back to top
21.9 C
Chư Sê
Thứ Sáu, 17 Tháng Năm, 2024
Home Blog Page 168

Lời Phật dạy về bốn hạng người ở đời

Nói đến đạo Phật là nói đến tinh thần nhân quả, nói đến sự giác ngộ của một con người. Con người sinh ra đủ phước báo hay bất hạnh là do tích lũy nghiệp từ nhiều đời mà hiện tại cho ra kết quả khác nhau.

Vì có nhân-quả, ta cố gắng thay đổi thì sẽ thành tựu ước nguyện

Mọi việc đều có thể thay đổi và cải thiện tốt hơn nếu chúng ta có ý chí và quyết tâm cao độ. Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này là một dòng chuyển biến liên tục từng phút giây, không có gì là cố định cả.

Cố gắng sẽ có quyền quyết định số phận của bản thân

Một gia đình nọ, hai cha con cùng dạo chơi trong khu vườn nhà của họ. Bổng nhiên đứa con hỏi bố: “Bố ơi bố, nhà chúng ta có giàu không ạ?”

Ông bố nghe xong liền mỉm cười, xoa đầu cậu con trai, rồi nói: “Bố có tiền, nhưng con không có. Tiền của bố là do bố tự mình siêng năng tích cực làm ra bằng đôi bàn tay và khối óc, được tích lũy trong nhiều năm tháng. Sau này con muốn giàu có như bố, trước tiên con phải học và chọn cho mình một nghề nghiệp chân chính, con cũng có thể thông qua nghề nghiệp của mình mà kiếm được tiền.”

Cậu bé ấy, nghe câu trả lời của bố có chút suy luận như sau:

1. Bố của mình rất giàu có, nhưng tiền của bố là của bố, vì công khó nhọc do bố làm ra.

2. Nếu như mình muốn có tiền và giàu có như bố, cũng phải thông qua lao động và cố gắng để có được.

Nghe xong câu trả lời của bố, cậu bé sẽ rất cố gắng để trở nên giàu có như bố mình. Quan trọng hơn hết là một loại giàu có về đạo đức tinh thần, sau sẽ giúp cậu bé hưởng lợi ích cả đời mà không sợ ai cướp mất.

Buông thả thì số phận ta sẽ theo nghiệp lực định đoạt

Cũng câu hỏi này, ở một gia đình khác? Ông bố trả lời một cách tự hào và rất kiêu hãnh: “Nhà chúng ta có rất nhiều tiền con ạ và lớn lên tất cả những gì bố có sẽ thuộc về con, con khỏi phải lo?”.

Đứa bé sau nghe được câu trả lời đó của bố, sẽ đưa ra một nhận định như sau:

  1. Bố mình là người giàu có, nhà mình có rất nhiều tiền.Tiền của bố mình chính là tiền của mình.
  2. Như vậy, mình không cần cố gắng học hỏi và làm việc vì đã có rất nhiều tiền rồi.

Người có đạo đức luôn tin nhân quả và sống không ỷ lại, nhờ vả van xin hay dựa dẫm bất kỳ một thế lực nào. Nên đã dạy cho con cái, cách sống tự lập và dấn thân bằng mồ hôi nướt mắt của chính mình.

Không gì vượt ngoài luật nhân quả

Bốn hạng người theo lời dạy của Đức Thế Tôn

Một hôm, đức Phật đang chuẩn bị buổi tham vấn đạo lý cho tất cả quan quân thành Xá Vệ tại tịnh xá Kỳ Viên, vua Ba Tư Nặc cùng đoàn tùy tùng sau khi đảnh lễ đức Thế tôn bèn ngồi sang một bên và thưa hỏi:

– Thế nào, Thế Tôn! Tất cả Bà La Môn sau khi chết sanh trở lại làm Bà La Môn chăng? Giai cấp Sát Đế Lợi, Tỳ Xá, Thủ  Đà La cũng lại như thế chăng?

– Này đại vương, đâu được như vậy! Trên đời có 4 hạng người: Hạng người từ tối vào tối; Hạng người từ tối vào sáng; Hạng người từ sáng vào tối; Hạng người từ sáng vào sáng.

– Thưa đại vương, thế nào là hạng người từ tối vào tối? Ở đây có một số người được sanh ra trong gia đình hạ tiện, thấp kém, ở đợ, làm mướn, gia đình Chiên đà la, làm nghề đồ tể, lưới cá, giăng bẫy, đổ rác, đương lát và làm các nghề nghiệp thấp kém khác. Cơm không đủ no, áo không đủ mặc, ăn uống thiếu thốn, nghèo cùng, bệnh tật chết yểu, thân thể xấu xí, luôn làm các việc hạ tiện và cũng bị người sai làm các việc hạ tiện, ấy gọi là tối. Trong chỗ tối đó người ấy thân hay làm việc ác, miệng nói ác, ý suy nghĩ ác, do nhân đó sau khi chết người ấy sanh vào cõi dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chịu nhiều khổ báo; giống như người từ tối vào tối, luôn sống trong tối tăm, hắc ám, vô minh, mê muội, đời này làm ác, đời sau làm ác, không biết lối đi; người từ tối vào tối cũng lại như thế.

– Đại vương! Thế nào là người từ tối vào sáng? Như đã nói ở trên, tuy đang ở trong chỗ tối nhưng người này ý luôn suy nghĩ điều tốt lành, miệng nói lời lành, thân hay làm việc tốt, luôn tôn kính người tu hành chân chánh, biết giúp đỡ, chia sẻ khi gặp người hoạn nạn. Do nhân ấy sau khi chết được tái sanh vào các cõi trời, hoặc trở lại làm người cao sang, quyền quý; giống như có người từ đất bước lên kiệu, từ kiệu bước lên ngựa, từ ngựa lên voi hay từ voi lên lầu; người từ tối vào sáng cũng lại như thế.

– Thế nào là người từ sáng vào tối? Ở đây có người sanh ra trong nhà cao quý, có địa vị, danh vọng trong xã hội, gia đình Bà La Môn giàu có, gia đình Sát Đế Lợi giàu có, nhiều tiền của, nhiều tôi tớ, thân tướng tốt đẹp, trang nghiêm, thông minh, trí tuệ, ấy gọi là sáng. Nhưng hiện tại người ấy thân hay làm các việc ác, miệng nói lời ác, ý suy nghĩ ác, hại người hại vật, do nhân duyên đó sau khi chết bị đọa vào ba đường dữ chịu nhiều khổ báo; giống như có người từ lầu cao bước xuống voi, từ voi bước xuống ngựa, từ ngựa bước xuống kiệu, từ kiệu bước xuống đất, từ đất rơi xuống hầm và lọt xuống hố sâu; người từ sáng vào tối cũng lại như thế.

– Thế nào là người từ sáng vào sáng? Có những người sanh ra trong gia đình giàu sang, cao quý, có địa vị và danh vọng cao trong xã hội, có nhiều tiền của, nhiều kiến thức, sống vương giả, nhiều tôi tớ, muốn gì được nấy. Hiện tại ý luôn suy nghĩ tốt lành, miệng nói lời lành, thân hay làm những việc phước đức và hay khuyên nhủ mọi người cùng làm theo. Người như vậy sau khi chết do nhân tốt lành đó nên được sanh lên các cõi trời để hưởng phước báu thù thắng; giống như người từ đất đi thẳng lên các lầu cao và thoải mái dạo chơi trên ấy; người từ sáng vào sáng cũng lại như thế.

Phật nói kinh này xong, vua và các quan được nghe điều chưa từng nghe và biết được điều chưa từng biết, bao nhiêu thấy biết sai lầm từ xưa đến nay đều được sáng tỏ hết.

Người có đạo đức luôn tin nhân quả và sống không ỷ lại, nhờ vả van xin hay dựa dẫm bất kỳ một thế lực nào.
Người có đạo đức luôn tin nhân quả và sống không ỷ lại, nhờ vả van xin hay dựa dẫm bất kỳ một thế lực nào.

Các hạng người theo tư tưởng người Ấn Độ xưa

Theo lịch sử Ấn Độ cổ xưa, người Ba Tư cổ đại nay là Iran thuộc giống dân da trắng xâm lăng toàn thắng dân gốc Ấn Độ da đen. Để nắm quyền cai trị phân biệt chủng tộc giai cấp, một số người có quyền thế chế tác ra luật Manu, cho rằng trời Phạm thiên sanh ra vạn vật. Theo tập cấp phong kiến cổ xưa, ai sanh ra thuộc giai cấp nào thì trước sau phải chịu như vậy, không thể nào thay đổi được, giống như tổ chức của loài ong, loài kiến. Các giai cấp này được sắp đặt và hình thành theo hệ thống pháp lý hẳn hòi, dựa theo truyền thống xa xưa có một đấng tối cao ban phước giáng họa trên thế gian này.

Vậy phong kiến là gì? Phong kiến là phong chức, cấp đất và phong kiến còn mang ẩn nghĩa là một tổ chức được sắp đặt theo loài ong, loài kiến. Trong tổ của loài ong cấp nào việc đó, ong thợ chỉ một việc xây tổ, ong nước chuyên đi lấy nước, ong mật chuyên đi hút mật, ong thầy thuốc chuyên lo pha chế mật hợp với từng loài, ong bảo vệ có trách nhiệm giám sát tuần tiểu cẩn thận, ong đực lo truyền giống, ong cái lo đẻ trứng. Chỉ một con ong cái nhưng có cả hàng trăm con ong đực nên ong cái được tôn vinh là ong chúa. Ong chúa được ăn một loại thức ăn đặc biệt gọi là mật ong chúa. Khi ong chúa đến chỗ mật để ăn thì tất cả ong dân đều quỳ mọp tỏ vẻ cung kính, khép nép và sợ sệt. Một con ong chúa có khả năng sinh hàng trăm ngàn con ong con. Trong tổ thiếu ong gì thì ong thầy thuốc chế thức ăn để ong chúa ăn và đẻ ra thứ ong đó; như tổ thiếu ong hút mật thì ong chúa đẻ nhiều ong hút mật. Đặc biệt là đẻ ong chúa con, lâu lắm mới đẻ một lần, mỗi lần chỉ ba trứng; nhưng thật dã man thay, ong chúa mẹ biết được giờ ong chúa con nở nên đã đến nằm chờ sẵn, trứng thứ nhất vừa nở ra, ong chúa mẹ liền cắn chết ong chúa con; kế đến, ong chúa con thứ hai tiếp tục được sinh ra và vẫn bình yên vô sự. Đây là điều kỳ lạ của loài ong, nhưng chị ong chúa con thứ hai này lại nằm chờ sẵn, đợi đến cô em ong chúa thứ ba vừa chào đời liền cắn chết. Dã man thay, gia đình loài ong là như thế.

Tuy nhiên, con người khôn hơn nên lợi dụng quyền thế sắp đặt chẳng khác nào loài ong dưới danh nghĩa một đấng tối cao có quyền ban phước, giáng họa để áp đặt và cai trị. Con người ngày xưa với thiên hình vạn trạng, so với bầu vũ trụ bao la này thật là nhỏ bé nên không đủ sáng suốt biết rõ sự thật trước những hiện tượng như sấm sét, sóng thần, động đất, hỏa hoạn, lũ lụt, dịch bệnh đã cướp đi nhiều sinh mạng của con người. Không ai tìm ra được nguyên nhân nên đành chấp nhận xuôi tay phó mặc cho số phận thượng đế đã an bài.

Ngày xưa, người có quyền hành thế lực lợi dụng con người thiếu hiểu biết nên đã đặt ra đấng quyền năng và tự xưng mình là Thiên tử, tức con trời, được đấng tối cao sai xuống trần gian để trị vì thiên hạ.

Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học, con người ngày càng văn minh hơn nên đã phát hiện mọi hiện tượng sự vật trên thế gian đều do nhiều nguyên nhân hợp lại, không có cái gì do một nhân mà hình thành. Chính khoa học đã làm sáng tỏ học thuyết nhân quả nhà Phật, “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không”, không có gì là cố định cả, không ai có quyền ban phước giáng họa; giả sử nếu có thượng đế thì chỉ là thượng đế tối cao của chính mình, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Nếu thượng đế có khả năng ban phước giáng họa thì tại sao không ban phước lành hết cho tất cả chúng sanh để cùng nhau chung hưởng cảnh thái bình?

Thế cho nên, vua Ba Tư Nặc hỏi Phật như vậy có đúng không. Phật liền trả lời, “đại vương nên biết có 4 hạng người: Có người từ tối vào tối, có người từ tối vào sáng, có người từ sáng vào tối, có người từ sáng vào sáng. Đây là bài kinh nhân quả Phật đã chỉ chúng ta một cách rõ ràng và thiết thực, mọi việc đều có thể thay đổi được tùy theo khả năng tu tập của mỗi người.

Đức Phật dạy về  bốn hạng người (Ảnh minh họa)
Đức Phật dạy về bốn hạng người (Ảnh minh họa)

Hạng người thứ nhất 

Hạng người thứ nhất là hạng người kém phước đức do không biết làm các việc thiện lành tốt đẹp, lại không gặp được thầy hiền bạn tốt nên suốt đời sống trong đau khổ lầm mê. Do đời trước làm các việc bất thiện hại người, hại vật nên đời này sanh chỗ xấu ác, lại không được học hỏi, trau dồi kiến thức, không biết nhận định đúng sai nên đành chấp nhận cuộc đời giống như bèo dạt mây trôi, sống trong phiền muộn, khổ đau, cuối cùng rơi vào chỗ tối tăm, mờ mịt, lại tiếp tục gây tạo nghiệp nhân xấu ác, do đó đành phải chịu mãi mãi ở chỗ tối tăm. Hạng người này đáng thương hơn đáng trách, vì họ không đủ phước duyên thân cận thầy lành bạn tốt nên chúng ta cần phải quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để kết duyên lành với họ, làm sao để gần gũi họ mà có cơ hội sẻ chia từ vật chất đến phương tiện tinh thần, hướng dẫn cho họ biết tin sâu nhân quả để khắc phục bớt việc làm có hại cho người và vật.

Hạng người thứ hai 

Hạng người thứ hai là hạng người biết cầu tiến, tuy trong hoàn cảnh xấu ác nhưng họ may mắn gặp được thiện hữu tri thức hướng dẫn, chỉ dạy nên nhận ra sai lầm quá khứ do mình tạo ra. Họ cố gắng siêng năng tinh cần, chịu đựng, quyết tâm khắc phục, làm mới lại chính mình bằng cách sám hối hứa chừa bỏ nghiệp nhân xấu ác và tùy theo khả năng, hoàn cảnh cuộc sống để làm việc phước thiện nên chuyển được quả xấu thành nhân tốt lành, do đó họ được từ tối vào sáng.

Hạng người thứ ba 

Hạng người thứ ba tuy có phước trong hiện tại nhưng vì nhận định sai lầm theo quan điểm cố định mà đời này mặc tình gây tạo tội lỗi, đến khi phước hết họa đến đành chấp nhận chịu quả khổ đau như người từ sáng vào tối.

Hạng người thứ tư 

Hạng người thứ tư là hạng người luôn tỏa sáng khắp mọi nơi vì đã tin sâu Tam bảo, tin sâu nhân quả, hiểu được giá trị của cuộc sống nên lúc nào cũng làm lợi cho chúng sinh, luôn chia sẻ phúc lộc bình an đến với mọi người trên tinh thần vô ngã, vị tha.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

xem thêm: Lời Phật dạy – Những lời vàng ngọc của Đức Phật

https://www.youtube.com/watch?v=efH2rw_NKjQ
https://www.youtube.com/watch?v=C-u1iSgir78
https://www.youtube.com/watch?v=fDb1n2zDz8A

Thuyết pháp chủ đề nhân quả: Tầm nhìn 200 năm – Thượng tọa Thích Chân Quang

Con người sau khi chết đi về đâu?

Đối với chúng ta là những người đệ tử của đức Phật, những người đi trên lộ trình học đạo chuyển hóa thân tâm, hướng đến con đường tỉnh thức, tìm về giải thoát, thì chúng ta cần phải học và hành theo lời Phật dạy trong đời sống thường ngày.

Không có ai sinh ra mà thoát khỏi cái chết

Thuở xưa, có một đạo sư tên là Araka, người đã thoát ly sự thèm khát dục vọng. Đạo sư này có hàng trăm đệ tử. Khi ấy, vị này thường dạy cho để tử của mình rằng: 

“Này các Bà-la-môn, đời sống con người thật ngắn ngủi, giới hạn và phù du, đầy cả khổ đau, đầy cả phiền não. Điều này, con người phải khéo hiểu. Con người phải làm điều thiện và sống đời thanh tịnh, vì không có ai sinh ra mà thoát khỏi cái chết”. (Tăng Chi Bộ Kinh III, chương VII, Đại Phẩm, Araka).

Vâng! Con người sinh ra không ai mà không thoát khỏi cái già và chết. Thời gian không chờ đợi một ai cả, kiếp người không mấy lâu sẽ qua đi, đời sống đầy những khổ lụy. Tất cả đều phải chịu sự chi phối của định luật vô thường, duyên sinh. Điều này đã được đức Phật xác chứng trong kinh tạng Nikaya.

Một lần nọ, tại thành Xá-vệ (Savathi), vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) của nước Kosala bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, có người nào sinh ra mà thoát khỏi già và chết không?

Đức Thế Tôn trả lời:

– Thưa Đại vương, không có ai sinh ra mà tránh khỏi già và chết. Ngay cả những người thuộc giai cấp Sát-đế-lợi đại phú giàu có, nhiều tài sản và của cải, nhiều vàng bạc, nhiều kho tàng và hàng hóa, nhiều ngũ cốc, vì họ đã sinh ra, họ không thoát khỏi già và chết. Ngay cả những Bà-la-môn đại phú… những gia chủ đại phú giàu có… nhiều của cải và ngũ cốc, vì họ đã sinh ra, họ không tránh khỏi già và chết. Ngay cả những vị Tỳ-kheo đã chứng đắc quả A-la-hán, những vị đã đoạn tận các lậu hoặc, phạm hạnh đã thành, đã làm những việc cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã hoàn toàn đoạn trừ các kiết sử, đã hoàn toàn đạt được giải thoát nhờ chánh trí. Ngay cả thân của quý vị ấy cũng phải chịu sự tan rã, cũng phải bị vứt bỏ. (Tương Ưng Bộ Kinh I).

Đức Phật nhập Niết Bàn
Đức Phật nhập Niết Bàn (Ảnh minh họa)

Qua đoạn đối thoại giữa vua Ba-tư-nặc và đức Phật, đã cho chúng ta thấy rằng giữa cuộc đời này, khi con người sinh ra không ai có thể tránh được sự già và chết. Không một giai cấp, địa vị nào có thể trốn tránh được điều này. Không phải một người thuộc giai cấp thống trị quyền quý, giàu có đại phú gia hay là giai cấp Bà-la-môn được nhiều người kính trọng cho đến những bậc thoát ly đời sống tầm thường, chứng đắc Thánh quả A-la-hán, đoạn trừ các lậu hoặc… mà có thể mua chuộc sự già và chết hay đi ngoài sự già và chết.

Như vậy, chúng ta cần phải làm gì với sự già và chết, khi mà cuộc sống của chúng ta cứ dần trôi qua từng ngày? Điều quan trọng chúng ta cần lưu tâm đến không phải là làm sao để tránh được sự già và chết trong cõi nhân sinh này, mà chúng ta cần quan tâm nhiều hơn là sau khi chết chúng ta sẽ đi về đâu? Tái sanh vào cảnh giới nào? Khổ đau hay hạnh phúc? Đồng thời, làm sao để làm chủ được con đường tái sinh của chính mình?

Chúng sanh với nghiệp nhân và nghiệp quả

Trong bài kinh Abhinhapaccavekkhitabbhattatthanasutta, phần Pancakanipata, thuộc Tăng Chi Bộ Kinh, đức Phật thuyết dạy về nghiệp và quả của nghiệp rằng: 

“Ta có nghiệp của riêng ta. Ta là người thừa hưởng quả của nghiệp. Nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con quyến thuộc của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện nghiệp hoặc ác nghiệp’, ta là người thừa hưởng quả an lạc của thiện nghiệp hoặc quả khổ của ác nghiệp ấy”.

Lại nữa, đức Phật cũng từng dạy: 

“Này chư Tỳ-kheo! Sau khi đã có tác ý rồi mới tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý”. (Trích Tăng Chi Bộ Kinh, phần Chakkanipata, kinh Nibbedhikasutta).

Nghĩa là, khi thân, khẩu, ý tạo nên một điều lành hoặc một điều ác nào đó với một đối tượng hay là nhiều đối tượng bên trong thân hay bên ngoài thân, đều bắt nguồn từ sự tác ý, sự hướng tâm suy nghĩ đến đối tượng ấy. Lúc này, sự tác ý như vậy được gọi là nghiệp.

Đối với chúng ta là những người đệ tử Phật, những người đi trên lộ trình học đạo chuyển hóa thân tâm, hướng đến con đường tỉnh thức, tìm về giải thoát, thì chúng ta cần phải học và hành theo lời Phật dạy trong đời sống thường ngày.
Đối với chúng ta là những người đệ tử Phật, chúng ta cần phải học và hành theo lời Phật dạy trong đời sống thường ngày.

Đối với chúng ta là những người đệ tử Phật, những người đi trên lộ trình học đạo chuyển hóa thân tâm, hướng đến con đường tỉnh thức, tìm về giải thoát, thì chúng ta cần phải học và hành theo lời Phật dạy trong đời sống thường ngày.

Tự thân chúng sanh là chủ nhân của nghiệp

Vì sự tác ý tạo nghiệp được khởi sinh từ trong chính bản thân của mỗi người, nên khi nghiệp hình thành thiện hay ác là nghiệp riêng của mỗi người không phải của ai khác, không liên quan đến một ai khác. Khi đó, mỗi người cũng là chủ nhân của nghiệp mà mình tạo nên. Không có ai có quyền thay đổi hay lấy đi.

Lại nữa, khi xét về tính chất duyên sinh, nhân quả, thì một khi đã tác ý tạo nghiệp, nghiệp được hình thành sau một thời gian sẽ cho quả của nghiệp. Bấy giờ, người tạo nghiệp sẽ chính là người thừa hưởng quả nghiệp, không ai thay thế nhận giúp. Và khi ấy, quả của nghiệp mang lại sự bình an hạnh phúc hay bất hạnh khổ đau, thì mỗi người cũng phải chấp nhận, không thể chối từ và trốn tránh được.

Bên cạnh đó, khi nghiệp đã gieo tạo dù ít hay nhiều, nặng hay nhẹ mà chưa cho quả ngay nơi kiếp sống hiện tại, thì nó sẽ được tích lũy lưu chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Chính vì nguyên nhân này, phần nhiều chúng sinh trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi, tái sanh mãi không thôi.

Trong Trung Bộ Kinh, bài kinh số 135, kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt, đức Phật từng có lời dạy với thanh niên Subha rằng:

– Này Subha! Trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà nào là người sát hại sinh mạng của chúng sinh, là người tàn nhẫn có bàn tay đẫm máu, hăng say trong sự sát sinh, không có lòng thương xót đến tất cả chúng sinh cùng khổ… Sau khi người ấy chết, ác nghiệp sát sinh ấy có cơ hội cho quả tái sinh trong các cõi ác giới, chịu quả khổ trong cõi ác giới ấy…

– Này Subha! Trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà nào là người không sát hại sinh mạng của chúng sinh, là người tránh xa sự sát sinh, từ bỏ khí giới sát sinh, có tâm biết hổ thẹn tội lỗi và biết ghê sợ tội lỗi, có lòng thương xót đến tất cả chúng sinh cùng khổ, có tâm từ, tâm bi tế độ đến tất cả chúng sinh… Sau khi người ấy chết, dục giới thiện nghiệp không sát sinh ấy có cơ hội cho quả tái sinh trên cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trên cõi trời ấy…

Kinh văn trên một lần nữa khẳng định rằng, chúng ta là chủ nhân của nghiệp, là người thừa kế nghiệp mà chúng ta đã tạo qua những hành động tác ý thiện hay xấu ác, để rồi phải nhận lãnh quả báo cho đời sống hiện tại và cho những đời sống về sau.

Nghiệp báo vô cùng đáng sợ

Quán xét nhân quả của nghiệp

Như vậy, từ một số trích dẫn về lời đức Phật dạy trong kinh tạng, mỗi chúng ta hãy quán sát lại tự thân qua những hành động, việc làm thường ngày đã tạo nên những thiện nghiệp hay ác nghiệp. Từ đó, chúng ta sẽ biết được sau khi thân hoại mạng chung, chúng ta sẽ tái sinh vào cảnh giới nào, đi về đâu, về chốn bình yên hạnh phúc hay là nơi khổ cảnh xót thương.

Sự học và hành không chỉ dựa trên mặt lý thuyết suông một ngày hai ngày, mà là cả một chặng đường dài.
Sự học và hành không chỉ dựa trên mặt lý thuyết suông một ngày hai ngày, mà là cả một chặng đường dài.

Không gì vượt ngoài luật nhân quả

Niềm tin Tam Bảo

Đối với chúng ta là những người đệ tử của đức Phật, những người đi trên lộ trình học đạo chuyển hóa thân tâm, hướng đến con đường tỉnh thức, tìm về giải thoát, thì chúng ta cần phải học và hành theo lời Phật dạy trong đời sống thường ngày. Sự học và hành không chỉ dựa trên mặt lý thuyết suông một ngày hai ngày, mà là cả một chặng đường dài. Vì lẽ đó, chúng ta cần phải có lòng tin chân thật, vững chắc nơi Tam Bảo; tin nơi đức Phật là bậc giác ngộ giải thoát vượt thoát khổ đau; tin nơi giáo pháp là con đường đưa đến sự giải thoát; và tin nơi Tăng là đoàn thể Tăng chúng thanh tịnh, thay mặt chư Phật hoằng truyền giáo pháp.

Vun bồi thiện nghiệp

Khi chúng ta thực hiện được những điều này, thì đồng nghĩa những thiện nghiệp của chúng ta ngày càng tăng trưởng, và những ác nghiệp, bất thiện pháp dần được đẩy lùi, chuyển hóa. Có như vậy, khi kết thúc kiếp sống hiện tại, chúng ta sẽ được sanh về cảnh giới an lành, tốt đẹp là điều đương nhiên.

Ví như một người nhận chìm một chiếc bình sữa, hay một bình dầu vào trong một hồ nước sâu và rồi đập bể chiếc bình ấy. Lúc này, các mảnh vỡ của chiếc bình sẽ chìm xuống, còn chất sữa hay dầu ấy sẽ nổi lên trên mặt nước. Hay giống như một thân cây khi sống hướng về phía ánh sáng mặt trời hay một hướng nào đó, thì lúc giông bão đến hoặc có người chặt đi gốc rễ nó, nó sẽ ngã về hướng ấy, không thể ngã về hướng ngược lại được.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh 5, bài kinh số 21, kinh Mahanama, phẩm Saranani, có một câu chuyện như sau:

Một thời, Thế Tôn trú giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Rồi họ Thích Mahanama đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, họ Thích Mahanama bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Kapilavatthu này là phồn vinh, phú cường, dân cư đông đúc, quần chúng khắp nơi chen chúc, chật hẹp. Bạch Thế Tôn, sau khi con hầu hạ Thế Tôn hay các Tỷ-kheo đáng kính, vào buổi chiều, con đi vào Kapilavatthu, con gặp con voi cuồng chạy, con gặp con ngựa cuồng chạy, con gặp người cuồng chạy, con gặp cỗ xe lớn cuồng chạy, con gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy. Trong khi ấy, bạch Thế Tôn, tâm con nghĩ đến Phật bị hoang mang, tâm con nghĩ đến Pháp bị hoang mang, tâm con nghĩ đến chúng Tăng bị hoang mang. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Nếu lúc ấy con mệnh chung, thời sanh thú của con là gì, sanh xứ đời sau chỗ nào?”.

Lúc bấy giờ, đức Phật dạy:

– Chớ có sợ, này Mahanama! Chớ có sợ, này Mahanama! Không ác sẽ là cái chết của ông! Không ác là cái chết của ông! Này Mahanama, với ai đã lâu ngày tâm tu tập trọn vẹn về tín, tâm tu tập trọn vẹn về giới, tâm tu tập trọn vẹn về sở văn, tâm tu tập trọn vẹn về thí xả, tâm tu tập trọn vẹn về trí tuệ; với người ấy, dầu thân có sắc này, do bốn đại hợp thành, do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng, có bị vô thường phá hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt; dầu cho thân này ở đây bị quạ ăn, chim kên ăn, chim ưng ăn, chó ăn, hay giả can ăn, hay các loại chúng sanh sai khác ăn; nhưng nếu tâm của vị ấy được lâu ngày tu tập trọn vẹn về tín, tu tập trọn vẹn về giới, tu tập trọn vẹn về sở văn, tu tập trọn vẹn về thí xả, tu tập trọn vẹn về trí tuệ, thời tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù thắng.

Chính chúng ta sẽ là người quyết định con đường đi của chính mình, chứ không phải một ai khác.
Chính chúng ta sẽ là người quyết định con đường đi của chính mình, chứ không phải một ai khác.

Ví dụ ghè sữa bơ

– Ví như, này Mahanama, một người nhận chìm một ghè sữa bơ, hay một ghè dầu vào trong một hồ nước sâu và đập bể ghè ấy. Ở đây, các mảnh ghè hay mảnh vụn chìm xuống nước; nhưng sữa, bơ hay dầu thời nổi lên, trồi lên trên. Cũng vậy, này Mahanama, với ai đã lâu ngày tâm được tu tập trọn vẹn về tín, tâm được tu tập trọn vẹn về giới, tâm được tu tập trọn vẹn về sở văn, tâm được tu tập trọn vẹn về thí xả, tâm được tu tập trọn vẹn về trí tuệ; với người ấy, thân có sắc này, do bốn đại hợp thành, do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng, có bị vô thường phá hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, đoạn diệt; dầu cho thân này ở đây bị quạ ăn, chim kên ăn, chim ưng ăn, chó ăn, giả can ăn hay các sanh loại sai khác ăn; nhưng nếu tâm của vị ấy được lâu ngày tu tập trọn vẹn về tín, tu tập trọn vẹn về giới, tu tập trọn vẹn về sở văn, tu tập trọn vẹn về thí xả, tu tập trọn vẹn về trí tuệ; thời tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù thắng.

Ví dụ gốc cây nghiêng

Tiếp đó, bài kinh số 22, thuộc Tương Ưng Bộ Kinh 5, kinh Mahanama, phẩm Saranani, đức Phật có lời dạy với ngài Mahanama như sau:

– Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng… Phật, Thế Tôn… Đối với Pháp… đối với Tăng… thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến thiền định.

– Ví như, này Mahanama, một cây thiên về phía Ðông, hướng về phía Ðông, xuôi về phía Ðông, nếu bị chặt đứt từ gốc rễ, nó sẽ ngã về phía nào?

Mahanama trả lời:

– Bạch Thế Tôn, về phía nào nó thiên, về phía nào nó hướng, về phía nào nó xuôi.

Đức Thế Tôn khẳng định:

– Cũng vậy, này Mahanama, do thành tựu bốn pháp này, vị Thánh đệ tử thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn.

Như vậy, với hai trích dẫn lời đức Phật dạy cho ngài Mahanama cùng những ví dụ chân thật, đã một lần nữa cho chúng ta biết rằng kết quả của con đường tái sinh sau khi chúng ta kết thúc kiếp sống này sẽ đi về đâu? Và hơn hết, qua đây chúng ta biết rằng chính chúng ta sẽ là người quyết định con đường đi của chính mình, chứ không phải một ai khác. Điều này được góp nhặt và đúc kết từ những gì mà chúng ta tạo nên ngay đời sống hiện tại này.

Tâm Bá

Thọ giới đối với sự an lạc của mọi người

Thọ giới đem đến cuộc sống an lạc, dù giàu hay nghèo

Các vị giới tử,

Hôm nay các vị đến đây để lãnh thọ giới pháp của Phật. Đó là một việc làm có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ sự thọ giới mà chúng ta trở thành một Phật tử chân chính, lợi mình, lợi người, lợi tất cả chúng sinh và làm cho Phật pháp miên trường giữa thế gian. Vì lẽ đó quý vị nên lắng hết tâm thành để lãnh thọ những lời Phật dạy qua sự giáo giới của chư Tăng.

Ngày nay Phật tử đến với giáo pháp của Phật là cốt tìm một phương pháp giải thoát an lạc; cũng như ngày xưa Phật còn tại thế, các vị cư sĩ cũng đi đến với Ngài để cầu mong sự chỉ giáo nơi Ngài, hầu đem lại cho họ một cuộc sống hạnh phúc an vui.

Kinh Tăng chi bộ III.A ghi lại rằng:

Một hôm, một cư sĩ tại gia đệ tử tên là Dighajanu (đầu gối dài) đi đến Thế Tôn, đảnh lễ và bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn, chúng con là những người gia chủ, còn hưởng thọ các dục, sống hệ phược với vợ con, dùng các thứ hương hoa, phấn sáp, thọ lãnh vàng bạc. Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy thuyết pháp cho những người như chúng con; thuyết thế nào để những pháp ấy đem đến cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại và hạnh phúc an lạc trong tương lai”.

Ngày nay, các Phật tử tại gia đến đây, dù không nói rõ trong tâm tư, nhưng có lẽ cũng ôm ấp một hoài bão tương tự, ấy là làm thế nào để với tư cách một tại gia cư sĩ còn thọ hưởng dục lạc, có được một đời sống hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại và cả về tương lai.

Ngày xưa Phật còn tại thế, các vị cư sĩ cũng đi đến với Ngài để cầu mong sự chỉ giáo nơi Ngài, hầu đem lại cho họ một cuộc sống hạnh phúc an vui.
Ngày xưa Phật còn tại thế, các vị cư sĩ cũng đi đến với Ngài để cầu mong sự chỉ giáo nơi Ngài, hầu đem lại cho họ một cuộc sống hạnh phúc an vui.

Mặc dù vị thương gia này sống với dục lạc thế gian, song ông nhận thấy những tài sản vật chất chỉ giúp cho ông sống chứ không giúp cho ông an lạc.

Ở giữa quyến thuộc vợ con đầy đủ, danh vọng tràn trề, tài sản sung túc, nhưng nếu tâm tư còn trĩu nặng âu lo, sợ hãi, tham lam, thù hận, thèm khát, thì dĩ nhiên sự sống đó chưa phải là sự sống an lạc. Cầu mong Phật ban cho một phương pháp đem lại cho ông hạnh phúc lâu dài, ông cư sĩ ấy còn nhấn mạnh, trong khi vẫn thụ hưởng dục lạc, chứ không phải cạo tóc xuất gia sống đời sống thoát tục như những vị Tỳ-kheo. Đó là một lời hỏi rất chân thành, tha thiết đồng thời cũng là một viên đá thử vàng.

Đạo Phật dù cao siêu vi diệu thật, nhưng có ích lợi gì cho cái tuyệt đại đa số người còn lăn lóc trong thế gian hay không? Hay muốn theo Phật thì phải ly gia cát ái? Câu trả lời của Phật sau đây cho chúng ta thấy rằng, đức Phật đặc biệt chú trọng đến đời sống của tại gia cư sĩ biết là dường nào.

Pháp tu của người cư sĩ hướng tới hạnh phúc trong hiện tại

Phật dạy người ấy rằng: “Này cư sĩ, có bốn pháp này đưa đến hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại cho thiện nam tử. Thế nào là bốn? Đó là 1. Đầy đủ sự tháo vát; 2. Đầy đủ sự phòng hộ; 3. Làm bạn với thiện; 4. Sống thăng bằng điều hòa.

1. Thế nào là đầy đủ sự tháo vát?

Đầy đủ sự tháo vát nghĩa là, tại gia cư sĩ dù làm nghề nghiệp gì cũng cần phải tinh xảo, siêng năng không biết mệt mỏi; biết suy tư, hiểu phương tiện, vừa đủ để tự làm và điều khiển người khác làm.

2. Thế nào là đầy đủ sự phòng hộ.

Đầy đủ sự phòng hộ nghĩa là những tài sản đã do tháo vác siêng năng mà thu hoạch được, do mồ hôi đổ ra đúng pháp kiếm được phải khéo gìn giữ phòng hộ, để cho khỏi bị vua mang đi, bị trộm cướp mang đi, bị lửa đốt, bị nước trôi, bị con hư hỏng phá tan. Đây là những lời dạy rất thiết thực.

Vì hàng tại gia không như xuất gia khất thực để sống, mà còn phải có nhiều bổn phận đối với cha mẹ, vợ con quyến thuộc, cho nên cần phải có một nghề nghiệp chính đáng để làm ra của cải. Muốn thế, cần phải siêng năng, tinh xảo trong công việc, nghề nghiệp của mình. Nếu không siêng năng tháo vác thì đã bị lôi cuốn vào những việc bất chính để kiếm tiền. Một khi mạng sống không chính đáng như vậy, của cải làm được do nghề nghiệp bất lương sẽ bị vua chúa tịch thâu.

Vậy, cách giữ gìn cửa cải khỏi bị vua mang đi là phải có nghề nghiệp chính đáng. Nhưng tài sản đã do mồ hôi kiếm được một cách khó khăn như thế cần phải đề phòng các tai nạn nước, lửa, trộm và nhất là con hư phá tán. Đây là lời dạy rất thiết thực. Có nhiều nhà giàu có, vì quá thương con mà để chúng xài phí của cải không tiếc vào những cuộc cờ bạc rượu chè say sưa, như vậy là dung dưỡng những kẻ bất lương phá của, hại cho gia đình, xã hội và quốc gia. Vì khi nó đã phá của cha mẹ hết rồi sẽ đi phá làng xóm láng giềng, hại cả mọi người.

Bởi thế, Phật dạy có tiền cần phải phòng hộ, đừng để lọt vào tay những đứa con hư hỏng. Nghĩa là ngoài việc làm giàu, cần nên giáo dục con cái cho cẩn thận nữa.

Lời Đức Phật dạy về quản lý kinh tế gia đình

3. Thế nào là làm bạn với thiện?

Làm bạn với thiện nghĩa là, tại nơi mình sống, làng hay thị trấn, mà có những người gia chủ hay con trai gia chủ có giới đức, đầy đủ lòng tin, bố thí, trí tuệ thì nên làm quen nói chuyện, thảo luận với họ. Từ những người đầy đủ lòng tin, hãy học tập lòng tin; từ những người đầy đủ giới đức, học tập giới đức; từ những người đầy đủ bố thí, học tập bố thí; từ những người đầy đủ trí tuệ học tập trí tuệ. Đây là làm bạn với thiện.

Hai lời dạy đầu là dạy làm ra của cải vật chất và giữ gìn nó. Đến điều thứ ba này là dạy về pháp tài đức, của cải, tinh thần, tâm linh để thế gian khỏi chê cười là nhà giàu có của mà vô lương tâm. Vậy, người tại gia phải trau dồi Phật pháp để có những ngôn ngữ, hành động, ý nghĩ phù hợp với giáo lý để trở thành một nhân cách cao thượng.

Và bốn pháp tạo hạnh phúc cho tương lai, đời sau là: lòng tin, giới đức, bố thí và trí tuệ.
Bốn pháp tạo hạnh phúc cho tương lai, đời sau là: lòng tin, giới đức, bố thí và trí tuệ

Và bốn pháp tạo hạnh phúc cho tương lai, đời sau là: lòng tin, giới đức, bố thí và trí tuệ. Có đủ tám điều như vậy, thì giờ phút nào, ở đâu, chúng ta cũng xứng đáng là Phật tử, không những lợi ích cho chính mình mà còn cho nhiều người khác.

4. Thế nào là sống thăng bằng điều hòa?

Sống thăng bằng điều hòa nghĩa là: Sau khi làm ra của cải, cần phải chi dùng một cách thích ứng, nghĩa là không quá phung phí mà cũng không quá bỏn xẻn. Nếu số xuất quá số nhập là người tiêu pha quá rộng rãi, thì dễ bị phá sản và còn hỏng mất cả tâm tư. Ngược lại, quá bỏn xẻn, không dám tiêu tiền thì trở thành nô lệ cho của cải.

Người làm chủ của cải vật chất thì sống an lạc, mà bị vật chất làm chủ thì đó là người nô lệ, khổ sở. Làm chủ vật chất là cần phải tiêu dùng thì cứ tiêu dùng, không cần tiêu dùng thì giữ lại. Người bị của cải làm chủ thì có tiền cứ giữ bo bo, tiêu dùng cho bản thân cũng không dám, nói gì đến gia quyến, vợ con và bố thí cho người ngoài.

Như vậy, sống thăng bằng có nghĩa là không phung phí cũng không hà tiện. Phật dạy đến bốn nguyên tắc để sống điều hòa là, cần phải đóng bốn cửa ngõ cho tài sản khỏi đi ra: một là đam mê sắc dục, hai là đam mê rượu chè, ba là đam mê cờ bạc, và bốn là giao du kẻ ác. Nếu đóng bốn cửa ấy lại thì tài sản không bị thất thoát vô ích, gia chủ sẽ được sống hạnh phúc, an lạc.

Khi Phật dạy làm bạn với thiện để trau dồi lòng tin, giới đức, bố thí và trí tuệ, chính là bốn điều để sống an lạc trong tương lai.

  • Phật tử quy y Tam Bảo là thực hiện đầy đủ lòng tin.
  • Hôm nay, quý Phật tử đến thọ giới chính là để thực hiện điều thứ hai: đầy đủ giới đức. Là Phật tử mà không giữ gìn giới hạnh, hành động tà vạy, không xứng đáng lời dạy của đức Thế Tôn, thì dù có xưng là Phật tử cũng không phải là Phật tử. Cho nên có đầy giới đức mới xứng đáng là con Phật.
  • Thứ ba, đầy đủ bố thí. Bố thí là hạnh đầu tiên mà đức Phật dạy cho tất cả những ai đến với Ngài. vì lòng tham ô đứng đầu mọi tệ ác cần phải được điều phục bằng hạnh bố thí. Bố thí là san sẻ vật chất, khả năng, công lực, hiểu biết, tình cảm, giáo lý v.v… tất cả những gì mình có mà người khác không có. Một nụ cười với người đang sợ hãi cũng là một sự bố thí, đôi khi có tác dụng rất lớn lao. (Có người lắm khi chỉ một nụ cười mà người ta cũng ngăn lại không cho mở ra?). Bố thí cao nhất là mở rộng lòng, mở rộng tâm tư. Nếu chỉ biết thu mà không biết xuất thì người ấy là một người bỏn xẻn, ích kỷ. Xã hội mà gồm những người như vậy thì không hạnh phúc. Một gia đình ai cũng chỉ nghĩ cho bản thân thì gia đình ấy không hạnh phúc. Bố thí trước hết là để dứt lòng tham, dứt tính bỏn xẻn và dứt lòng ganh tị. Có của, có quyền, có danh đều nên bố thí, san sẻ. Bố thí, san sẻ danh dự như thế nào? Khi được người trân trọng mà mình đối lại bằng khiêm cung thì đó chính là bố thí danh dự của mình. Như vậy chẳng những tạo được hạnh phúc cho mình mà còn đem lại an vui hạnh phúc cho người. Bởi thế nên, không phải chỉ có tiền của mới bố thí, mà hễ có thân, có tâm là có thể bố thí được cả. Nếu trong tâm mọì người đều luôn nghĩ đến bố thí thì sự đua tranh, ganh tị sẽ giảm bớt rất nhiều.
  • Điều thứ tư là đầy đủ trí tuệ. Người Phật tử là con đấng Đại giác. Ngài đã chứng ngộ tất cả vũ trụ, tâm tánh chúng sinh, nên dạy giáo pháp phù hợp với căn cơ, trình độ để chúng sinh nhờ đó nuôi lớn tâm hồn. Là con đấng Giác ngộ mà u mê thì thật không xứng, nên cần phải trau dồi trí tuệ. Phật dạy: “Mọi sự tuần hoàn trong nhân duyên nhân quả”. Nghe như vậy, chúng ta cần phải suy xét ra như thế nào? Nghe là văn tuệ; suy xét là tư tuệ. Như nghe cho đúng, có đầu có đuôi rõ ràng mới là văn tuệ. Có người đi nghe pháp về, có ai hỏi chỉ biếl trả lời: “Hay lắm mà không nhớ gì cả”. Vậy cần phải ghi nhớ mỗi khi một ít, để tư duy rồi tu tập theo đó, tức là tu tuệ. Có thực hành giáo lý bằng kinh nghiệm bản thân thì mới hiểu thấu lời Phật dạy.

Như ngày xưa, có lần Phật đi giữa đồng, tay chỉ vào một bụi rậm bảo “Độc xà, A-nan?”. Tôn giả A-nan nhìn vào, cũng nói “Đại độc xà, Thế Tôn”. Tình cờ một nông phu đi sau lưng nghe lén, bèn vào xem là cái gì, anh ta khám phá thấy một hủ đầy vàng ròng, vô cùng mừng rỡ, bảo thầm: “Nghe đồn Thế Tôn là bậc Nhất thiết trí, cái gì cũng biết, vậy mà vàng đây, ổng lại bảo là rắn độc?”. Anh liền khiêng vàng về, tậu mãi nhà cửa, ruộng đất, xe cộ… Xóm giềng thấy anh lâu nay nghèo kiết xác, ăn bữa hôm lo bữa mai, nay bỗng dưng phát giàu, thì không khỏi nghi ngờ, lên trình quan. Quan gọi lên tra hỏi và về nhà lục xét, lấy hết vàng bạc và bắt anh bỏ tù.

Ngồi trong ngục tối anh mới thấm thía lời Phật dạy. Anh tưởng là từ nay sẽ được ăn cao lương mĩ vị, thì ngược lại bị giam đói Anh tưởng từ nay được ở nhà cao cửa lớn, hóa ra lại nằm trong ngục. Cảm khích, anh ta kêu to: “Độc xà, A-nan! Đại độc xà, Thế Tôn!”. Quan giữ ngục nghe, hỏi lý do, anh ta kể đầu đuôi câu chuyện rồi kết luận: “Giờ phút này ở trong tù, con mới tỉnh ngộ, tin hiểu lời Phật dạy thật sâu xa vô cùng”.

Không dễ gì ngày nay: Phật tử chúng ta đã tỉnh ngộ, tin theo lời dạy của Thế Tôn. Giả sử một sớm mai đẹp trời, đi giữa đường gặp thỏi vàng như vậy, chúng ta có mang về không? Chắc cũng mang về cho nên, lắm lúc người ta bảo Phật dạy không thực tế, viển vông, nhưng hàng Phật tử cần nhận thức cho rõ có phải lời Phật là chí lý hay không?

Chẳng qua: vì lòng tham của chúng ta còn quá nặng, nên không làm ngơ được. Nhưng khi chưa nghe lời Phật dạy thì chúng ta sử dụng vàng một cách khác, khi đã nghe, sử dụng cách khác. Nghĩa là, phải biết bắt rắn như thế nào cho nó khỏi cắn. Ở đây, là đừng vị kỷ, vì tất cả việc làm vị kỷ đều xấu, vị tha đều tốt. Nếu đem vàng về mà làm việc lợi tha thì đó là biết cách bắt rắn.

Không những vàng mà mọi chuyện khác cũng đều như vậy. Nếu thiếu trí tuệ, thì chúng ta làm sao hiểu rõ lời dạy thâm thúy và hạnh phúc mà lời dạy ấy sẽ mang lại cho ta? Vàng mà bảo là rắn độc, thì cũng không khác gì nói “đời là đau khổ”! Nếu không có trí tuệ, chúng ta cũng sẽ bảo như anh nông phu kia rằng: “Thật là viển vông? Nào xi-nê, nào hát bội, nào cải lương… bao nhiêu chuyện vui như vậy mà lại nói là đau khổ!”

Có trí tuệ là có nhận thức, biết được sự việc trước khi nó xảy đến, chứ không phải chờ nó xảy ra rồi mới biết. Trí tự giác là một ngọn lửa sáng từ trong tâm khiến cho chư Phật và Bồ-tát, Tổ sư thấy ngay được chân lý, không cần thầy dạy, đó cũng gọi là vô sư trí, vô sư tự ngộ hay tự giác Thánh trí. Nhưng đó cũng là do công phu lâu đời lâu kiếp mới có được.

Phật dạy cho người tại gia bốn pháp an lạc cho hiện tại
bốn pháp an lạc cho hiện tại

Phật dạy cho người tại gia bốn pháp an lạc cho hiện tại là: tháo vác, phòng hộ của cải đã kiếm được bằng nghề chân chính; làm bạn với thiện và sống thăng bằng điều hòa.

Nếu là Phật tử mà lấy tà làm chánh, không biết phân biệt phải trái hay dở thì không phải có trí tuệ và dễ trở thành mê tín, dị đoan, tin theo là sư ngoại đạo. Do đó, điều thứ tư Phật dạy cho các Phật tử tại gia là phải trau giồi trí tuệ để được hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.

Hạnh phúc luôn ở trong ta

An lạc trong hiện tại

Tóm lại, Phật dạy cho người tại gia bốn pháp an lạc cho hiện tại là: tháo vác, phòng hộ của cải đã kiếm được bằng nghề chân chính; làm bạn với thiện và sống thăng bằng điều hòa. Và bốn pháp tạo hạnh phúc cho tương lai, đời sau là: lòng tin, giới đức, bố thí và trí tuệ. Có đủ tám điều như vậy, thì giờ phút nào, ở đâu, chúng ta cũng xứng đáng là Phật tử, không những lợi ích cho chính mình mà còn cho nhiều người khác.

Nếu không có trí tuệ hiểu rõ chánh pháp, chúng ta sẽ đi lạc vào đường tà. Như một Phật giáo, mà không biết bao nhiêu là hình thức, nếu Phật tử không nhận thức, thiếu trí tuệ thì không thể biết được chơn, giả. Cho nên, có trí tuệ là điều cần thiết để hộ trì chánh pháp.

Xưa, hiền triết Socrate đã hỏi và đã được một thanh niên trả lời rành rọt các nơi dạy may áo, đóng dày, làm mũ nón, nhưng đến khi nhà hiền triết hỏi anh có biết ở đâu dạy làm người không thì anh ta ngơ ngác. Áo, giày, mũ nón thật sang trọng nhưng nó không phải là người! Nếu không biết cách làm người thì dù có mang đầy các thứ đó cũng không thể làm người được. Nếu chúng ta học được đạo làm người thì giày ấy, mũ nón ấy, y phục ấy mới gọi là của người.

Hôm nay quý vị đến thọ giới cũng là để học cái đạo làm người, căn bản của tất cả Thánh vị; đạo ấy gồm trong ba đức Bi, Trí, Dũng, nên đức Phật được tôn xưng là Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi.

Mong rằng quý vị sẽ đem hết tâm thành để lãnh thọ giáo pháp. Cuối cùng xin nhắc lại câu của đạo hữu Tâm Minh Lê Đình Thám, một vị cư sĩ có công lớn đối với sự phục hưng Phật giáo Việt Nam để quý vị tinh tiến theo đó tu học:

Vui theo tham dục, vui là khổ,

Khổ để tu hành, khổ hóa vui.

HT.Thích Thiện Siêu

Tìm hiểu thêm: Cúng dường đúng chánh pháp Thầy Thích Đồng Thành- Chùa Thiên An – Nghệ Thuật Sống An Lạc

Đừng hưởng hết phước báu của mình!

Người nghèo không có tiền để bố thí thì làm sao tạo được phước báu? Vẫn được chứ! Trước hết hãy tạo cho mình nghiệp lành (ý nghĩ lành, miệng nói lành, thân làm việc lành) cũng tạo ra phước báu.

Hãy giữ gìn phước báu

Dân gian có câu: “Phước bất tận thâu, Lộc bất tận hưởng”. Tạm hiểu là: “Khi được phước, được lộc đừng bao giờ hưởng hết một mình, mà nên san sẻ”. San sẻ bằng cách nào? Có nhiều cách, như bố thí (giúp đỡ người già neo đơn, trẻ em tật nguyền, người gặp hoạn nạn…), phóng sinh, cúng dường tạo phước, làm việc hiếu, việc đạo thì mới bền, nếu không thì dễ bị quả báo. Nên chăm làm phước, chớ ích kỷ hại nhân lợi mình, hại người sẽ được hưởng phúc lành. Đời sống xã hội hiện đang bị đầu độc bởi thực phẩm bẩn độc hại, ngâm tẩm hóa chất; nhiều cơ sở sản xuất ngang nhiên xả những chất độc hại ra môi trường…

Những kẻ vô đạo đức, táng tận lương tâm chỉ vì muốn làm giàu trên nỗi đau khổ của người khác đang hàng ngày, hàng giờ đầu độc đồng bào, gián tiếp phạm tội “sát sinh”, tạo nghiệp bất thiện thì làm sao được phước báu?

Tích phước và tiết kiệm Phước
Tích phước và tiết kiệm Phước

Theo đạo Phật, muốn được hưởng phước báu dài lâu thì tài sản ta kiếm được phải bằng con đường chân chính, lương thiện.

Vậy muốn được phước báu chúng ta phải làm gì?

– Phải tích phước và (tiết) kiệm phước!

Có một ông thầy tướng số nói với tôi rằng: “Phàm những ai giàu sớm mà không biết tạo phước, tích phước thì thường chết sớm, hoặc cuối đời không đâu vào đâu cả!”. Tôi hỏi tại sao? Thầy cười bảo: “Lúc trẻ sung sướng, cái gì trên đời cũng có cũng hưởng hết rồi mà không tạo ra được phước mới thì làm gì mà không chết sớm hoặc cuối đời phải chịu khổ cực!”.

Theo Phật pháp thì đó gọi là tự đánh mất phước báu của mình! Dân gian có câu: “Đại phú do trời, tiểu phú do (chuyên) cần”. Có người sinh ra trong nhung lụa, có người cả đời sống trong khốn khó. Khi sinh ra, con người không thể chọn được mình là người thế nào! Sướng hay khổ, sang hay hèn…, tất cả đều do có được hưởng hay không được hưởng phước báu mà thôi! Phước báu có tuần hoàn, có tăng trưởng và có tiêu diệt! Vậy làm thế nào để có được phước báu và phước báu được tăng trưởng?

Nuôi dưỡng hạt giống lành, giúp tăng trưởng phước báu
Nuôi dưỡng hạt giống lành, giúp tăng trưởng phước báu

Người đang gặp chuyện gia đình buồn khổ, ta dùng giáo lý nhà Phật giảng giải, khuyên nhủ họ năng đi chùa lễ Phật, sám hối cầu tiêu tan tai ách cho bớt khổ, đó là pháp thí.

Tích phước hành thiện

Doanh nhân người Mỹ Bill Gates biết làm từ thiện ngay từ khi kiếm được những đồng đô la đầu tiên từ phần mềm máy tính. Khi tài sản của ông chưa thấm vào đâu so với giới tỷ phú Mỹ lúc bấy giờ, Bill đã nổi tiếng với việc năng làm từ thiện, không dùng đồ đắt tiền và không tiệc tùng nhậu nhẹt! Đến nay, tài sản của Bill tăng dần từ vài tỷ lên đến hơn cả trăm tỷ USD! Không một ai vượt qua được Bill trong suốt vài thập niên vừa qua! Và đến nay ông vẫn làm từ thiện đều đều. Ông tỷ phú này biết cách tích phước, biết cho đi để được nhận lại…

Theo đạo Phật, muốn được hưởng phước báu dài lâu thì tài sản ta kiếm được phải bằng con đường chân chính, lương thiện và nên chia làm 4 phần sử dụng vào các việc sau đây:

1. Một phần để sử dụng cho việc kinh doanh và sinh hoạt hàng ngày.

2. Một phần để dự phòng khi đau ốm hoặc có việc đột xuất.

3. Một phần để giúp đỡ bà con quyến thuộc còn nghèo khó.

4. Và một phần để làm từ thiện, công đức, cúng dường.

Lời Đức Phật dạy về quản lý kinh tế gia đình

Đừng hưởng hết phước báu của mình! - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê

Hãy tạo cho mình nghiệp lành (ý nghĩ lành, miệng nói lành, thân làm việc lành) cũng tạo ra phước báu.

Như vậy, có tới 2 phần là để làm từ thiện, để cho đi! Không biết ông Bill Gates có phải là Phật tử không, mà lại làm đúng như vậy? Điều có vẻ “ngược đời” là muốn giữ được phước báu, thì lại phải cho đi (bố thí) thật nhiều!

Nghèo… nhưng vẫn có thể hành thiện

Vậy người nghèo không có tiền để bố thí thì làm sao tạo được phước báu? Vẫn được chứ! Trước hết hãy tạo cho mình nghiệp lành (ý nghĩ lành, miệng nói lành, thân làm việc lành) cũng tạo ra phước báu. Người đem tiền hoặc quần áo cho người nghèo, giáo lý nhà Phật gọi việc bố thí bằng tiền của là tài thí.

Người không có tiền cũng bố thí được, đó là bố thí bằng lời nói hoặc bằng hành động giúp đỡ. Ví dụ, người đang gặp chuyện gia đình buồn khổ, ta dùng giáo lý nhà Phật giảng giải, khuyên nhủ họ năng đi chùa lễ Phật, sám hối cầu tiêu tan tai ách cho bớt khổ, đó là pháp thí. Lại có cụ già, trẻ nhỏ đứng lo lắng bất an không dám sang đường đông xe cộ qua lại, ta đến dắt tay họ dẫn sang đường được an toàn, đó là vô úy thí.

Tạp chí Nghiên cứu Phật học số tháng 7/2016

Thanh Tùng

Tìm hiểu thêm Video: Tầm quan trọng của phước báu – Thầy Thích Đồng Thành

Nhật ký đi tìm người thầy lý tưởng

Đôi cánh của con chim non mới lớn còn sung sức. Nó vùng mình giữa trời cao truy tìm người thầy lý tưởng. Nó hỏi thăm khắp nơi và rồi cũng có người giới thiệu. Nó mừng rỡ, vui sướng đi nhận người mới vừa được giới thiệu ấy làm thầy…

Mảnh ký ức…Người Thầy

Ngày đó, có đứa bỏ Thầy đi. Nó bỏ mặc Thầy, với cả khung trời nặng trĩu – trĩu lòng với biết mấy tình thương, trĩu lòng với biết bao điều lo sợ. Nó có hay? Thầy thương Nó quá chừng – cái đứa ở với Thầy, được Thầy đèo bồng, dẫn dắt từ cái thuở bé xíu xiu,…Bao nhiêu tình thương, bao nhiêu kỉ niệm tình Thầy Trò từ cái thuở lên ba đến bây giờ… Hôm nay….đùng một phát, Nó cuốn gói bỏ Thầy đi. Thử hỏi xem, lòng Thầy sao mà không đau?….

Nó tự ý bỏ Thầy đi, nhưng lòng Thầy vẫn nơm nớp lo. Thầy sợ Nó trẻ – nông nổi dại khờ, không đủ sự khôn khéo, rồi mai kia bị dòng đời dụ dỗ, gai đời vùi dập, sóng đời xô ngã, gã chèo thuyền – tay lái còn non nớt như Nó, liệu có buông tay? Tâm Thầy sợ, không biết cái chí của Nó có đủ sức để vượt qua, mà tiếp tục vững vàng đi trên con đường học đạo nữa hay không?

Xuất gia theo Thầy "Lý Tưởng"
Xuất gia theo Thầy “Lý Tưởng”

Lòng Thầy quá chừng…Nó có hay?

Nó quyết lòng, dứt áo ra đi. Bởi lẽ, trong trái tim tuổi trẻ của Nó đang rạo rực hai từ lý tưởng và Nó quyết sẽ đi tìm.

Nó tìm gì?

– Một người thầy lý tưởng.

Vậy người mà bao lâu nay Nó ở bên cạnh không lý tưởng à?

– Không – một câu gọn lỏn.

Ồ…..Vậy Nó đi tìm đi.

Đôi cánh của con chim non mới lớn còn sung sức. Nó vùng mình giữa trời cao truy tìm người thầy lý tưởng. Nó hỏi thăm khắp nơi và rồi cũng có người giới thiệu. Nó mừng rỡ, vui sướng đi nhận người mới vừa được giới thiệu ấy làm thầy…

Tuổi trẻ chưa từng trải, mãi ôm giấc mộng do chính mình vẽ mà mơ màng. Người Thầy lý tưởng rồi thì cũng chỉ nằm lại trong trang vẽ dở dang của kẻ hay mơ. Liệu người thầy ấy có hiện hữu trong cuộc đời? Thời gian và sự hiểu biết! Sẽ là người đã trả lời cho kẻ đi tìm hay mơ đó ?

Bỏ Thầy – người đã thương yêu, dạy dỗ cho mình suốt bao năm qua, chỉ vì thần tượng bức chân dung về một con người lý tưởng quá hoàn mỹ, đẹp đẽ trong từng nét vẽ ở những chương sách. Hay qua lời kể tuyệt vời của Ai đó.

Sự so sánh khập khiễng giữa hai con người trong tranh và đời thực. Thế rồi, bản thân Nó lại tự chuốc lấy khổ đau, do phán xét, giận hờn và oán trách…Tranh vẽ, hay câu chuyện là sự thoát hóa hoàn mỹ, nên bao giờ cũng hoàn thiện, chỉnh chu. Còn đời thực, nó là bức chân dung phô trần không son phấn ở cõi Ta Bà , là bức tranh thực nhất không có sự múa vẽ của người thợ khéo tay. Thế nên, không có được sự hoàn thiện và tỳ vết cũng là lẽ tất nhiên.

Mãi đắm mình, ngủ quên trong hình ảnh con người lý tưởng, Nó thần thánh hóa vị Thầy của chính mình và rồi lãng quên mất rằng, Thầy cũng như Nó, cũng là một chúng sanh mang nhiều tập khí chưa bỏ, đang học đang sửa, đang hoàn thiện chính mình. Nó gọi Thầy là Thầy vì Thầy hơn nó ở Đạo Hạnh, những hiểu biết, kinh nghiệm và sự từng trải….

Theo dấu chân Thầy
Theo dấu chân Thầy

Nó ra đi vì lòng còn chấp, trái tim nhỏ bé chưa biết bao dung, sự hiểu biết còn nông cạn,….

Rồi một ngày, những va vấp đầu đời quá đau, hình tượng con người lý tưởng vỡ toang, Nó nhận ra và hối hận thật nhiều. Nó khóc quá chừng và ân hận lắm. Nó thấy nhớ, thấy thương Thầy của Nó, Nó ước rằng ” Giá như ” ngày đó Nó đừng bỏ Thầy mà đi thì có lẽ bây giờ, đã tốt hơn rồi.

Phút trầm lặng về… Người Thầy

Đèn sáng nhất là khi đèn được tỏa mình trong tối. Bài học sáng giá nhất được hiện hình trong những sai lầm và giang nan. Nó nhận ra được rằng, không có điều gì là hoàn mỹ tuyệt đối. Hoàn mỹ hay không là do cách con người ta biết chấp nhận những khiếm khuyết, biết cách giả vờ nhắm mắt không nhìn thấy những khuyết điểm kém duyên. Tại sao hoa hồng có gai mà người ta vẫn cho là đẹp? Vì họ biết bỏ qua phần thân và chỉ chú trọng vào sự duyên dáng, rực rỡ của những cánh hoa .

Con người cũng vậy. Ai cũng có những mảnh ghép không hoàn hảo. Và Thầy cũng thế. Nó mãi si mê đi tìm con người lý tưởng và quên đi rằng Thầy của Nó cũng là một người rất lý tưởng. Nó không sâu sắc để nhìn Thầy như cách mà người ta đã nhìn vào một cây hoa Hồng.

Bước chân ra đi, giờ đây Nó mới thấm cái tình mà Thầy đã dành cho Nó. Chùa người ta sao bằng chùa mình. Thầy người Ta sao bằng Thầy mình. Cái gì gắng bó lâu dài thì vẫn hơn. Dù sao đi chăng nữa, cái người đầu tiên cầm cây kéo cắt bỏ từng nhúm tóc, cạo những đường dao đầu tiên trên cái đầu U Minh của Nó thì vấn sẽ là người thương Nó nhiều hơn. Sao lại nói như thế, đơn giản vì tâm Ta vẫn còn mang hình hài là Tâm của một chúng sinh thì làm sao có thể được như tâm Phật?

Đức Phật là thầy của trời người

Cảm niệm sự chỉ dạy của tất cả để con trưởng thành!
Cảm niệm sự chỉ dạy của tất cả để con trưởng thành!

Tất cả là trải nghiệm

Và thế là Nó đã quyết định…..

Suỵt! Nó nháy mắt kí hiệu bảo Mình im, đừng nói nữa . Vì đây là câu chuyện trải nghiệm đầu đời của Nó, Mình thay Nó tâm sự, chia sẻ cho mọi người nhiêu đây là đủ rồi, phần còn lại Nó nói sau này đủ duyên, rồi thì đích thân Nó sẽ chia sẻ với mọi người.

Nó nói, nhật ký của Nó tuy hơi thô nhưng mà thật, mọi người đọc được có điều gì không phải thì nhẹ nhàng chỉ bảo để Nó biết cái sai, cái không đúng của bản thân mình mà sửa.

Cảm niệm sự chỉ dạy của tất cả để con trưởng thành!

Nguồn: https://phatgiao.org.vn/nhat-ky-di-tim-nguoi-thay-ly-tuong-d43002.html

Tiểu Mây

Tìm hiểu thêm: CÂU CHUYỆN MỘT CON ĐƯỜNG…

Các bạn hãy tìm hiểu tôn giáo này

Mọi người đều nên có một tôn giáo và tôn giáo này biểu lộ tư tưởng của họ. Không có tôn giáo, con người sẽ trở thành mối nguy hiểm cho xã hội. Các nhà khoa học và tâm lý học có thể giúp ta mở mang kiến thức sâu rộng, nhưng họ không đem lại cho ta mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Chỉ có tôn giáo mới có thể làm được điều đó. Mọi người phải chọn cho mình một tôn giáo hợp lý và khoa học tùy theo ý muốn của mình. Không ai có quyền cưỡng bách người khác phải chấp nhận một tôn giáo nào, đồng thời cũng không thể lợi dụng sự nghèo túng, sự thiếu học cũng như tình cảm để khiến kẻ khác chấp nhận một tôn giáo nào đó.

Có hàng trăm tôn giáo và tín ngưỡng trên khắp thế giới
Có hàng trăm tôn giáo và tín ngưỡng trên khắp thế giới tồn tại đáp ứng nhu cầu tâm linh của hàng tỷ người

Mọi người đều có quyền tự do lựa chọn tôn giáo của mình tùy theo sở thích và khả năng trí tuệ của mình. Tin theo tôn giáo một cách mù quáng sẽ đánh mất giá trị tinh thần của tôn giáo. Con người không phải thú vật. Họ có trí thông minh và lương tri để phân biệt phải, trái. Họ có thể thích ứng với hoàn cảnh chung quanh. Cho nên, họ phải chọn một tôn giáo hợp lý và làm tăng trưởng sự hiểu biết của họ.

Trung Đạo

Tôn giáo mà chúng tôi sắp giới thiệu cùng các bạn trong bài này là một hệ thống giáo dục khoa học đã được một đấng Đại Bi Đại Giác truyền bá trên thế giới hơn hai mươi lăm thế kỷ qua. Tôn giáo này được mệnh danh là con đường Trung Đạo hay Chính Đạo hoặc lối sống đứng đắn. Đây là một hệ thống đạo đức và triết lý, vừa là tôn giáo của Tự Do và Lý Trí. Tôn giáo này dạy cho chúng ta những điều sau đây:

“Không làm điều ác, làm mọi điều lành và giữ tâm trong sạch bằng cách loại bỏ những điều xấu xa trong tâm hồn”.

Đức hạnh của con người đóng vai trò rất quan trọng trong tôn giáo này. Vị thầy vĩ đại của tôn giáo này đã nói:

“Ta không dạy ai đến để tin, nhưng đến để thấy và thực hành”.

Điều này đã khích lệ mọi người nghiên cứu kỹ càng những lời dạy của Ngài và để cho họ tự do có nên chấp nhận những điều dạy dỗ đó không. Ngài không bảo ai đến và chấp nhận tôn giáo này nếu họ chưa hiểu những lời dạy của Ngài.

Những nghi thức vô bổ cùng những hình thức lễ bái bề ngoài không phải là giá trị và ý nghĩa thực sự của tôn giáo. Không có sự tin tưởng và thực hành một cách mù quáng, mê tín cũng không có những lý thuyết kỳ lạ và bí hiểm trong tôn giáo này. Mọi vật đều được trình bày và mở ra để người tín đồ tự do lựa chọn và phán đoán. Họ được tự do nghiên cứu và tìm hiểu những lời dạy dỗ của vị thầy đồng thời họ cũng được tự do hỏi để hiểu thấu đáo những điều gì họ nghi ngờ.

Theo vị sáng lập tôn giáo vĩ đại này thì chúng ta không nên tin một điều gì chỉ vì điều đó đã được một bậc đáng kính và đại thông thái nói ra hay đã được chấp nhận theo truyền thống từ xưa để lại. Nhưng chúng ta phải dùng lý trí và sự thông minh của chúng ta để xét đoán; và chỉ chấp nhận điều gì khi đem ra thực hành sẽ đem lại lợi ích và giá trị.

Tôn giáo này dạy rằng: Bát chánh đạo (gồm sự hiểu biết đúng, suy nghĩ đúng, lời nói đúng, hành động đúng, đời sống đúng, cố gắng đúng, sự ghi nhớ đúng và sự tập trung tư tưởng đúng) là con đường trung dung độc nhất giúp ta thoát khỏi những cá biệt trầm kha của cuộc sống.

Trong vòng luân lưu bất định của đời sống mỗi chúng sanh đều nhận chịu những căn bệnh trầm kha này.

Con đường Trung đạo này không phải là con đường siêu hình hay nghi thức, không phải giáo điều chủ nghĩa hay hoài nghi thuyết, không phải tự phóng túng hay khổ hạnh, không phải chủ nghĩa Vĩnh Cửu hay Hư Vô, không bi quan và cũng không lạc quan, đó là con đường giác ngộ, thoát khỏi sự đau khổ. Tôn giáo này không bao giờ dạy rằng, con người chịu đau khổ trong thế giới hiện tại là do tội lỗi của ông bà tổ tông để lại. Ngược lại mỗi người mang theo mình phước báu hay lỗi lầm của chính mình. Mọi người chịu trách nhiệm về những đau đớn và lạc thú của họ, về những việc làm xấu hay tốt của họ.

Người nào đi theo con đường Trung Đạo của tôn giáo này giới thiệu, chắc chắn sẽ tìm thấy an bình và hạnh phúc thật sự.

Gặt hái những gì bạn đã gieo

Tôn giáo này thỏa đáng nguyện vọng cao cả của con người, đồng thời giúp cho họ khắc phục được những nổi đau khổ và phiền muộn trong cuộc sống; hướng dẫn họ cách đối xử với nhau. Ngoài ra, còn mang lại cho họ ý nghĩa và mục đích của đời sống. Tôn giáo này không gieo truyền đến con người, không rót vào đầu óc họ những tư tưởng sợ hãi. Sự sợ hãi và khiếp nhược vắng bóng trong tôn giáo này.

“Nhân tốt sinh ra quả tốt, nhân xấu sinh ra quả xấu”.

Mọi hành động đều mang lại hậu quả của nó. Đó là quy luật tự nhiên của vũ trụ. Tôn giáo này chấp nhận hoàn toàn qui luật tự nhiên ấy, đã là con người phải “Gặt hái những gì họ gieo”. Những hành động xấu xa, những tội lỗi của con người phát xuất từ sự ham muốn, lòng sân hận và sự ngu muội. Những điều yếu kém này chỉ có thể được khắc phục nhờ ở sự hiểu biết của chính chúng ta, nghĩa là chính chúng ta phải tự giác ngộ.

An vui và đau khổ con người gặp phải trên cõi đời này không phải do ảnh hưởng từ bên ngoài đem lại mà do những hành động và lời nói tốt hay xấu họ đã làm trong hiện tại hoặc trong những kiếp sống trước đây. Bởi lý do đó, tôn giáo này đã nói:

“Chúng ta là kết quả của những gì chúng ta đã làm và chúng ta sẽ là kết quả của những gì chúng ta đang làm”.

Tôn giáo này dạy rằng: Nguyên nhân và hậu quả đóng vai trò quan trọng trong mọi kiếp sống của con người. Trong vòng luân lưu nhân quả này, khó có thể nhận biết đâu là nguyên nhân đầu tiên, vì nhân và quả hỗ tương chuyển biến; nguyên nhân trở thành hậu quả và hậu quả biến thành nguyên nhân.

chúng ta đã gieo nhân ắt rồi sẽ gặt quả
Chúng ta đã gieo nhân ắt rồi sẽ gặt quả

Vị Thầy vĩ đại

Sáng lập ra tôn giáo độc đáo này không phải là một nhân vật thần thoại mà là một bậc thầy vĩ đại, thực sự sống trên thế giới này, Ngài không bao giờ tự xưng mình là đấng siêu nhân, là đấng tạo hóa hay Thượng Đế v.v… mà chỉ là con người đã thấy rõ chân lý, thấy rõ những bí ẩn của cuộc đời; hiểu thấu đáo những nguyên nhân thật sự của khổ đau và hạnh phúc.

Ngày nay, vị thầy này không những được hàng trăm triệu tín đồ trên thế giới tán dương, tôn thờ mà còn được những nhà văn hóa và trí thức hết lòng tôn kính, ngưỡng mộ.

Đấng cao thượng, đấng giải phóng, nhà dân chủ, nhà cải cách xã hội, người hướng dẫn và khuyến khích nhân loại đến nẻo thiện đã vắng bóng vào năm tám mươi tuổi. Ngài để lại cho nhân loại thông điệp của tình thương, để lại cho nhân loại những lời chỉ đạo hữu ích, hướng dẫn họ đến an vui, hạnh phúc. An vui hạnh phúc ngay trong cuộc sống hiện tại cũng như các đời sống sau và cuối cùng đạt đến an bình và hạnh phúc vĩnh cửu.

Vị đại đạo sư đã an ủi kẻ đau thương, đã giúp đỡ kẻ nghèo khó bị ruồng rẫy, nâng phẩm giá người bị khinh khi, đưa kẻ trộm cướp trở lại đường lương thiện. Ngài khích lệ kẻ yếu, đoàn kết những kẻ phân tán, giải trừ những điều huyền bí, soi sáng cho người ngu muội, nâng cao người hạ tiện, tán dương người cao thượng.

Người giàu hay kẻ nghèo, thánh nhân hoặc tội phạm đều thương yêu Ngài. Từ những vị vua tàn bạo cho đến những vị minh quân, từ những bậc vương tử, đến hàng quý tộc, hữu danh hay vô danh; từ những bậc phú hào giàu lòng từ thiện đến những nhà triệu phú keo kiệt; từ những học giả khiêm cung hay hống hách, tự phụ đến những người nghèo nàn, đói khổ, thất học; từ những bậc hiền nhân quân tử đến những tên sát nhân đầy tội; những cô gái mãi dâm bị miệt thị… Tất cả đều tìm thấy an vui, thấy lợi ích bởi những lời dạy đầy trí tuệ và đầy tình thương của Ngài.

Những đức tính cao thượng điển hình của Ngài là nguồn cảm thông và hứng cảm vô hạn của tất cả mọi người. Dung mạo trầm tỉnh và an bình của Ngài là dấu hiệu an ủi dịu dàng dưới mắt của những tín đồ nhiệt thành.

Thông điệp hòa bình và từ ái của Ngài đã được mọi người hân hoan đón nhận và đã đem lại lợi ích lâu dài cho những ai có cơ hội nghe và thực hành theo. Ý chí sắt đá, trí tuệ cao thâm, tình thương vô biên, phục vụ bất vụ lợi, xuất thế cao cả, hoàn toàn trong sạch, nhân cách cao thượng, những phương pháp điển hình tuyệt diệu để truyền bá giáo pháp cùng sự thành tựu cuối cùng của Ngài, tất cả những yếu tố ấy đã khiến cho một phần năm nhân loại trên thế giới tôn Ngài là bậc Thầy vĩ đại.

Vì nhân loại còn đau khổ nên vị đạo sư đã hy sinh mọi lạc thú của cuộc đời để kiếm tìm chân lý và chỉ cho nhân loại con đường giải thoát mọi đau khổ. Ngài viếng thăm an ủi kẻ nghèo khó trong khi các vị vua chúa hay đạo sĩ phải đích thân đến hội kiến cùng Ngài. Trong bốn mươi năm trời sau ngày thành đạo, Ngài đã dành hết thì giờ và tâm trí thuyết pháp độ sinh, giúp nhân loại thoát khỏi vòng đau khổ.

Vị thầy vĩ đại này chẳng bao giờ khiếp sợ điều gì và cũng chẳng gieo vào đầu ai nỗi lo sợ. Đó là một trong những nguyên tắc cần được bồi đắp và truyền bá trong cái thế giới ưa chuộng chiến tranh hiện tại, thế giới mà trong đó ngay cả mạng sống con người cũng bị hy sinh cho bạo lực, và vũ khí giết người đang gieo rắc sợ hãi, nghi ngờ và oán giận.

Ngài là một nhà khoa học lỗi lạc trong sinh hoạt con người, và cũng vì vậy mà những lời Ngài thuyết dạy thường được chấp nhận như là một lý thuyết của một tôn giáo độc nhất có tính cách khoa học và hợp lý. Ngài soi xét tường tận con người trên cả hai phương diện Danh và Sắc và cho thấy một cách rõ ràng tiềm năng thật sự bên trong của mỗi chúng ta. Ngài đã phá tan sự u minh tăm tối bằng cách rọi vào đó ngọn đèn giác ngộ.

Đối với các nhà đạo đức, Ngài đã đặt ra một bộ luật đạo đức có giá trị nhất và Ngài là biểu tượng của sự toàn hảo. “Ngài có đầy đủ những đức hạnh quý báu mà Ngài thường khuyên chúng ta thực hành, Ngài là bậc hoàn toàn trong sạch”.

Trong số các đạo sĩ, Ngài là một trong những vị có tài thuyết phục mạnh nhất, nhưng chẳng bao giờ Ngài xử dụng phương tiện này để bắt buộc người khác theo Ngài. Bình thản trước những lời khen chê, Ngài chỉ cố gắng đem hết sức mình phục vụ nhân loại thoát khỏi vòng đau khổ.

Bình an trong tâm hồn, hạnh phúc và giải thoát

Vị đại đạo sư đã dạy cho con người con đường đi đến sự bình thản trong tâm hồn, hạnh phúc và sự giải thoát. Phương pháp đạt đến sự giải thoát vừa có tính chất phóng khoáng, khoa học hợp lý vừa dễ hiểu cho mọi hàng chúng sanh.

Thông điệp hòa bình của Ngài càng trở nên quan trọng hơn vì hiện tại nhân loại đang bị đầu độc bởi thù hận, tham lam ganh tỵ và kiêu hãnh.

Ngài được sinh ra trong thế giới này để đánh tan bóng tối của sự u minh và cứu con người ra khỏi những tội ác của họ. Còn có rất nhiều người vẫn chưa tin hay thực hành theo một tôn giáo nào cả. Tuy nhiên, nếu họ chịu khó nghiên cứu và tìm hiểu những gì mà bậc đại đạo sư đã dạy, họ sẽ thấy những nghi ngờ của họ được giải đáp và cuối cùng họ sẽ chấp nhận rằng đây là một tôn giáo đã đóng góp rất nhiều cho hạnh phúc của nhân loại.

Con đường mà Ngài đã đi và truyền dạy lại cho chúng ta là con đường của sự hạnh phúc và giải thoát
Con đường mà Ngài đã đi và truyền dạy lại cho chúng ta là con đường của sự hạnh phúc và giải thoát

Dù cho người ta tin hay không, những lời Ngài dạy có ảnh hưởng đối với họ. Trong lịch sử truyền bá của tôn giáo này chưa hề có một giọt máu nào đổ dưới danh nghĩa này.

Những lời Ngài dạy đã soi sáng bước đường của nhân loại, giúp con người vượt qua những điều không vừa lòng toại ý để đến một nơi đầy tình thương an bình và hạnh phúc.

Mặc dù đã trải qua hai mươi lăm thế kỷ, những lời dạy của Ngài vẫn còn đủ sức mạnh để đương đầu với mọi thử thách mà không cần phải có một sự sửa đổi hay sự giải thích mới mẻ nào về những lời dạy đó. Những lời dạy của Ngài không hề mâu thuẫn với thành quả và sự khám phá của khoa học tân tiến.

Đạo đức rất cần thiết để đạt đến sự giải thoát, nhưng một mình nó chưa đủ. Đạo đức phải được phối hợp với trí tuệ. Đạo đức và trí tuệ như đôi cánh của một con chim. Trí tuệ là đôi mắt của con người và đạo đức là đôi chân. Đạo đức có thể ví như một chiếc xe đưa con người đến cửa ngõ của thiên đường nhưng chìa khóa để mở cửa đó là trí tuệ.

Thiên đàng hạnh phúc

Tín đồ của tôn giáo này không bao giờ cho rằng chỉ chính họ mới được ban ân phước và chính họ mới đến được thiên đàng hạnh phúc. Tùy theo cách sống, mọi người tự tạo cho chính mình thiên đàng hay địa ngục.

Theo lời dạy của tôn giáo này thì mọi người đều có thể hưởng hạnh phúc và thiên đàng nếu họ sống một đời sống đạo đức, lương thiện dù cho họ có tin vào tôn giáo nào đi nữa. Thiên đàng không dành riêng hay độc quyền cho một đạo giáo hay một cộng đồng tôn giáo nào mà mở cửa cho tất cả mọi người.

Sự khoan dung và hiểu biết

Khoan dung, hiểu biết và tôn trọng ý kiến của kẻ khác là những hạnh lành đáng quí mà tín đồ của tôn giáo này cố gắng thực hành theo. Lòng từ ái và tình thương yêu kẻ khác không phải chỉ giới hạn đối với con người mà còn bao trùm khắp mọi chúng sanh.

Đạo sống

Nhờ đặc tính rõ ràng và hợp lý tôn giáo này đã giải đáp một cách thỏa đáng những hoài nghi, hướng dẫn và giúp nhân loại cải thiện phương thức sống tốt đẹp.

Tôn giáo này không chia con người ra làm hai nhóm: một nhóm được cứu rỗi và nhóm kia bị bỏ rơi, mà là một sức mạnh khai hóa, biến những kẻ man rợ thành người thuần thục, và những kẻ đã thuần thục thành người tốt đẹp hơn. Tín đồ của tôn giáo này không tin vào những lời cầu nguyện khấn vái. Họ tin một cách chắc chắn vào sự cố gắng của chính bản thân mình, tin ở hiệu năng và sức mạnh của phương pháp thiền có thể dẫn dắt con người đến việc tự chinh phục chính mình; tự kiểm soát lấy mình, trong sạch hóa bản thân, diệt khổ và giải thoát. Thiền là phương thuốc vừa bổ óc vừa trợ tim.

Con người có thể thay đổi cuộc đời của mình

Những ai theo tôn giáo này đều tin rằng trí óc con người có sức mạnh vạn năng. Nó tạo ra con người, nhưng cũng chính nó hủy diệt con người. Số mạng con người tùy thuộc vào nó. Vì vậy, con người có khả năng làm được tất cả mọi chuyện nếu biết sử dụng trí óc của mình. Trong thực tế, tôn giáo này đã là ngọn hải đăng quí giá hướng dẫn nhân loại đến hòa bình, hạnh phúc và an vui vĩnh cửu. 

Thế giới này phải đối đầu với những ngộ nhận giữa các giống dân, trên bình diện quốc tế cũng như địa phương, ngộ nhận trên phương diện kinh tế cũng như ý thức hệ. Để giải quyết những vấn đề phức tạp này con người phải sống với nhau trong tinh thần vị tha và khoan dung. Điều này có thể thực hiện được một cách tốt đẹp dưới sự hướng dẫn của tôn giáo này vì tôn giáo này chủ trương một sự hợp tác trên căn bản đạo đức vì ích lợi của quần sanh.

Hạnh phúc và an nguy của nhân loại chỉ có được khi con người ý thức được rằng sự phát huy và bành trướng những giá trị đạo đức quan trọng hơn những tiến bộ vật chất. Con người phải thực hiện công bằng chân lý, phải rải rác tình thương, lòng bác ái và sự tương thân tương trợ. Có như vậy, thế giới này mới trở thành một nơi đáng sống.

Không phải do một đấng cứu thế nào, mà chính là ta quyết định vận mệnh của mình
Không phải do một đấng cứu thế nào, mà chính là ta quyết định vận mệnh của mình

Tôn giáo thật sự

Không có gì tốt đẹp và cao thượng hơn sự vun bồi một tình thương bao la rộng rãi. Không có lạc thú nào ngọt ngào hơn sự bình thản của tâm hồn, không có chân lý nào rõ ràng hơn sự hiểu thấu những hiện tượng tự nhiên, không có tôn giáo nào cao siêu hơn sự phát huy những giá trị đạo đức tinh thần và không có một triết lý nào sâu sắc hơn cái triết lý mang lại kết quả tức thì và dễ nhận cho tất cả mọi người.

Tôn giáo tự do

Tôn giáo này không ngăn cản hay cấm đoán tín đồ đọc hay tìm hiểu các tôn giáo khác, vì việc làm này biểu lộ sự cuồng tín. Một người cuồng tín không bao giờ tự cho phép mình được hướng dẫn bởi sự hợp lý và tệ hơn nữa, bởi các phương pháp phân tích và quan sát một cách khoa học. Vì vậy, tín đồ của tôn giáo này là những người hoàn toàn tự do, tinh thần phóng khoáng, không phải thờ phụng một vị thần linh nào cả (để tiến hóa trong bước đường tu tập).

Nếu bạn chịu khó đọc kỹ những lời thuyết giảng về tôn giáo này, bạn sẽ đánh tan được những ngộ nhận mà bạn đã có từ trước về nó. Không ai có thể xét đoán một cách đứng đắn một tôn giáo nếu chỉ nhìn cách thức lễ bái cầu nguyện do các tín đồ chưa hiểu đạo của tôn giáo đó làm. Trái lại, phải cố gắng tìm hiểu các giáo điều căn bản, mới có một nhận xét rõ ràng về một tôn giáo.

Con người và Thượng Đế

Thay vì đặt con người và số mạng của y dưới sự kiểm soát độc đoán của một đấng thần linh xa lạ, bắt y phải tuân hành tuyệt đối những quyền năng của vị đó, tôn giáo này nâng cao giá trị của con người, tôn trọng và tin tưởng vào trí tuệ của họ.

Tôn giáo này dạy chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác một cách bất vụ lợi, không cần nghĩ đến sự đền ơn. Tín đồ của tôn giáo này không làm những điều tội lỗi chẳng phải vì sợ Thượng Đế trừng phạt mà vì họ ý thức được nguyên nhân sâu xa đã làm cho mọi chúng sanh đau khổ. Động lực thúc đẩy làm điều lành không phải để làm vui lòng Thượng Đế hay được đền ơn mà do lòng yêu thương đối với kẻ khác.

Tôn giáo này dạy con đường đi đến sự toàn thiện và trí tuệ mà không nhờ vào một đấng tối cao nào. Kiến thức thâm sâu của bạn cũng không phải do ơn trên mà có được. Trật tự đạo đức thế giới cũng như những hành động và kết quả mà bạn gặt hái được đều diễn biến và thuận hành theo một qui luật tự nhiên. Sự hiện hữu liên tục của con người từ kiếp này qua kiếp khác không dựa vào một linh hồn bất tử. Hạnh phúc vĩnh cửu vượt lên trên ý niệm thiên đàng do con người đặt ra, không cần nhờ đến đấng cứu thế mới được cứu chuộc. Ngay trong cuộc sống hiện tại của chúng ta trên thế giới này chúng ta có thể được giải thoát do năng lực của chính mình.

Không có sự hưởng thụ những thú vui nhục thể, đời sống của con người có kéo dài được không?

Không cầu khấn thượng đế con người có thể trở thành chính trực không?

“Được chứ!” vị sáng lập ra tôn giáo này đã nói như vậy. Những điều trên đều có thể đạt được do ở sự phục vụ, sự trong sạch, giới hạnh và trí tuệ. Những đức tính tốt đẹp và cao thượng này đem lại cho đời sống của con người sự thanh tịnh, bình an hạnh phúc và giải thoát.

Con đường trung đạo (ảnh minh họa)
Con đường trung đạo (ảnh minh họa)

Luật tự nhiên của vũ trụ

Luật tự nhiên của vũ trụ được giải thích trong tôn giáo này có thể giải quyết những vấn đề về sự đau khổ, bí mật của số mạng, thuyết tiền định của một vài tôn giáo, vấn đề thần đồng và nhất là sự bất bình đẳng của nhân loại. Hiểu biết những định luật thiên nhiên này mang lại cho chúng ta sự an vui, niềm hy vọng, lòng tự tin và sự khích lệ tinh thần; giúp chúng ta trở nên tinh tấn, từ ái, nhiệt tâm, độ lượng, khoan dung, cảm thông và vị tha. Chúng ta có được những đức tính này nhờ chúng ta ý thức được rằng không có gì hoàn toàn xấu, chỉ có sự tương đối mà thôi.

Tôn giáo tiến bộ mới mẻ

Đây không phải lý thuyết mà là một lối sống thực tế. Đây là một tôn giáo cổ xưa nhất, đồng thời cũng là một tôn giáo tân tiến mà mọi người đều tôn trọng. Tôn giáo này giúp cho con người không phải bị nô lệ vào thượng đế hay một quyền lực ngoại lai nào mà phải phát triển những tiềm lực bên trong của chúng ta bằng cách xử dụng nỗ lực và trí thông minh của mình để vượt qua những trở ngại mà chúng ta gặp phải trong đời sống.

Đây là tôn giáo có đầy đủ những đặc tính mà một tôn giáo hợp lý đòi hỏi. Đó là tôn giáo thích ứng với thế giới tương lai, là một tôn giáo khoa học, hợp lý và tiến bộ, là niềm tự hào cho những ai là tín đồ của tôn giáo này trong thế giới tân tiến. Thật vậy, về phương diện tinh thần tôn giáo này còn khoa học hơn cả khoa học và tiến bộ hơn cả mọi tiến bộ.

Không có sự kỳ thị

Đây là tôn giáo đầu tiên trong lịch sử đã chống lại hệ thống giai cấp và dạy cho nhân loại biết sự bình đẳng đồng thời mang lại cho mọi giai cấp cơ hội bình đẳng để phát triển. Chính tôn giáo này đã đem lại tự do thực sự cho phụ nư, để cho họ có cơ hội học hỏi và nghiên cứu tôn giáo, cũng là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại họ có sự bình đẳng xã hội.

Vị đại đạo sư đã nói rằng cửa ngõ của thành công và thịnh vượng được mở ra cho tất cả mọi người không phân biệt điều kiện sống của họ, dầu họ thuộc giai cấp cao hay thấp, thánh nhân hay tội phạm họ cũng có thể cải thiện và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn. Ngài không bắt buộc những tín đồ của Ngài nô lệ vào Ngài hay những lời dạy dỗ của Ngài nhưng tạo cơ hội cho họ được hoàn toàn tự do tư tưởng.

Sự tạm bợ đời sống

Tôn giáo này đã phân tích cho con người thấy rõ vật chất và tinh thần là hai yếu tố luôn luôn biến đổi, từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc nọ, từ giây phút này sang giây phút kia sự vật đã biến dạng rồi. Toàn thể hiện tượng tâm sinh lý này vẫn luôn luôn giữ mãi tính chất biến đổi của chúng. Nó xuất hiện rồi biến mất và chu trình đó vẫn tiếp diễn mãi không ngừng, vì vậy không có gì trường tồn vĩnh cửu trong thế giới này hay trong thế giới khác. Tôn giáo này cũng tin rằng trong vũ trụ này còn có những thế giới khác và trong những thế giới ấy cũng có những sinh vật đang sống.

Giáo điều và giới luật

Tôn giáo này không có những giáo điều mà mọi người phải tuân theo một cách mù quáng, thay vào đó là những giới luật được hành giữ một cách tự nguyện. Giữ giới là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.

Nhờ tuân hành những giới này con người có thể trở nên trong sạch để giúp đỡ kẻ khác sống trong sự an lành. Cho phổ biến bài này, chúng tôi không nhằm mục đích thay đổi lòng tin của người khác mà giúp cho họ tìm thấy được một cách đúng đắn sự bình an hạnh phúc, đồng thời giúp cho họ có được sự sáng suốt khi thực hành tôn giáo mà họ đã nhận thức đứng đắn, chứ không tin theo một cách mù quáng.

Chúng tôi khuyến khích mọi người hãy thực hành tôn giáo của họ một cách đứng đắn nếu thực sự họ đã tìm thấy trong tôn giáo họ chân lý, bình an hạnh phúc và giải thoát.

Tôn giáo này có thể đem lại một lối giải đáp thỏa đáng cho nhiều vấn đề thuộc lãnh vực tinh thần, đồng thời có thể cung ứng cho bạn một chiều hướng mới mẻ trong việc tìm hiểu nghiên cứu tôn giáo và triết học. Tôn giáo này cũng có thể giúp bạn hiểu biết về đời sống văn hóa Á Châu. Bạn có thể tìm thấy trong đó sự hướng dẫn tinh thần mà thế giới tân tiến đang đòi hỏi hay cần đến, đồng thời giúp cho bạn xa lánh được những điều ác.

Tôn giáo này đã đem lại cho thế giới một tinh thần mới, niềm hy vọng mới, hướng đi mới. Những tính chất chân thật và trọng yếu này từ trước đến nay đã được mọi người nhận thấy một cách rõ ràng.

Dù mục đích của bạn là thế nào chăng nữa, chúng tôi cũng xin mời bạn hãy tìm hiểu nhiều hơn và rõ ràng hơn, tôn giáo và lý tưởng của vị sáng lập ra tôn giáo này.

Con đường giải thoát do chính Đức Phật chứng ngộ và truyền bá
Con đường giải thoát do chính Đức Phật chứng ngộ và truyền bá

Tôn giáo cao thượng được bàn đến trong bài này là PHẬT GIÁO và vị sáng lập đạo này không ai khác hơn là ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI.

Kính chúc các bạn thân tâm an lạc.

Tác giả: Dr. K. Sri Dhammananda Nayaka
Dịch giả: Tỳ khưu Khánh Hỷ

Khóa Tu Mùa Hè Chùa Phước Viên Lần Thứ Nhất

Khóa Tu Mùa Hè Chùa Phước Viên Lần Thứ Nhất – Năm 2020

Chủ Đề: Gieo Hạt Bồ Đề (PL. 2564 – DL. 2020)

(Ba ngày 2 đêm, thứ 6,7, C.nhật ngày 25, 26, 27 tháng 6 â.l – dl. 14, 15, 16/08)

Nhằm tạo một môi trường đạo đức & thiện lành để các bạn trẻ có cơ hội thực tập sự hiểu và thương trên tinh thần lời dạy của Đức Phật; gieo một hạt giống bồ đề an lạc vào đất tâm của giới trẻ, tạo một không gian tu tập an lành & tri ân các bậc tiền nhân cha mẹ… nhân dịp mùa Hè, mùa các bạn trẻ học sinh sinh viên, đoàn sinh GĐPT được nghỉ hè tham gia những chương trình bổ ích và tốt đẹp; Chùa Phước Viên (xã H’Bông, H. Chư Sê, T. Gia Lai) trang nghiêm tổ chức Khóa Tu Mùa Hè Lần Thứ Nhất với Chủ Đề: Gieo Hạt Bồ Đề

Khóa tu mùa hè Chùa Mỹ Thạch 2019
Khóa tu mùa hè Chùa Mỹ Thạch 2019

Nội dung và chương trình Khóa Tu Mùa Hè

Ngày thứ I: (Thứ 6 ngày 25 tháng 06 âl. – dl. 14 tháng 08)

[ssredlist]
  • 6h00’: Các khóa sinh vân tập nhận thẻ, sắp xếp nơi nghỉ
  • 8h00’: Phổ biến Nội quy khóa tu – Chia chúng sinh hoạt tu tập
  • 9h00’: Khai mạc khóa tu…. Chương trình thính pháp…
  • 9h30’: Lắng lòng nghe pháp: Chủ đề Tình Bạn, ĐĐ. Thích Vạn Tín giảng)
  • 11h00’: Thọ trai quá đường (Dùng cơm chánh niệm)
  • 12h00’: Nghỉ trưa (ch. Trình Diễn đàn ru ngủ – Đọc truyện: Quý cô Giáo viên H. Chư Sê đảm trách).
  • 13h30’: Thọ trì kinh Báo Đáp Công Ơn Cha Mẹ Diễn Nghĩa
  • 15h30’: Chương trình trò chơi: Tuổi học trò (Do quý thầy cô giáo H. Chư Sê hướng dẫn).
  • 17h30’: Dược thực (dùng cơm chiều).19h00’: Hô chuông –
  • 19h15’: Thọ trì kinh chú20h15’: Văn nghệ: Hát tặng Tu sinh Khóa tu
  • 21h00’: Hô canh – tọa thiền tại nơi ngủ, ngủ nghỉ….
[/ssredlist]

Ngày thứ II: (Thứ 7 ngày 26 tháng 06 âl. – dl. 15 tháng 08)

[ssyellowlist]
  • 4h00’: Hô chuông – thức chúng
  • 4h30’: Lễ công phu sáng, niệm Phật kinh hành
  • 5h30’: Chương trình thể dục buổi sáng – Quý thầy giáo thể dục H. Chư Sê… hướng dẫn.
  • 6h30’: Điểm tâm sáng – 7h30’: Chương trình Vệ sinh môi trường
  • 8h30’: Chia sẻ Phật pháp chủ đề khóa tu: Gieo Hạt Bồ Đề (ĐĐ. Thích Quảng Phước – Trưởng Ban Hoằng Pháp Tỉnh Gia Lai giảng)
  • 10h30’: Niệm Phật kinh hành –
  • 11h00’: Thọ trai quá đường
  • 12h00’: Nghỉ trưa (ch. Trình Diễn đàn ru ngủ – Đọc truyện: Quý Cô Giáo H. Chư Sê đảm trách).
  • 13h30’: Thọ trì kinh Vu Lan Báo Hiếu (Chư tôn Thiền đức khóa tu hướng dẫn)
  • 14h30’: Giới thiệu An ninh đường phố, học đường (Công An H. Chư Sê giảng)
  • 16h00’: Sinh hoạt theo nhóm (Chư tôn Thiền đức khóa tu hướng dẫn)
  • 17h30’: Dược thực (dùng cơm)
  • 19h00’: Chương trình Hoa Đăng (thắp nến tri ân Cha Mẹ….. Do chư tôn đức trong Ban Hoằng Pháp T. GL, Đạo Tràng Tịnh Độ Chư Sê & Quý Cô Giáo H. Chư Sê đảm trách).
  • 21h00’: Hô canh – tọa thiền tại nơi ngủ, ngủ nghỉ….
[/ssyellowlist]

Ngày thứ III: (C.nhật ngày 27 tháng 06 âl. – dl. 16 tháng 08)

[ssbluelist]
  • 4h00’: Hô chuông – thức chúng
  • 4h30’: Lễ công phu sáng, niệm Phật kinh hành
  • 5h30’: Chương trình thể dục buổi sáng – Quý thầy giáo thể dục H. Chư Sê… hướng dẫn.
  • 6h30’: Điểm tâm sáng – 7h30’: Chương trình Vệ sinh môi trường
  • 8h30’: Chương trình đố vui Phật pháp – Hái hoa dân chủ, phát thưởng…
  • 10h30’: Lễ Phật, niệm Phật kinh hành –
  • 11h30’: Thọ trai quá đường
  • 12h00’: Nghỉ trưa (ch. Trình Diễn đàn ru ngủ – Đọc truyện: Quý Cô Giáo H. Chư Sê đảm trách).
  • 13h30’: Thọ trì kinh chú, niệm Phật Bổn Sư kinh hành…
  • 14h30’: Chương trình trò chơi: nhảy bao, ngậm nước, đập ấm….(Do Huynh trưởng, Đoàn sinh GĐPT chùa Mỹ Thạch hướng dẫn)
  • 16h00’: Bế mạc Khóa tu – Chương tình: Tặng Phẩm khóa tu: Do quý Phật tử TP. HCM tặng) – Liên hoan dùng bánh chia tay.
[/ssbluelist]

Cách thức đăng ký và yêu cầu đối với khóa sinh

Khóa sinh nên tuân thủ những điều sau

[ssredlist]
  • Khóa sinh phải tham dự trọn vẹn thời gian đã đăng ký (trừ trường hợp có người nhà đến xin phép mới được về trong thời gian diễn ra khóa tu)
  • Ghi rõ địa chỉ cư trú và số điện thoại bố mẹ hoặc người giám hộ
  • Chấp hành nội quy và thời khóa tu học.
  • Tác phong gọn gàng, không nhuộm tóc, sơn móng tay, chân.
  • Không được mặc áo thun, quần jean, nên mặc quần áo lam hoặc nâu.
  • Không được bè phái, chửi tục, đánh nhau.
  • Không được ra khỏi khuôn viên chùa (phải có giấy phép và chữ ký của Ban Tổ Chức).
  • Hành lý mang theo phải gọn nhẹ, không được mang dao kéo, chất cháy nổ, bật lửa, phấn son, tư trang có giá trị.
  • Phải mặc áo tràng (áo lễ) nâu hoặc lam trong khóa lễ.
  • Khóa sinh không được sử dụng điện thoại trong suốt thời gian khóa tu.
[/ssredlist]

Thời gian và phương thức đăng ký

[infobox]Thời gian đăng kí: Từ ngày mùng 29 tháng 05 âm lịch đến hết ngày mùng 15 tháng 06 âm lịch.[/infobox]

Ghi danh đăng kí tại văn phòng chùa Mỹ Thạch & chùa Phước Viên, hoặc qua số điện thoại & Zalo: ĐĐ. Thích Quảng Phước: 0772.411.777 & ĐĐ. Thích Nhuận Cường: 0868105818.

Và qua quý Phật tử:

[ssgreenlist]
  • PT. Nhuận Thế (Trần Công Cuộc: 0985795676);
  • PT. Nhuận Nhật (Bác Lưu: 0986289622);
  • PT. anh Hạnh (0354232769),
  • PT. anh Long: 0354082471.
  • PT. Nhuận Đài (Cô Năm Tâm: 0345035777);
  • PT. Quang Hồng (Hằng Trường: 0327067115);
  • PT. Phượng: (0978719667).
  • PT. Hiếu Thạo: 0376164633.
  • GĐPT. Anh Hiệu: 0985041748;
  • Anh Thảo: 0396394409;
  • Anh Tuấn: 0987541534;
  • Chị Phương: 0988193219;
  • Cô Thi: 0982851246;
  • Cô Mỵ: 0847666868;
  • Cô Hạnh: 0814950456.
  • PT. Dung Cát: 0947742777.
[/ssgreenlist] [successbox]Quý Phật tử có thể gửi đơn đăng ký trực tiếp qua trang web sau:[/successbox]

[ssredlist]

[/ssredlist]

hoặc điền đơn đăng ký và gửi về ban tổ chức:

đơn đăng ký: https://drive.google.com/file/d/1vzAsUFpO1Thu3da2WEb6DiK_XL3kNeFj/view?usp=sharing

[warningbox]Lưu ý: Khóa sinh tham gia khóa tu: Thanh thiếu niên tuổi từ 12 đến 25.( có thể linh hoạt thay đổi)[/warningbox]

Ban tổ chức khóa tu chùa Phước Viên lần thứ nhất

Khóa tu dưới sự hướng dẫn của chư tôn đức:

[ssgreenlist]
  • ĐĐ. Thích Quảng Phước & chư tôn đức trong BHP GHPG T. Gia Lai
  • ĐĐ. Thích Nhuận Cường
  • ĐĐ. Thích Nhuận Lộc
  • ĐĐ. Thích Vạn Tín
  • ĐĐ. Thích Vạn Chí
  • SC. Thích Nữ Phương Thành, Thích Nữ Thuận Hiếu
  • Huynh Trưởng GĐPT Thiện Mỹ, Thầy Cô Giáo Viên H. Chư Sê, cùng các ban ngành chùa Mỹ Thạch & chùa Phước Viên.
[/ssgreenlist]

*Tham khảo chi mọi tiết: Đơn đăng kí tu, bài viết, hình ảnh….. qua Website: Phật Giáo Chư Sê, Face Book: Chùa Mỹ Thạch, Chùa Phước Viên & Đức Lưu Phương.Chư Sê, ngày 12 tháng 07 năm 2020

Lễ An Vị Phật tại Chùa Phước Viên

https://www.youtube.com/watch?v=Faxw74tSjc4

CÂU CHUYỆN MỘT CON ĐƯỜNG…

Đức Thích-ca Mâu-ni là vị Phật lịch sử và cách nay đã lâu lắm, đã khám phá ra một Con Đường thật độc đáo, đấy là Con Đường giúp chúng ta loại bỏ mọi khổ đau và tìm thấy một sự tự do đích thật. Sau khi khám phá ra Con Đường đó thì Đức Phật, lúc ấy còn rất trẻ, đã hy sinh phần còn lại của kiếp nhân sinh cuối cùng của mình để trỏ cho chúng ta trông thấy Con Đường ấy bằng ngón tay của chính Ngài.

Theo dấu chân Ngài

Hôm nay chúng ta là những người đang tu tập bằng cách hướng theo ngón tay của Ngài và bước theo các vết chân của Ngài vẫn còn in đậm trên Con Đường ấy.

Chúng ta cũng không khác gì một đoàn người cùng bước đi trên Con Đường, một đoàn người vô cùng phức tạp: khác biệt nhau về đủ mọi mặt, từ tuổi tác, sức khỏe, văn hóa đến trình độ hiểu biết… Có những người thanh thản và yên lặng tiến bước; có những người bận rộn ngược xuôi nhằm khuyến khích và dìu dắt người khác, thậm chí đưa cả lưng mình để cõng người yếu đuối; lại cũng có kẻ chỉ thích đứng ở các trạm đón xe và chờ người đến rước. Ấy là chưa nói đến các cảnh tượng chen lấn và móc túi, hoặc lường gạt và lợi dụng nhau… Hơn nữa cũng có nhiều người không nhìn theo hướng ngón tay để tiến bước mà chỉ lanh quanh tìm kiếm của cải của người khác đánh rơi hoặc vứt bỏ lại, để rồi nào ôm, nào vác, nào đội lên đầu để mà vừa đi vừa vấp ngã. Không những thế, trên đường lại cũng có những đoàn người đi ngược chiều và chúng ta phải nép sang một bên để tránh không đâm sầm vào họ. Nhìn sang hai bên vệ đường thì chúng ta cũng sẽ thấy nhiều cảnh tượng thật huyên náo: nào chợ búa, cửa hàng, nhà hát, sòng bài, kể cả những cảnh lường gạt, đâm chém, bắn giết, bom nổ, nhà cháy, cầu sập…, và cũng có một số người dừng lại để mải mê nhìn và trong lòng thì vẫn còn cứ muốn xông vào để tham gia.

Bài viết ngắn này phác họa lại bằng một vài nét thật đơn sơ hình ảnh của Con Đường đó với đoàn người đang lầm lũi bước đi, hầu giúp cho mỗi người trong chúng ta nhìn thấy chính mình trên Con Đường đó để chọn cho mình một cách tiến bước tốt đẹp nhất. 

Con đường đến sự giải thoát,Niết Bàn
Con đường đến sự giải thoát,Niết Bàn

Một con đường nhưng hiện lên với những phương cách thực tập đa dạng và linh hoạt

Thật vậy khi còn tại thế Đức Phật đã từng giảng dạy về Con Đường cho mọi người theo nhiều trình độ hiểu biết khác nhau. Ngài đã giải bày cho những người nông dân chất phác, thế nhưng cũng từng đưa lên một cánh hoa và không nói lên một lời nào cả để giảng về Con Đường ấy cho những người khác. Sự kiện đó cho thấy tuy Con Đường luôn là một, lúc nào cũng là một, thế nhưng lại mang nhiều sắc thái khác nhau. Vì thế mà Vị Thầy cũng đã phải sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau. 

Sau khi Ngài tịch diệt thì Con Đường thay Ngài làm Vị Thầy để hướng dẫn chúng ta, và các đệ tử đã họp nhau lại để cố giữ gìn cho Con Đường luôn được chỉnh trang và quang đãng. Họ quét dọn rác rưởi, thu dọn chướng ngại và mở rộng thêm, mỗi lần như thế thì lại gọi là một Đại Hội Kết Tập Đạo Pháp. Vì mục đích thích ứng với các trào lưu tư tưởng và các nét đặc thù văn hóa địa phương của từng thời đại và cũng do tánh khí khác biệt của các đệ tử sau này mà Con Đường đã có đôi chút biến dạng và cũng đã khoác thêm cho mình một vài trang trí mới khiến quang cảnh có phần khác đi phần nào.

Ngoài những người mặc áo màu nghệ ra thì người ta còn trông thấy trên Con Đường có cả những người mặc áo màu đen, màu lam, màu đỏ sậm, màu nâu…

Thật thế, ngay từ lần Kết Tập tổ chức vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch, người ta cũng đã thấy xuất hiện hai tông phái khác nhau. Sau đó đến lần Kết Tập vào thế kỷ thứ I sau Tây lịch thì hai tông phái này đã nhân lên gấp đôi, và mỗi tông phái lại gồm có nhiều học phái, tổng cộng là 18 học phái tất cả. Thế nhưng hầu hết các học phái này đã mai một và chỉ còn lại một học phái tồn tại đến nay dưới một hình thức mới gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy hay Theravada. Đồng thời cũng vào khoảng thế kỷ thứ I, người ta cũng thấy xuất hiện trên Con Đường một một khuynh hướng mới gọi là Đại Thừa. Đại Thừa sau đó lại chia ra thành nhiều tông phái, học phái và chi phái khác nhau, chủ trương nhiều phép tu tập khác nhau.

Tóm lại hiện nay trên Con Đường có hai khuynh hướng hay hai chủ trương chính yếu là Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada và Phật Giáo Đại Thừa Mahayana. Sự khác biệt giữa hai khuynh hướng này thuộc vào lãnh vực “thực hành” nhiều hơn, trong khi đó thì “cứu cánh” luôn chỉ là một.

Phật giáo Nguyên Thủy và Phật giáo đại thừa tuy hai mà một

Phật giáo Nguyên Thủy còn được gọi là Phật Giáo “Nam Tông” hay “Tiểu Thừa”. Sở dĩ gọi là Nguyên Thủy bởi vì phần giáo lý căn bản hoàn toàn được dựa vào các kinh sách gốc, tức các kinh sách có nội dung cổ xưa và được xem là chính thống, đấy là Tam Tạng Kinh. Tuy nhiên cũng khó biết là giữa kinh sách Nguyên Thủy và kinh sách Đại thừa thì kinh sách nào xưa hơn, bởi vì tất cả kinh sách bằng chữ viết đều xuất hiện rất gần nhau vào khoảng thế kỷ thứ I trước Tây Lịch.

Hướng về "ánh sáng" giải thoát
Hướng về “ánh sáng” giải thoát

Phật Giáo Nguyên Thủy còn được gọi là Phật Giáo “Nam Tông” vì sau này được phát triển tại các quốc gia thuộc vào phía đông và phía nam của bán lục địa Ấn Độ, gồm các quốc gia như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan và Campuchia. Thế nhưng trên thực tế thì cách gọi đó cũng không được chính xác lắm, bởi vì trước đây hầu hết các quốc này như Miến Điện (Myanmar), Thái Lan và Campuchia đều theo Phật Giáo Đại Thừa và chỉ sau đó thì mới chuyển sang Phật Giáo Nguyên Thủy do quyết định của vương quyền thời bấy giờ.

Nếu gọi Phật Giáo Nguyên Thủy là “Tiểu Thừa” thì lại càng không đúng hơn nữa, bởi vì chữ “Tiểu Thừa” được nêu lên trong các kinh sách Đại Thừa nhằm mục đích phân biệt với chủ trương tu tập mới của tông phái này, bởi vì theo Đại Thừa thì việc tu tập không nhất thiết chỉ mong cầu tìm thấy sự giác ngộ cho riêng mình còn phải giúp đỡ tất cả chúng sinh khác tìm thấy sự giải thoát. Tóm lại nếu gọi Phật Giáo Nguyên Thủy là “Nam Tông” hay “Tiểu Thừa” thì không được đúng lắm, và nếu như không muốn gọi là Nguyên Thủy thì cũng có thể gọi tông phái Phật Giáo này là Theravâda, tiếng Pa-li theravâda có nghĩa là con đường xưa hay giáo lý xưa. Vậy tóm lại có những gì khác biệt trên căn bản giữa hai khuynh hướng Nguyên Thủy và Đại Thừa? Sự khác biệt thứ nhất thuộc lãnh vực kinh sách, sự khác biệt thứ hai là phép tu tập của Đại Thừa rộng hơn và có phần nhập thế hơn.

Giáo lý căn bản của Phật Giáo Nguyên Thủy được quy định bởi các kinh sách xưa hay chính thống gọi là Tam Tạng Kinh, trong khi đó thì kinh sách của Đại Thừa gồm chung cả Tam Tạng Kinh và cả các kinh sách “xuất hiện muộn”, tức là các kinh sách được trước tác từ thế kỷ thứ I trước Tây lịch đến các thế kỷ thứ V và thứ VI, kể cả các kinh sách tan-tra xuất hiện muộn hơn nữa tức vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thứ X. Tuy nhiên tất cả các tông phái đều cho rằng kinh sách thuộc tông phái của mình đều xuất phát từ thời kỳ của Đức Phật lịch sử, bằng cách viện dẫn là Đức Phật thuyết giảng theo nhiều trình độ khác nhau nhằm vào các đối tác khác nhau, các kinh sách liên hệ được cất dấu để tránh khỏi bị mất mát vì chiến tranh và cướp phá và chỉ được tìm thấy khi cơ duyên hội đủ. Thật thế việc khám phá kinh sách dấu kín thường xảy ra trong quá khứ ở Tây Tạng.

Tóm lại Phật Giáo Nguyên Thủy và Phật Giáo Đại Thừa không phải là hai “học phái” hay “tông phái” khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung. Trên phương diện áp dụng thì Phật Giáo Nguyên Thủy đòi hỏi người tu hành phải tách rời sự sinh hoạt của mình ra khỏi đời sống thế tục, phải tuân thủ thật nghiêm túc giới luật, nhắc nhở mình luôn phải buông xả và hướng vào thể dạng giải thoát của một vị A-la-hán. Trong khi đó thì Phật Giáo Đại Thừa nêu lên hình ảnh lý tưởng của một người Bồ-tát nhất định chối bỏ sự giác ngộ tối thượng của mình để lưu lại trong thế giới Ta-bà hầu tiếp tục giúp đỡ tất cả chúng sinh.

Nếu muốn bước vào Đại Thừa một cách vững chắc và dễ dàng thì cũng nên có một số hành trang tối thiểu nào đó về Phật Giáo Nguyên Thủy. Nói như thế không có nghĩa là Phật Giáo Nguyên Thủy chỉ mang tính cách giai đoạn, mà thật ra tự nó cũng là một tông phái đầy đủ và toàn vẹn. Phật Giáo Đại Thừa trái lại dù mang một số khía cạnh và thể dạng khá sâu sắc, thế nhưng các phương pháp tu tập thì lại quá đa dạng. Dù sao đi nữa nếu khởi sự bước vào Con Đường với hành trang của Phật Giáo Nguyên Thủy thì đến một lúc nào đó một sự đòi hỏi khác cũng có thể sẽ tự nhiên phát sinh thúc đẩy người tu tập nên chọn thêm cho mình cách hành xử của Đại thừa. Thật ra thì đấy cũng không phải là cách loại bỏ Phật Giáo Nguyên Thủy khi đã bước được vào Đại Thừa, bởi vì sự chính xác và tinh khiết của Phật Giáo Nguyên Thủy luôn luôn là những gì thật cần thiết cho người tu tập. 

Tóm lại là Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như Đại Thừa cả hai đều bổ khuyết cho nhau. Thoạt nhìn thì Phật Giáo Đại Thừa vô cùng phức tạp, đến độ một số người tu tập theo Phật Giáo Nguyên Thủy có thể cho rằng Phật Giáo Đại Thừa đi trệch ra ngoài Con Đường. Thế nhưng trên thực tế thì các hình thức “biến đổi” chỉ là một sự tiến hoá giúp Con Đường mở rộng thêm vào thế giới thật đa dạng này của chúng ta và mang lại cho Phật Giáo nói chung nhiều khía cạnh mới mẻ và sâu sắc hơn. Phật Giáo Nguyên Thủy tự cho mình là giữ đúng theo giáo lý do Đức Phật thuyết giảng, thế nhưng thật ra thì cũng đã biến đổi không ít theo dòng thời gian, nhằm thích ứng với các bối cảnh địa phương và các xu hướng khác nhau. Một cách thật tổng quát thì có thể xem Phật Giáo Nguyên Thủy mang ít nhiều tính cách “chính thống” khá gò bó và luôn quan tâm giữ đúng theo những gì được ghi chép trong các kinh sách xưa, trong khi đó thì Phật Giáo Đại Thừa mang nhiều khía cạnh “cởi mở” và mang ít nhiều khía cạnh “nhập thế” hơn. Vậy Phật Giáo Đại Đại Thừa thật sự là gì?

Chủ trương cốt lõi của Phật giáo đại thừa

Nếu Phật Giáo Nguyên Thủy chủ trương hình ảnh tinh khiết của một vị A-la-hán thì Phật giáo Đại Thừa đề cao trọng trách của một vị Bồ-tát. Trên Con Đường, nếu tu tập theo Phật Giáo Nguyên Thủy thì cứ nhìn vào vị A-la-hán trước mặt mà bước theo, nếu tu tập theo Đại Thừa thì sẽ cùng sánh vai với người Bồ-tát để hành động như một người Bồ-tát. Hơn nữa ngoài hình ảnh lý tưởng của người Bồ-tát ra thì Phật giáo Đại Thừa còn kết nạp thêm đủ mọi thứ thần linh địa phương, hiền hoà cũng có mà hung tợn cũng có, và đồng thời vô số các vị Phật cũng xuất hiện thêm. Do đó Con Đường đối với Đại Thừa cũng trở nên đông đảo và vui nhộn hơn. Phật Giáo Đại Thừa gồm có ba tông phái hay ba học phái lớn và chính yếu là Tịnh Độ, Thiền học và Kim Cương Thừa.

Pháp môn tịnh độ, chứa đựng tư tưởng đại thừa

Thuở xưa tại Ấn Độ có một vị vua giàu có và rất thông minh xuất gia mang pháp danh là Dharmakara và nguyện rằng sau khi thành Phật thì nếu có bất cứ chúng sinh nào thành tâm cầu khẩn thì Ngài sẽ tiếp dẫn vào cõi Cực Lạc. Sau nhiều kiếp tu tập thì vị này đạt được sự giải thoát toàn vẹn và trở thành một vị Phật mang tên là A-di-đà, hội đủ khả năng tiếp dẫn chúng sinh đúng như lời nguyện ước trước đây của Ngài. Nếu chúng sinh nào muốn được tiếp dẫn về cõi Cực Lạc sau khi chết thì phải thành tâm kêu gọi đến lòng từ tâm của Ngài. Đấy là “pháp môn” Tịnh Độ. Thế nhưng cũng cần phải hiểu là Đức Phật A-di-đà còn nguyện rằng “Cho đến khi nào vẫn còn một chúng sinh chưa được giải thoát thì mình vẫn chưa nhập vào cõi Cực Lạc”, và đấy là những gì cho thấy một cấp bậc cao hơn của Tịnh Độ, tức là sự liên kết chặt chẽ giữa lòng Từ Bi và sự Giác Ngộ.

Căn bản giáo lý của Tịnh Độ được căn cứ vào ba tập kinh là Vô Lượng Thọ KinhA-di-đà Kinh và Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Pháp môn Tịnh Độ chỉ chú trọng đến đức tin và sự cầu khẩn do đó thường được xem là một phép tu tương đối “dễ dàng”. Dầu sao đi nữa thì phép tu này cũng cho thấy một số trở ngại nào đó không thuận lợi lắm cho việc tìm hiểu sâu xa giáo lý của Đức Phật lịch sử là Đức Thích-ca Mâu-ni.

Niệm Phật thành tâm cầu vãng sanh về cõi an lành
Niệm Phật thành tâm cầu vãng sanh về cõi an lành

Thiền tông, con đường “ngắn” và “khó”

Thiền Tông hay Thiền Học còn gọi là Zen hay T’chan. Thiền tông được một vị thầy người Ấn là Bồ-đề Đạt-ma hệ thống hóa tại Trung Quốc vào thế kỷ thứ VI. Thế nhưng người ta thường có khuynh hướng xem Thiền Tông phát xuất từ giai thoại gọi là “niêm hoa vi tiếu” (cầm hoa mỉm cười) từ thời kỳ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni còn tại thế. Trong một buổi thuyết giảng, Đức Phật cầm một cành hoa đưa lên nhưng không nói một lời nào, đại chúng ngơ ngác, chỉ có một người đệ tử là Ma-ha Ca-diếp mặt bỗng bừng sáng và mỉm cười. Sự yên lặng của Đức Phật và nụ cười của Ma-ha Ca-diếp biểu trưng cho sự quán nhận hiện thực một cách trực tiếp, vượt khỏi tính cách quy ước và nhị nguyên của ngôn từ. Do đó người ta xem Ma-ha Ca-diếp là vị Tổ thứ nhất của Thiền Tông Ấn Độ và Bồ-đề Đạt-ma là vị Tổ thứ 28 mang Thiền Tông vào Trung Quốc.

Thiền Tông có thể xem như một phép tu bằng “đường tắt”, và nếu đã gọi là “đường tắt” thì tất nhiên cũng có nghĩa là một con đường “ngắn” và “khó”, và đương nhiên đấy cũng là những gì ngược hẳn lại với con đường của Tịnh Độ trên đây. Kinh sách đặc thù của Thiền học gần như không có gì ngoài một bộ kinh của Đại Thừa nói chung rất gần với quan điểm Thiền Tông là bộ Nhập Lăng Già Kinh, và một số các tập sách khác ghi chép các “công án”. Công án là các câu phát biểu hay các mẫu chuyện ngắn mang tính cách “bất ngờ”, “phi lý” hoặc có thể là các câu trả lời “ngớ ngẩn” hay “lạc đề” nhằm mục đích giúp người tu tập phá bỏ các ngõ ngách của tư duy, vượt thoát khỏi mọi sự lý luận căn cứ vào các thứ hiểu biết bằng quy ước và khái niệm, hầu giúp cho người hành thiền tiếp cận trực tiếp với bản chất đích thật của mọi hiện tượng. Sự quán thấy trực tiếp hiện thực ấy chính là sự Giác Ngộ.

Quay trở về nhìn lại chính mình qua việc ngồi thiền
Quay trở về nhìn lại chính mình qua việc ngồi thiền

Kim Cương Thừa, tông phái phổ biến không kém Tịnh Độ tông

Học phái thứ ba của Đại Thừa là Kim Cương Thừa còn được gọi là Phật Giáo Tan-tra, một thừa Phật Giáo rất toàn vẹn, bao gồm toàn bộ căn bản giáo lý của Phật Giáo nói chung từ Tam Tạng Kinh đến các kinh sách Đại Thừa và quan trọng nhất là các kinh sách tan-tra. Người ta thường hiểu sai và cho rằng Kim Cương Thừa là Phật Giáo của xứ Tây Tạng. Thật ra thì đấy là một tông phái rất lớn, chính thức được hình thành và được hệ thống hóa một cách chặt chẽ tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VIII, và sau đó thì được đưa vào các nước thuộc phía bắc Ấn Độ như Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Nhật Bản…, và đồng thời bành trướng sang các quốc gia khác về phương nam như Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Nam Dương (Indônêxia)…, trước khi các quốc gia này chuyển sang Phật Giáo Nguyên Thủy.

Bằng chứng cụ thể về sự hiện diện của Kim Cương Thừa trong toàn vùng này là di tích đồ sộ của Phật Giáo tan-tra tại cựu kinh đô Pagan của Miến Điện và ngôi đền Phật Giáo tan-tra lớn nhất thế giới là Borobudur tại đảo Java của Nam Dương.

Tan-tra có nghĩa là “những gì che chở cho tâm thức” tức là giữ cho tâm thức vững vàng không bị các thứ xúc cảm bấn loạn, hoang mang làm cho nó bị phân tán. Những gì khác biệt giữa Tan-tra Thừa và các tông phái khác chính là phép tu tập độc đáo của tông phái này: đấy là cách lợi dụng tất cả các sức mạnh của xung năng trong tâm thức để biến chúng trở thành những sức mạnh tu tập hướng vào sự giác ngộ. Thí dụ một gốc cây cho ra những quả đắng và độc hại, thì đối với các tông phái Phật Giáo khác thì phải nhổ bỏ tận gốc, chặt bỏ tận rễ khiến cho nó không còn mọc lại được nữa, thế nhưng đối với Tan-tra Thừa thì người tu tập phải “nuốt” những quả độc đó để chuyển nó thành nguồn sinh lực tinh túy và cực mạnh để giúp mình hướng vào đường tu tập. Tóm lại đấy có nghĩa là chuyển tất cả sức mạnh của mọi thứ xúc cảm, kể cả những thứ xúc cảm bấn loạn nhất, thành ra sức mạnh của sự hăng say và trí tuệ. Hơn nữa phép tập luyện tan-tra còn dựa vào nhiều biểu tượng và nghi lễ thật phức tạp (mạn-đà-la, các câu man-tra, v.v.) do đó tu tập Tan-tra hay Kim Cương Thừa phải cần đến sự chỉ dẫn và giúp sức của các vị thầy đầy đủ khả năng.

Những con đường “giải thoát”

Trên đây là một vài nét phác họa về Con Đường. Phật Giáo Nguyên Thủy tượng trưng cho những bước đi thật chủ yếu và vững chắc, do đó rất tinh khiết. Tịnh Độ chủ trương những bước đi “nhẹ nhàng”, vì thế cũng có thể sẽ phải cần đến một thời gian khá lâu dài để có thể nhìn thấy mức đến ở cuối Con Đường. Thiền Tông là một chủ trương ngược lại và được xem là khá “khó”, phải chủ động được sự vận hành của tâm thức và quán nhận trực tiếp được hiện thực, và do đó cũng có thể đòi hỏi người tu tập cần phải có một vài khía cạnh đặc biệt nào đó phù hợp với phép tu tập này. Sau hết thì Kim Cương Thừa tỏ ra toàn vẹn và tích cực hơn cả, thế nhưng rất phức tạp và đa dạng, cần phải có một lòng quyết tâm khác thường và sự hướng dẫn của một vị thầy đầy đủ khả năng.

Trên Con Đường đó lúc nào cũng có những người tu tập vừa đi vừa ngoảnh lại, hoặc vẫn còn thích ngắm nhìn những cảnh tượng đủ loại ở hai bên đường. Có những người khập khễnh phải nương tựa vào nhau mà đi, có những người ngồi xuống để băng bó vết thương cho những người vấp ngã, và cũng có những người đi rất nhanh. Dù sao thì tất cả mọi người trên Con Đường đều có thể bước vào giai đoạn cuối cùng vào một ngày nào đó. Vậy cái giai đoạn cuối cùng ấy sẽ như thế nào?

Càng tiến bước thì Con Đường có vẻ ngày càng trở nên rộng hơn, thênh thang và chan hòa ánh sáng. Thế rồi vào một lúc nào đó, bất chợt người lữ hành sẽ cảm thấy Con Đường biến đổi hẳn đi, tất cả các điểm chuẩn để định hướng hình như đều tan biến hết không còn xác định được đâu là phía trước, phía sau, bên phải, bên trái, bên trên, bên dưới…, vì thế dù có muốn thì người lữ hành cũng không còn bước thêm được một bước nào nữa, và cũng không thể thụt lùi lại được nữa. Người ấy có cảm giác hình như không gian, thời gian, Con Đường và cả chính mình đã trở thành một.

Cái nhìn đúng đắn

Chánh kiến
Chánh kiến

Dù có dùng tâm thức để “quay nhìn lại phía sau” thì người ấy cũng sẽ chẳng thấy “Con Đường” ở đâu cả. Các tông phái trước đây như Nguyên Thủy, Tịnh Độ, Thiền Tông, Tan-tra… cũng biến mất, hay ít ra cũng không còn đủ sức thu hút nữa, tương tự như các trò chơi bắn bi, đánh đáo hay nhảy dây mà người ấy từng say mê ngày còn nhỏ. Tất cả các hiện tượng đều tan biến không còn tạo ra một sự tương tác nào nữa, các nút thắt của quy luật tương liên đều được tháo gỡ, hiện tượng vô thường và quy luật nguyên nhân và hậu quả không còn gây ra một tác động nào. 

Sự kiện ấy cho thấy là người lữ hành đang đặt chân lên bước cuối cùng trên Con Đường. Sau cái bước ấy thì chẳng có gì để mà sinh ra và cũng chẳng có gì để mà hủy hoại, tất cả đều dừng lại và đình chỉ. Câu chuyện một cuộc phiêu lưu cũng chấm dứt ở đấy.

Bures-Sur-Yvette, 24.01.12

Ứng phó khủng hoảng truyền thông: xây dựng chánh ngữ

Bốn loại thức ăn

Chúng ta biết rằng theo quan điểm nhà Phật thì có bốn loại thức ăn.

Thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng chúng ta. Chúng ta phải phân biệt những thứ có hại – làm mất sự cân bằng trong cơ thể và gây nên bệnh tật – với những thứ không có hại.

Thức ăn chúng ta ăn hằng ngày chỉ là một trong bốn loại thức ăn mà ta tiêu thụ
Thức ăn chúng ta ăn hằng ngày chỉ là một trong bốn loại thức ăn mà ta tiêu thụ

Loại thứ hai là xúc thực, chúng ta tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp qua sáu căn; nhưng chúng ta thường không để ý đến việc chọn lọc loại thực phẩm này. Khi xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc với hình ảnh, khi theo dõi các trang báo mạng chúng ta say mê đọc mà quên mất “bộ lọc” bằng chánh kiến. Có khi những chương trình, những tin tức đưa vào con người ta những độc tố như sợ hãi, căm thù hay bạo động. Có nhiều bộ phim hay chương trình truyền hình mang nội dung thù hận, khơi gợi dục vọng… Gần đây báo chí cũng phê phán một số tiết mục trên TV mang những chất liệu dung tục, bêu riếu đời tư ai đó hay những vở kịch có yếu tố bạo lực câu khách. Chúng ta nhớ Phật đã dùng hình ảnh con bò bị lột da dẫn xuống sông; dưới sông có hàng vạn sinh vật li ti hút máu và rỉa thịt. Nếu chúng ta không giữ gìn thân và tâm bằng chánh kiến và chánh niệm thì các độc tố trong cuộc đời cũng bám lại và tàn phá thân tâm ta.

Còn loại thức ăn thứ ba mà chúng ta có được là tư niệm thực, những ước mơ ta muốn thực hiện trong đời cũng sẽ bị ảnh hưởng. Nhưng xúc thực chứa độc tố khiến ta phát sinh “tư niệm thực” danh lợi tài sắc, chìm đắm trong mê muội. Phật ví như người bị hai lực sĩ khiêng xuống liệng vào hầm lửa một khi ta bị tư niệm thực bất thiện chiếm cứ. 

Cuối cùng là thức thực. Chúng ta là biểu hiện của thức, gồm y báo và chánh báo. Nếu trong quá khứ, tâm thức ta tiếp nhận những thức ăn độc hại thì nay tâm thức ta biểu hiện ra y báo và chánh báo không lành.

Nói như Thiền sư Nhất Hạnh thì “… những gì chúng ta nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc, suy tư, đều như sông về biển tâm thức, kể cả những vô minh, hận thù và buồn khổ”. Chúng ta nhập vào từ bi hỉ xả hay trạo cử, hôn trầm, giải đãi, phóng dật? Phật đã dùng hình ảnh người tử tù và ông vua. Buổi sáng vua ra lệnh lấy 300 lưỡi dao đâm qua thân người tử tù. Buổi chiều và tối, vua đều hỏi “Kẻ đó bây giờ ra sao?”. Nếu cận thần tâu lên “Còn sống”, vua lại ra lệnh lấy 300 lưỡi dao đâm qua người. Những mũi dao của tham lam giận dữ, ganh tỵ, vô minh… Những ví dụ ấy được ghi lại trong kinh Tử nhục, nghĩa là thịt của đứa con, răn dạy chúng ta phải giữ gìn chánh niệm.

Khủng hoảng truyền thông xảy đến với bất kỳ ai

Trở lại với xúc thực hôm nay, chúng ta thấy gì, nghe gì? Bao nhiêu người có thể đâm vào tim bạn bằng những lời lẽ của họ, những phỉ báng, nhận xét của họ, nhất là khi “mạng xã hội” trở thành một công cụ trao đổi, giao lưu, thông tin và bình luận. Người ta phát hiện hàng ngày, người ta, nhất là giới trẻ, thường xuyên online, nhưng lại chưa được trang bị để đối phó với sự lạm dụng, hay bị sỉ nhục, thậm chí ức hiếp. Có những trường hợp phát hiện quá muộn, gây tổn thương đến mức đem lại thảm kịch ngay trong đời thực, không còn trong thế giới ảo nữa.

Một phân tích tổng hợp cho thấy, tỷ lệ tự tử vì bị sỉ nhục trên mạng nhiều hơn đáng kể so với bị ức hiếp trực tiếp. Xử sự tàn ác với người khác thì không có gì là mới, nhưng với sự giúp đỡ của công nghệ, sự sỉ nhục ấy được cường điệu và phổ biến rất nhanh vì sự xấu hổ ở thế giới thực chỉ trong phạm vi gia đình, làng xóm, trường học hay cộng đồng xung quanh, thì ở thế giới ảo, số người có thể xúc phạm đến bạn nhiều vô kể.

Ngày nay, có càng nhiều trường hợp bị xỉ nhục qua các trang truyền thông
Ngày nay, có càng nhiều trường hợp bị xỉ nhục qua các trang truyền thông

Trong những năm qua, người ta đã gieo những hạt giống của sự xấu hổ và sự tổn thương trên mảnh đất văn hóa của chúng ta, cả ở thế giới thật và ảo. Có nhiều nhà xã hội học đã lên tiếng “Chế giễu công khai là một trò chơi đổ máu cần phải dừng lại”. Vì thế, khi văn hóa sỉ nhục bắt đầu lan rộng, cái mà chúng ta cần là những chế tài hay “rào cản” văn hóa. Đã đến lúc cần có “kỷ luật” đặt ra với Internet và với nền văn hóa của chúng ta.

ChildLine – một tổ chức phi lợi nhuận của Anh chuyên giải quyết những vấn đề của người trẻ – đã đưa ra một thống kê đáng kinh ngạc vào những năm trước: các cuộc gọi và email yêu cầu được giúp đỡ liên quan tới xúc phạm trong thế giới ảo tăng tới 87%. Vì trong nền văn hóa sỉ nhục này, làm người khác tổn thương được trả giá. Cái giá này không đo được những gì mà các nạn nhân, đặc biệt là phụ nữ, người dân tộc thiểu số, các thành viên trong cộng đồng người đồng tính phải gánh chịu. Nhưng nó lại đo được lợi nhuận của những người săn tìm. Họ kiếm tiền bằng những click. Càng nhiều click thì càng nhiều tiền quảng cáo. Chúng ta đang ở trong một vòng tròn nguy hiểm. Chúng ta click vào những loại tin lá cải càng nhiều thì chúng ta gây nguy hiểm cho cuộc sống của đồng loại mình càng lớn.

Những trang mạng xã hội đang trở thành một thứ công cụ hai mặt: cả tích cực và tiêu cực, phần tiêu cực không phải là ít, mà rất đáng kể. Mặt tích cực là khi người ta có không gian “mạng” để tự do ngôn luận, người ta mau mắn chia sẻ ý tưởng, thúc đẩy thông tin lan nhanh và trên diện rộng, khích lệ đổi mới, sáng tạo trong nhiều lãnh vực. Theo Tổng thống Obama, “… Facebook hay các công ty công nghệ lớn đã hình thành như vậy. Khi có tự do báo chí, nhà báo và blogger đưa ra ánh sáng những bất công, sai phạm, quan chức sẽ bị giám sát và xã hội sẽ có niềm tin vào hệ thống chính trị”.

Nhưng ở khía cạnh tiêu cực, người ta dễ dàng bêu riếu kẻ khác, phỉ báng, vu khống kẻ khác vì tư thù. Cư dân mạng tin và truyền đi một câu chuyện thương tâm, ngang trái nào đó được bịa đặt “post” lên facebook để câu “like”. Chưa kể ngôn ngữ hôm nay thường đi kèm hình ảnh nên hiệu ứng xã hội rất dễ lan tỏa, tác động lớn. Có bậc thức giả đã nhận định: “Ngôn ngữ và hình ảnh như vậy có thể nó là những chất liệu truyền thông chính trong xã hội loài người. Vì là nguồn hướng dẫn và tạo dựng nhân cách cho con người, truyền thông có thể xây dựng một xã hội, một đất nước trở nên tốt đẹp; nó cũng có thể phá hoại, làm tan rã một đất nước, một xã hội, một cộng đồng…”.

Ý thức sức mạnh của truyền thông, chúng ta phải làm thế nào để tránh được những tiêu cực do tâm tham lam và thù hận của con người gây ra, làm ô nhiễm đời sống chúng ta với những xúc thực, đoàn thực độc hại… Có nhà xã hội học còn quy trách nhiệm của những hành vi tội ác do nhiễm từ phim ảnh, games, video clips trên mạng xã hội.

Xây dựng chánh ngữ

Chánh ngữ thuộc khẩu nghiệp. Trong ba nghiệp chướng của con người, khẩu nghiệp khó kiểm soát hơn thân nghiệp và ý nghiệp, bởi vì lời nói vô cùng phong phú đa dạng, phần lớn xuất phát và thay đổi theo trạng thái tâm lý. Các trạng thái đó lại không phải lúc nào cũng ổn định mà thay đổi thất thường, vui buồn, thương ghét chợt đến chợt đi, hôm nay là bạn bè, nhưng ngày mai lại là đối thủ. Cho nên lời nói cũng theo cái lưỡi không xương mà lắt léo: “Yêu ai yêu cả đường đi, Ghét ai, ghét cả tông chi họ hàng”.

Đức Phật đã đưa vào năm giới cấm và mười điều ác (khẩu nghiệp chiếm đến bốn, ý và thân mỗi thứ chỉ có ba) nhằm giúp chúng ta hạn chế nói năng, giải trừ ác nghiệp, vun bồi thiện nghiệp trong việc tu hành và đối nhân xử thế.

Cũng như ý nghiệp và thân nghiệp, khẩu nghiệp có thiện, ác và không thiện không ác (trung tính). Thiện nghiệp là những lời nhẹ nhàng, êm ái, hòa nhã… Ác nghiệp là những lời hung dữ, cay độc, cộc cằn, khiêu khích, đâm thọc, tráo trở, thêu dệt… Ngoài ra, ác nghiệp còn được ẩn chứa, che giấu trong lòng của những người nham hiểm bằng những lời ngọt ngào, trìu mến, bùi tai, khó lường, khó nhận ra. “Miệng nam mô bụng một bồ dao găm”.

Một câu nói lợi ích còn tốt hơn ngàn lời vô nghĩa
Một câu nói lợi ích còn tốt hơn ngàn lời vô nghĩa

Một cách để xét xem bạn có sử dụng chánh ngữ hay không là hãy dừng lại và tự hỏi trước khi nói: “Điều này nói có đúng không? Điều này nói có tử tế không? Điều này nói có ích lợi không? Có làm hại ai không? Có đúng lúc để nói điều đó không?”. Dùng chánh niệm để củng cố thêm quyết tâm không nói điều gì gây tổn hại và chỉ nói những lời nhẹ nhàng, đã được chọn lọc có thể mang lại sự hòa hợp cho mọi người trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào.

Giờ đây, chúng ta nói về phép thực tập gọi là nói. Vì chúng ta biết rằng nói năng có thể đem lại hạnh phúc cho chính bản thân chúng ta và cho những người chung quanh. Chúng ta phải học hỏi và thực tập như thế nào để có thể sử dụng được công cụ đó hữu hiệu vì mục đích của chúng ta là tạo hạnh phúc.

Chỉ riêng việc không nói sai sự thật, chúng ta đã được tám điều lợi ích sau theo kinh Mười điều lành:

  1. Được thế gian kính phục.
  2. Lời nói nào cũng đúng lý, được người, trời kính yêu.
  3. Miệng thường thơm sạch, nói ra có mùi thơm, như hoa ưu-bát-la.
  4. Thường dùng lời êm ái, an ủi chúng sanh.
  5. Được hưởng lạc thú như ý nguyện, và ba nghiệp đều trong sạch.
  6. Lời nói không buồn giận, mà còn tỏ ra vui vẻ.
  7. Lời nói tôn trọng, được người trời đều vâng theo.
  8. Trí tuệ thù thắng, không ai hơn.

Tóm lại, nói thật là tốt nhất, khi nó trở thành một giới luật được Đức Phật đề cao. Ngoài ra chúng ta nên nói lời hòa ái (ái ngữ) xây dựng hòa bình và yêu thương giữa con người, tránh tà ngữ, nói chuyện phù phiếm, nói sau lưng, mà Đức Phật gọi là những lời nói vô nghĩa hay u mê.

Nguy hại khôn lường của “Tà ngữ”

Nói sau lưng người (gossip) là nói lời thêu dệt, tà ngữ, trong VHPG đã có một bài dịch về “Nói lời thô lậu” cách đây đã lâu. Bản tánh con người thường tin vào bất cứ điều gì chúng ta nghe trước, dầu đó có thể chỉ phản ảnh quan điểm của một người. Những điều nói đó ban đầu có thể dựa trên sự thật, nhưng lời nói sau lưng thường được phóng đại, thêm thắt.

Tà ngữ, hay còn gọi là khẩu nghiệp, tai hại khôn lường
Tà ngữ, hay còn gọi là khẩu nghiệp, tai hại khôn lường

Vào thời Đức Phật, hành động này còn có thể lật đổ cả một bang:

“Dân tộc Licchavi là một bộ tộc độc lập, kiêu hãnh, một trong những thành viên có quyền lực và quan trọng nhất của một liên bang hùng cường của tám dòng tộc. Vua A-xà-thế, một vị đế vương đầy tham vọng, người ủng hộ của vị tà sư Đề-bà-đạt- đa, dự định sẽ xâm chiếm và đánh bại dân tộc Licchavi. Tuy nhiên, vị vua này cũng tham khảo ý kiến của Đức Phật về dự định xâm chiếm này. Đức Phật nói dân tộc Licchavi sống rất hòa hợp, và khuyên nhà vua, “Ngài không thể xâm lấn, chế ngự họ khi họ còn biết đoàn kết và hòa hợp với nhau”. Nhà vua hoãn lại việc xâm lăng và suy nghĩ về lời của Phật.

Sau đó vua A-xà-thế nghĩ ra một kế đơn giản nhưng ác độc. Nhà vua truyền cho vị thủ tướng của mình nói nhỏ điều gì đó vào tai của một người Licchavi. Vị quan này đến gặp một người Licchavi và nói nhỏ một cách bí mật, “Có lúa trên ruộng đồng.” Đó chỉ là một câu nói vô nghĩa, tầm thường. Ai cũng biết lúa có thể được tìm thấy ngoài đồng ruộng.

Nhưng khi thấy hai người thầm thì, một người Licchavi khác bắt đầu suy đoán không biết thủ tướng của vua Ajatasattu đã nói gì với bạn mình. Nên anh ta đến hỏi, thì người kia lặp lại câu nói là có lúa ngoài ruộng. Nghe vậy, người Licchavi thứ hai đã nghĩ, “Anh ta đang giấu sự thật. Anh ta không tin mình. Anh ta tự đặt ra câu nói xuẩn ngốc về ruộng lúa để lừa dối mình”. Mang đầy nghi ngờ trong lòng, người này lại đến nói với một người Licchavi khác nữa rằng có người đã thầm thì với vị thủ tướng của vua A-xà-thế. Người đó lại kể cho người khác nữa nghe, và cứ thế, cho đến khi mọi người tin rằng người đàn ông kia là gián điệp và đã có một hội kín được bí mật thành lập trong cộng đồng của họ.

Vậy là hòa bình tan vỡ. Người Licchavi kết tội lẫn nhau, rồi sinh ra tranh cãi, và chiến tranh bùng nổ giữa các gia đình lãnh đạo trong liên bang. Nhận thấy kẻ thù của mình đang mất đoàn kết, vua A-xà-thế khởi quân xâm lấn dân tộc Licchavi, và đã thắng trận dễ dàng. Sau đó, nhà vua lại tiếp tục xâm chiếm những bộ tộc còn lại. (Thiền sư Bhante Henepola Gunaratana, Chánh ngữ, Việt dịch, Diệu Liên Lý Thu Linh, www. vomonthientu.org)

Lời kết

Từ ngàn xưa đến nay, chánh ngữ vẫn là giới luật để khẳng định tính Người trong xã hội vì nó xuất phát từ chánh niệm và chánh tư duy. Đó cũng là con đường mà chúng ta hơn bao giờ hết cần đề cao và xây dựng hôm nay trong bối cảnh thời đại internet với tính hai mặt mà mặt tiêu cực hiện nay đang có phần lấn át. Nên thay.

Nguyên Cẩn | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018