cứ điềm nhiên cho rằng bản thân mình đã rõ biết địa ngục là gì, ở đâu và bản chất của nó là như thế nào nhưng thật sự có lẽ là chưa. Bởi vì, Đạo Phật có một góc nhìn trí tuệ về Địa Ngục, rất khác so với cái thấy thường có ở thế tục.

Địa Ngục – cảnh giới đầy đau khổ

Trong 10 pháp giới, có 4 thuộc về Thánh pháp giới bao gồm: Phật, Bồ Tát, Thanh văn và Duyên giác; 6 pháp giới thuộc về Phàm: Trời, người, Atula, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục.

Địa có nghĩa là đất, ngục có nghĩa là nơi giam giữ tội nhân – những người tạo nhiều ác nghiệp trong lúc làm thân người. Trong kinh viết, địa ngục là cảnh giới đau khổ nhất.
Địa có nghĩa là đất, ngục có nghĩa là nơi giam giữ tội nhân – những người tạo nhiều ác nghiệp trong lúc làm thân người. Trong kinh viết, địa ngục là cảnh giới đau khổ nhất.

Địa có nghĩa là đất, ngục có nghĩa là nơi giam giữ tội nhân – những người tạo nhiều ác nghiệp trong lúc làm thân người. Trong kinh viết, địa ngục là cảnh giới đau khổ nhất. Ở đó, không có một niềm vui nhỏ nhoi nào, cho dù chỉ kéo dài bằng khoảnh khắc của một sát na. Nơi địa ngục, chỉ có những tội nhân với nghiệp quả nặng nề thọ khổ, chỉ có những quỷ dữ ngày đêm hành hạ, chỉ có những dụng cụ tra hình, chỉ có đồng sôi, hầm lửa, vạc dầu… ngày đêm thiêu đốt thảm khốc vô cùng.

Kinh Địa Tạng, phẩm 5: “Danh xưng địa ngục” có liệt kê những tên gọi và những cực hình nơi chốn địa ngục như sau:

“… phía đông Diêm Phù có dãy núi tên Thiết Vi. Giữa dãy núi ấy đen tối thăm thẳm, không có ánh sáng của mặt trời mặt trăng, có địa ngục lớn nhất tên Cực Vô Gián, cũng còn gọi là Đại A Tỳ, có địa ngục tên bốn góc, có địa ngục tên dao bay, có địa ngục tên tên lửa, có địa ngục tên núi ép, có địa ngục tên phóng giáo, có địa ngục tên xe sắt, có địa ngục tên giường sắt, có địa ngục tên trâu sắt, có địa ngục tên áo sắt, có địa ngục tên ngàn mũi nhọn, có địa ngục tên lừa sắt, có địa ngục tên nước đồng sôi, có địa ngục tên ôm cột đồng, có địa ngục tên lửa tuôn, có địa ngục tên cày lưỡi, có địa ngục tên chặt đầu, có địa ngục tên đốt chân, có địa ngục tên ăn mắt, có địa ngục tên viên sắt, có địa ngục tên cãi cọ, có địa ngục tên rìu sắt, có địa ngục tên giận nhiều…”

“…cực hình nơi địa ngục như thế này. Có chỗ kéo lưỡi tội nhân cho trâu cày. Có chỗ moi tim tội nhân cho dạ xoa ăn. Có chỗ đun vạc dầu sôi cuồn cuộn mà nấu thân tội nhân. Có chỗ nung đỏ cột đồng mà bắt tội nhân ôm lấy. Có chỗ phun lửa táp vào tội nhân. Có chỗ toàn là băng lạnh. Có chỗ tràn đầy phẫn giải. Có chỗ phóng toàn viên sắt có cạnh sắc gai nhọn. Có chỗ đâm toàn giáo lửa. Có chỗ chỉ đánh lưng bụng. Có chỗ chỉ đốt tay chân. Có chỗ rắn sắt cắn. Có chỗ toàn là bắt cỡi lừa sắt…”

Tuy nhiên, chúng ta cần có một cái nhìn thật chuẩn xác và thiết thực, đúng đắn đối với hai chữ địa ngục vừa nêu.

Nên hiểu như thế nào về Địa Ngục

Không khí căng thẳng, những vật dụng luôn luôn trong tình thế chuẩn bị gây tổn thương cho đối phương. Không chỉ là những dụng cụ vô tri mà lời nói, suy nghĩ và hành động đều trong trạng thái sẵn sàng gây ra nỗi khổ niềm đau cho phía còn lại.
Không khí căng thẳng, những vật dụng luôn luôn trong tình thế chuẩn bị gây tổn thương cho đối phương. Không chỉ là những dụng cụ vô tri mà lời nói, suy nghĩ và hành động đều trong trạng thái sẵn sàng gây ra nỗi khổ niềm đau cho phía còn lại.

Địa Ngục tiếng Hán dịch là vô lạc, khả yếm, khổ khí, khổ cụ, hữu và vô. Sáu nghĩa trên mang nội hàm như sau: vô lạc – không có niềm vui, khả yếm – chỉ cảm thấy đau khổ, khổ khí – không khí làm người ta cảm thấy đau khổ, khổ cụ – dụng cụ tạo nên đau khổ, hữu là có, vô là không. Điều này có nghĩa đen, địa ngục là nơi không có niềm vui, chỉ toàn là đau khổ, là nơi chứa đựng nhiều cực hình và nhiều dụng cụ tra khảo. Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta cần nhìn nhận một khía cạnh nghĩa khác mang phổ quát hơn, rộng lớn hơn.

Bất kỳ nơi nào có một trong sáu yếu tố trên thì đó chính là nơi địa ngục xuất hiện. Và sự xuất hiện của một yếu tố sẽ kéo theo sự xuất hiện của năm yếu tố còn lại. Nơi nào chúng ta cảm nhận đau khổ thì nơi đó không có niềm vui (hoặc chúng ta không thể cảm nhận được niềm vui cho dù niềm vui vẫn đang hiện diện). Nơi đó sẽ có không khí đau khổ với những con người và những dụng cụ là nguyên nhân gây ra nỗi khổ niềm đau cho chúng ta. Mà nguyên nhân chính gây ra những nỗi khổ niềm đau trên đều xuất phát từ việc chấp có hoặc chấp không ở mỗi người.

Chúng ta thật dễ dàng để cảm nhận địa ngục mà không cần phải sau cái chết diễn ra. Chỉ cần chúng ta có dịp đi đến các bảo tàng chứng tích chiến tranh, những nhà tù, nơi trưng bày những dụng cụ tra tấn đã được sử dụng vào những ngày tháng chiến tranh xảy ra ở bất cứ nơi nào trên Thế giới. Chúng ta sẽ thấy địa ngục hiện diện thật rõ ràng và mang đầy đủ ý nghĩa của sáu yếu tố vừa nêu.

Song song bên cạnh đó, cũng thật dễ dàng để thấy được cảnh giới địa ngục hiện diện ngay ở xung quanh ta. Nếu như đối diện với một cảnh tượng hai bên đang to tiếng, tranh cãi hoặc thậm chí là ẩu đã với nhau thì địa ngục lập tức được xây dựng tại nơi đó và trong khoảng thời gian đó. Chính vì một bên chấp có và một bên chấp không là nguyên nhân gây ra địa ngục. Không khí căng thẳng, những vật dụng luôn luôn trong tình thế chuẩn bị gây tổn thương cho đối phương. Không chỉ là những dụng cụ vô tri mà lời nói, suy nghĩ và hành động đều trong trạng thái sẵn sàng gây ra nỗi khổ niềm đau cho phía còn lại. Khi những yếu tố đó hiện diện thì lập tức những đối tượng đang ở trong cảnh giới địa ngục sẽ chỉ cảm nhận được toàn khổ đau mà không có được một niềm vui nhỏ bé nào cả.

Địa Ngục – những nơi chúng ta đã sống

Khi có cách nhìn và thái độ đúng đắn về địa ngục chúng ta sẽ thấy địa ngục không phải là một cảnh giới nằm ở đằng sau của cái chết mà địa ngục luôn hiện diện trong đời sống nếu như chúng ta sống không có chất lượng và không bằng chất liệu của sự tỉnh thức. Nếu chúng ta nhìn nhận địa ngục qua sáu yếu tố vừa nêu, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy được những sự thật rất ý nghĩa luôn luôn tồn trại trong cuộc sống nhưng vì thiếu chánh niệm nên chúng ta không nhận thức được.

Ví dụ như người giàu, nếu nhờ vào phước báu của những hành động thiện ở quá khứ, người nọ được giàu sang tột bậc. Thay vì tiếp tục sử dụng điều kiện thuận lợi là thế mạnh về tài chính để tiếp tục gieo trồng các hạt giống thiện, thì người này lại để lòng tham lấn át và chiếm hữu lấy hết toàn bộ tâm trí của họ khiến họ lao vào vòng xoáy của cuộc chạy đua về vật chất mà cái đích đến là vô hạn của sự mong cầu. Chính lúc này họ đã vào địa ngục.

Với nhiều người, hình ảnh của một đại gia giàu sang với khối tài sản kếch xù là một ước mơ và là một mục đích sống cả đời. Nhưng thực tế, ước mơ này chưa hẳn đã hoàn toàn hạnh phúc. Họ phải sống trong khoảng thời gian bận rộn chạy đua theo sức mạnh của đồng tiền. Khi đó, niềm vui thì ít mà nỗi đau khổ thì nhiều. Và cho dù họ có được niềm vui thì niềm vui đó cũng chỉ là niềm vui tạm bợ, giả tạm; một niềm vui vị ngọt rất ít và vị đắng thì lại rất nhiều. Bao lấy và vây kín họ là sự ngột ngạt, áp lực và khó chịu trong tâm trí bởi những dự án, kế hoạch và những con số. Lúc này, tiền và những khối tài sản khổng lồ kia lại chính là khổ cụ đối với những doanh nhân thành đạt nói trên.

18 tầng Địa Ngục, có thật hay không?

18 tầng Địa Ngục này không phải là một cảnh giới sống, chúng ta cần hiểu nó là một trạng thái vật lý ở ngoại cảnh kéo theo trạng thái tâm lý trong nội tâm.
18 tầng Địa Ngục này không phải là một cảnh giới sống, chúng ta cần hiểu nó là một trạng thái vật lý ở ngoại cảnh kéo theo trạng thái tâm lý trong nội tâm.

Quan niệm dân gian và ngay cả trong một số kinh điển Phật giáo có đề cập đến khái niệm 18 tầng Địa Ngục và 10 vị Diêm Vương cai quản với vô vàn những cực hình, những nỗi khổ niềm đau cùng cực vây kín lấy tội nhân.

Khái niệm Địa Ngục cũng được một số tôn giáo khác đề cập đến như một con đường đen tối dành cho những ai không phục tùng, tuân theo và tôn thờ vị giáo chủ của những tôn giáo đó. Ai nghe theo những giáo điều thì sau khi chết sẽ ở nơi hạnh phúc vĩnh hằng, còn ai không tin tưởng thì sẽ bị đọa đày nơi địa ngục đớn đau. Điều này trở thành một công cụ đắc lực cho các tôn giáo nói trên vì nó nắm bắt được tâm lý của các tín đồ. Thật hấp dẫn vô cùng khi chỉ cần nghe theo những điều được chỉ dạy và đổi lại được sống vĩnh hằng nơi hạnh phúc. Đánh vào lòng tham của con người là mục tiêu của địa ngục theo quan điểm của những tôn giáo khác.

18 tầng địa ngục nếu hiểu đúng theo như nghĩa nội hàm của nó thì sẽ khác rất nhiều so với những hình ảnh mà chúng ta thường thấy. Nơi đó cũng có những đau khổ, nhưng không phải là do vua Diêm La phán xét, không có các quỷ sứ hành hình ngày đêm. 18 tầng Địa Ngục này không phải là một cảnh giới sống, chúng ta cần hiểu nó là một trạng thái vật lý ở ngoại cảnh kéo theo trạng thái tâm lý trong nội tâm.

Con số 18 chính là từ 6 căn tiếp xúc 6 trần sinh ra 6 thức song hành cùng chấp có hoặc chấp không; mà trở thành ngục tù 18 tầng giam hãm mỗi người. Sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu trần là: sắc (màu sắc và chất ngại của các đối tượng) – đối tượng thị giác, âm thanh – đối tượng thính giác, mùi hương – đối tượng khứu giác, mùi vị – đối tượng của vị giác, những xúc chạm – đối tượng của xúc giác và cuối cùng là đối tượng của tâm ý. Khi một căn của cơ thể tiếp xúc với một đối tượng tương đồng của ngoại cảnh thì sẽ sinh ra sự nhận biết. Sự nhận biết này được gọi là thức. Mắt thấy sắc sinh ra đẹp xấu, tai nghe âm sinh ra hay dở, mủi hửi mùi sinh ra thơm thúi, lưỡi nếm vị sinh ra ngon dở, thân xúc chạm sinh ra thích ghét, ý tiếp nhận những tối tượng của tâm ý sinh ra khổ vui. Những cặp phạm trù đẹp xấu, hay dở, thơm thúi, ngon dở, thích ghét và khổ vui trên chính là hữu và vô – ý nghĩa thứ 5 và thứ 6 trong nội hàm của chữ Địa Ngục.

Những cặp phạm trù có và không sẽ tạo ra những nỗi khổ niềm đau liên quan đến việc ghét mà gặp mặt hoặc yêu phải chia lìa ở mỗi người. Và khi đối diện với những nỗi khổ niềm đau như vậy, thì chính là lúc con người bị đọa lạc vào trong địa ngục. Chỉ cần xuất hiện sự chấp trước, phân biệt giữa hữu và vô thì ngay lập tức các yếu tố kéo theo như bất lạc, khả yểm, khổ khí và khổ cụ lập tức cùng xuất hiện.

Bên cạnh đó, khi đối diện với những nỗi khổ niềm đau, nếu không có thái độ buông xả và thường xuyên tập luyện trên tinh thần vô thường, vô ngã thì chúng ta dễ dàng bị nhấn chìm bởi cảm thọ đau khổ. Và khi bị cảm thọ đau khổ vây kín thì lúc đó đại địa ngục Vô Gián được thiết lập và giam cầm người đang thọ khổ. Vô có nghĩa là không, gián là gián đoạn; ý chỉ nỗi khổ niềm đau luôn luôn được duy trì và không có lúc nào ngưng nghĩ đối với người chịu đựng. Xét về khía cạnh tâm lý học, chúng ta dễ dàng nhận thấy được điều này ở mỗi con người khi họ sống cùng với những niệm tham, sân, si phát triển trong tâm thức. Một người đang nóng giận và không biết thực tập hạnh buông xả sẽ bị sự nóng giận thiêu đốt cùng cực. Một người với lòng tham lam không giới hạn mà không biết quán niệm bố thí thì sẽ bị chính lòng tham bức bách, thôi thúc. Một người sống thiếu trí tuệ tự giam mình vào những vô minh, phiền não mà không biết tự mình chuyển hóa những lối sống sai lầm thì tự thân cũng đang bị ngục vô gián giam giữ.

Nếu có một cái nhìn về Địa Ngục như vừa trình bày ở trên, chúng ta sẽ thấy được rằng: “Địa Ngục vừa thật có mà lại vừa không thật có”. Địa Ngục có khi nào chúng ta bị đọa đày trong những nỗi khổ niềm đau do sự chấp trước về có hoặc không gây ra những mâu thuẫn, tranh cãi. Và bên cạnh đó, Địa Ngục không thật sự có ở dưới lòng đất, cũng không thật sự có ở đằng sau cái chết diễn ra; bởi vì, Địa Ngục có khẳ năng hiện diện ngay trong đời sống hiện tại của mỗi người. Sự có và không có của Địa Ngục không phải là hai phạm trù đối nghịch nhau, phản biện nhau và trái ngược nhau. Ngược lại, sự có và không có sự hiện diện của Địa Ngục lại là sự bổ sung cho nhau, tương quan với nhau và là hai mặt của một chỉnh thể hợp nhất.

Địa Ngục tại thế gian

Về phương diện tích cực, Địa Ngục là bài học thiết thực nhất về quy luật Nhân Quả và là động lực thúc đẩy mỗi người sống có chất lượng hơn.
Về phương diện tích cực, Địa Ngục là bài học thiết thực nhất về quy luật Nhân Quả và là động lực thúc đẩy mỗi người sống có chất lượng hơn.

Về phương diện tiêu cực, Địa Ngục dễ dàng làm cho con người rơi vào những quan điểm mê tín dị đoan, thần quyền và thuyết định mệnh. Về phương diện tích cực, Địa Ngục là bài học thiết thực nhất về quy luật Nhân Quả và là động lực thúc đẩy mỗi người sống có chất lượng hơn. Tuy nhiên đa phần các bạn trẻ, có phần e ngại, lo sợ khi tiếp xúc với Địa Ngục và các cực hình nơi Địa Ngục. Nguyên nhân là các bạn chưa hiểu rõ Địa Ngục là gì và sự lầm tưởng rằng sau cái chết thì địa ngục mới hiện diện và hiện hữu. Điều này không đúng, bởi vì, địa ngục hiện diện ngay tại thế gian này và sau cái chết kia, không có một nhà tù nào được xây dựng, không có vua Diêm La, Phán quan, đầu trâu, mặt ngựa hay các quỷ sứ hành hình các tội nhân. Nếu sau cái chết, có Địa Ngục đi chăng nữa, thì đó chính là sự “không chấp nhận” cái chết đang diễn ra với mình và sự không chấp nhận đó trở thành sự chấp trước, níu kéo sự sống của kiếp sống vừa qua.

Thay vì suy nghĩ Địa Ngục là một cảnh giới đằng sau cái chết, chúng ta hãy tự thực tập nhìn Địa Ngục đang diễn ra ngay trong kiếp sống hiện tại của chúng ta. Trong kinh Địa Tạng Thập Vương Biến Tướng có kể ra những danh hiệu Địa Ngục điển hình như sau: địa ngục dùng roi đánh, địa ngục chém chặt, địa ngục lạnh giá, địa ngục giường lửa… Chỉ cần nghe cái tên của Địa Ngục chúng ta cũng đã dễ dàng tưởng tượng được những cực hình trong ngục và cảm nhận được nỗi thống khổ trong ngục. Để sinh động hơn trong việc thực tập nhìn Địa Ngục tại thế gian, chúng tôi xin mời bạn nhìn vào một đĩa thịt dê nướng mà chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy được trong các quán nhậu.

Thông thường khi chế biến thịt dê, để tránh cho mùi khai đặc trưng của thịt dê, người đầu bếp thường cho con dê uống rượu thật say rồi dùng roi đánh thật mạnh để con dê tiết ra mồ hôi. Nếu làm theo phương pháp này, thì miếng thịt khi ăn không còn mùi hôi đặc trưng nữa. Chúng ta không bàn về giá trị ẩm thực và giá trị dinh dưỡng của thịt dê. Nhưng thông qua phương thức chế biến này, chúng ta sẽ thấy được địa ngục hiện diện. Chúng sanh đang đau khổ là con dê chuẩn bị làm thịt. Nó sẽ chịu đựng đau đớn của “ngục dùng roi đánh”. Rồi con dê bị giết và chặt ra nhiều miếng thịt nhỏ hơn – đó là “ngục chém chặt”. Để bảo quản thịt cho được tươi ngon, người ta đem những miếng thịt cho vào ngăn đá để giữ đông – đây là “ngục lạnh giá”. Và cuối cùng là phương thức chế biến món ăn, nếu là đem nướng thì địa ngục “giường lửa” thật sự đang hiện diện và hiện hữu ngay tại thế gian. Và nếu nhìn kỹ hơn nữa, thì lúc này, người đầu bếp chẳng khác nào là vua Diêm La, dụng cụ làm bếp là những khổ cụ tra tấn và thực khách chẳng khác nào những quỷ sứ đang hành hạ tội nhân nơi địa ngục.

Nếu một ai đó, phản bác lại rằng, sau khi con dê nó chết đi thì nó không cảm nhận được đau đớn về mặt thể xác, nên địa ngục lạnh giá và địa ngục giường lửa như vừa giải thích ở trên là không được hợp lý hoàn toàn. Chúng tôi xin phép không phân tích và biện luận, sau cái chết thì còn có “sự đau” nữa hay không. Thay vào đó, chúng tôi xin được phép dẫn chứng những ví dụ điển hình hơn cho hai ngục vừa nêu. Xin mời toàn bộ đại chúng cùng nhìn vào một đàn cá vừa mới được bắt lên khỏi đại dương và cho ngay vào hầm nước đá trên những con tàu lớn – đó là địa ngục lạnh giá. Và mời đại chúng tiếp tục nhìn những con cá Kèo bị nước sống trên những lò than hồng – đây là địa ngục giường lửa thực tế nhất.

Bên cạnh những danh hiệu Địa Ngục biểu thị sự đau khổ của thể xác, chúng ta cũng cần nhận định có những danh hiệu Địa Ngục biểu thị sự đau khổ của nội tâm. Khi chúng ta buông xuôi tự thả mình trôi theo dòng ác nghiệp thì đó chính là “ngục mọt ăn”. Những thói hư tật xấu sẽ gặm nhắm dần dần, từ từ và ăn chết đi những hạt giống thiện trong mỗi người, nếu như họ cứ có thái độ bỏ mặc và không có thái độ sống tích cực hơn trong đời sống hiện tại. Điều này, dễ nhận thấy nhất ở một số lượng lớn các thanh niên trẻ ngày nay với lối sống hưởng thụ và hủy hoại tuổi trẻ. Quên mình trong những cuộc ăn chơi, nhậu nhẹt; đốt cháy tuổi xuân bằng các thứ xì ke, ma túy, thuốc lắc,… Lối sống buông thả, bất cần và không nhìn nhận hậu quả về sau là những con mọt đang ăn dần ăn mòn mỗi con người. Đây là hình ảnh rõ nét nhất của “ngục mọt ăn”

Mỗi khi ai đó đang trong cơn giận dữ, địa ngục “chảo dầu sôi” được kiến lập. Địa ngục “phân và nước tiểu” là hình ảnh biểu trưng của những ai chìm đắm trong khối vô minh. Hình ảnh của địa ngục “phân và nước tiểu” cũng sẽ dễ dàng nhìn thấy khi quan sát những lồng chim phóng sanh trước cửa chùa. Khoảng từ một đến vài trăm những tội nhân đang bị giam cầm trong cái ngục bằng sắt và sống chung với phân và nước tiểu của chính mình thải ra vô cùng hôi thối. Địa ngục “treo ngược” hiện ra với những con gà bị treo hai chân lên trong quá trình di chuyển từ chợ này sang chợ khác hoặc đến những lò giết gia cầm. Thật không khó để thấy được những địa ngục đang hiện diện ở hiện tại chứ không phải là đằng sau của sự chết.

Thái độ sống với Địa Ngục 

Nếu bản thân mỗi người đang bị giam giữ trong những Địa Ngục tâm lý như Địa Ngục “vạc dầu sôi”, “ngục mọt ăn”,… thì hãy tự thức tỉnh, nhận thức được rằng mình đang đau khổ vì những ngục tù do chính bản thân của chúng ta xây dựng nên.
Nếu bản thân mỗi người đang bị giam giữ trong những Địa Ngục tâm lý như Địa Ngục “vạc dầu sôi”, “ngục mọt ăn”,… thì hãy tự thức tỉnh, nhận thức được rằng mình đang đau khổ vì những ngục tù do chính bản thân của chúng ta xây dựng nên.

Khi nhìn nhận Địa Ngục không hẳn đằng sau của sự chết, chúng ta cần có một thái độ sống thích hợp với những Địa Ngục “hiện tại”.

Nếu bản thân mỗi người đang bị giam giữ trong những Địa Ngục tâm lý như Địa Ngục “vạc dầu sôi”, “ngục mọt ăn”,… thì hãy tự thức tỉnh, nhận thức được rằng mình đang đau khổ vì những ngục tù do chính bản thân của chúng ta xây dựng nên. Chỉ cần nhận diện được, ta đang đau khổ vì những ngục tù do ta tạo dựng; lập tức, Địa Ngục sẽ bị phá vỡ hoàn toàn.

Bên cạnh đó, hãy tập nhìn những Địa Ngục khác đang giam hãm những chúng sanh đầy đau khổ khác. Dùng sự quán chiếu Từ Bi để có cách nhìn và lối sống tích cực hơn, chất lượng hơn; có như vậy, ta vừa giúp được những chúng sanh đang bị khổ đau và cũng vừa nuôi dưỡng được những hạt giống thiện trong tâm thức của chúng ta.

Với hình ảnh ẩn dụ từ cây Tích Trượng với 4 vòng – Tứ Đế và 12 khoen – 12 nhân duyên; cùng viên Minh Châu tượng trưng cho Trí Tuệ chiếu sáng Vô Minh của ngài Bồ Tát Địa Tạng; mỗi người học Phật cần sáng suốt nhận định Địa Ngục có thật hay không có thật không quan trọng bằng việc phá vỡ và chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau do Địa Ngục gây ra cho chúng ta và cho chúng sanh. 

Tuệ Quý

Không gì vượt ngoài luật nhân quả

Luật nhân quả đem lại lòng tin tưởng vào chính con người, không tin tưởng vào bất cứ điều gì vượt ngoài nhân quả, tự mình xây dựng nên cuộc đời mình. Lòng tin ấy là một sức mạnh vô cùng quý báu.

Hiểu đúng về luật nhân quả

Khi tin sâu vào luật nhân quả, con người dám làm, dám hi sinh về những điều tốt. Với những hành động cao thượng, những nguyên nhân tốt ấy sẽ đem lại kết quả tốt đẹp cho mình cho người.
Khi tin sâu vào luật nhân quả, con người dám làm, dám hi sinh về những điều tốt. Với những hành động cao thượng, những nguyên nhân tốt ấy sẽ đem lại kết quả tốt đẹp cho mình cho người.

Để làm chủ cuộc sống, làm chủ vận mệnh chúng ta phải hiểu và nắm được luật nhân quả. “Nhân” nghĩa là nguyên nhân, là hạt, tức hạt giống. “Quả” là kết quả, là trái, tức là kết quả hữu hình hoặc vô hình của một hạt đã gieo trồng. Nhân và quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có.

Phật dạy: “Muốn biết quá khứ hay tương lai của một người chỉ cần nhìn những điều người đó đang nhận hoặc đang làm ở hiện tại là có thể biết được”. Qua quy luật nhân quả, Phật dạy ta biết rằng, vận mệnh là do tự bản thân mỗi người nắm giữ, quyết định chứ không phải do thế lực nào tạo nên. Mình tự gieo nhân thì tự gặt lấy quả, tùy theo thiện ác nhiều ít nên có khác nhau. Nhân nào quả nấy, có thể sửa đổi nhân quả chứ không thể vượt ra ngoài nhân quả. Khi tin sâu vào luật nhân quả, con người dám làm, dám hi sinh về những điều tốt. Với những hành động cao thượng, những nguyên nhân tốt ấy sẽ đem lại kết quả tốt đẹp cho mình cho người.

Hiểu rõ luật nhân quả để có một cuộc sống bình an, ý nghĩa

Nhân nào quả nấy, có thể sửa đổi nhân quả chứ không thể vượt ra ngoài nhân quả. Ví như kiếp trước đã tạo cái nghiệp nhân chết đói, kiếp này phải trả quả. Lúc tạo nghiệp nhân khiến người ta chết đói, tâm lực chỉ có một độ, kiếp này chẳng có tu hành, tâm lực vẫn chỉ có một độ, thì nghiệp quả chết đói là định nghiệp, thế nào cũng phải trả. Bây giờ chuyên tâm tham thiền, khiến tâm lực lên hai độ, ba độ, năm độ, mười độ … thì nghiệp nhân lúc một độ được kéo lại sau, kiếp này khỏi bị chết đói nữa. Tại sao? Vì tất cả do tâm tạo, hễ nhân nào mạnh thì quả đến trước, nhân yếu quả kéo sau, ví như người thế gian thiếu nợ, thế lực của ai mạnh phải trả trước, thế lực yếu trả từ từ. Nếu tâm lực ngưng ở mười độ, không còn tham tiếp, khi nhân quả lúc mười độ trả hết, sẽ đến chín độ, rồi tám độ… dần dần đến một độ.

Nếu cứ tham mãi, tâm lực tăng dần từ mười độ, hai mươi độ, một trăm độ, một triệu độ … đến thành Phật, thì nhân quả lúc một độ không thể hiện hành, nhưng nghiệp nhân vẫn còn. Đến khi thành Phật rồi, tất nhiên độ hết tất cả chúng sanh, và dĩ nhiên chủ nợ được độ trước, lúc đó nghiệp nhân mới hết, chứ không có vượt ra ngoài nhân quả, bất quá là sửa lại trước hay sau thôi.

Nhân quả luôn công bằng

Nhân quả dù tốt hay xấu đều tùy thuộc vào con người. Mỗi cá nhân tự gây tạo nghiệp nhân cho mình và chỉ chờ đợi diễn tiến của cái kết.
Nhân quả dù tốt hay xấu đều tùy thuộc vào con người. Mỗi cá nhân tự gây tạo nghiệp nhân cho mình và chỉ chờ đợi diễn tiến của cái kết.

Mỗi người khi sinh ra và lớn lên đều có hoàn cảnh không ai giống ai. Buồn vui sướng khổ mỗi người mỗi vẻ, nhưng tựu trung dường như ai cũng có nỗi khổ riêng. Và rồi người ta trông cậy vào thờ cúng, bói toán… với mong muốn thay đổi số mệnh. Nhưng nếu không thực sự hiểu quy luật nhân quả, chúng ta sẽ không thể thay đổi được số mệnh của mình từ gốc rễ.

Nhân” đã tạo ra trong quá khứ thì không thể thay đổi được. Cái có thể thay đổi chính là “duyên”, điều kiện để tạo ra kết quả. Nói cách khác, kiếp trước ít nhiều đều làm điều xấu nhưng kiếp này từ bỏ điều xấu làm việc thiện thì ác duyên sẽ đứt. Đạo Phật khuyên người ta cách thay đổi vận mệnh một cách tích cực và sẽ nhận được phước báo.

Nhân quả dù tốt hay xấu đều tùy thuộc vào con người. Mỗi cá nhân tự gây tạo nghiệp nhân cho mình và chỉ chờ đợi diễn tiến của cái kết. Cuộc sống của con người thường mắc phải năm loại ham muốn căn bản: ăn ngon, ngủ nghỉ, danh tiếng, sắc đẹp, tiền tài và con người phải sống trong bể tham dục, ưu, bi, khổ, não, bệnh tật. Trong mỗi thời khắc đã qua, hiện tại đến tương lai là một chuỗi tương tác liên tục. Những việc làm của chúng ta hôm nay có thể cho biết câu trả lời của ngày mai cho dù không chắc chắn như chúng ta nghĩ. Nếu chúng ta muốn tận hưởng chuỗi nhân quả cuộc đời theo hướng tốt, tích cực thì không còn gì bằng việc tạo ra một lối sống tốt và lối sống tốt ấy rất cần có nguồn động lực, sự quyết tâm mạnh mẽ của chính bản thân.

Đừng chần chừ làm việc thiện

Người xưa thường nói “làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước” đó chính là bài học về nhân quả mà Phật thường khuyên nhủ và chỉ dạy cho mọi người.
Người xưa thường nói “làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước” đó chính là bài học về nhân quả mà Phật thường khuyên nhủ và chỉ dạy cho mọi người.

Cuộc sống phải theo quy luật vô thường, không bao giờ đứng yên. Thời gian của một đời người cũng rất ngắn ngủi. Đừng chờ đợi một điều tốt đẹp đến với mình mà phải tự tạo điều tốt đẹp trước đã bằng tất cả sự thành thật. Khi chúng ta đã có cố gắng rồi thì ít ra cũng sẽ có một nguồn lực tiếp sức cho chúng ta thêm nữa. Vận may, cơ hội không phải mưa từ trên trời rơi xuống cho chúng ta tắm mát giữa trưa hè nóng bức vì chúng ta cũng biết rằng những giọt mưa không phải tự dưng mà có, nó phải hội đủ nhân duyên, được giúp sức từ hơi nước và các điều kiện khác.

Người xưa thường nói “làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước” đó chính là bài học về nhân quả mà Phật thường khuyên nhủ và chỉ dạy cho mọi người. Chúng ta được sanh ra làm người, ai ai cũng đều có phước báo cả, bởi có phước nên mới được làm người, nếu không đã bị đoạ vào ba đường dữ: quỷ đói, súc sinh và địa ngục. Nhưng người phước báo ít mà hưởng thụ nhiều và không biết gieo trồng thêm thì làm sao có đủ phước để mà hưởng. Như chúng ta đã thấy trên đời này có lắm người không làm mà vẫn có ăn là do đâu? Có người đang giàu có bổng dưng bị mất mát, tán gia bại sản trở thành nghèo khổ là do hết phước bởi vì hưởng thụ quá nhiều.

Phật dạy rằng tất cả đều do tâm mà sinh tạo ra, nên muốn thay đổi mình thì trước hết phải chú ý đến tâm niệm của bản thân. Vì vậy, tâm có thể tạo ra nghiệp cũng có thể chuyển nghiệp, phúc báo họa báo đều do con người tự tạo ra, đức năng thắng số, tướng tùy tâm chuyển là ý như vậy.

Thanh Tâm