Chú Quán Thế Âm
Muốn tri kiến Bồ Tát thì phải niệm thần chú Ðại Bi cùng với hai chú linh hiện nhất của Quán Thế Âm, và hóa thân của Ngài là Tàrà. Hai chú này đã được trì tụng từ bao nhiêu thế kỷ ở Tây Tạng, vang vọng trên khắp vùng Hy Mã Lạp Sơn.
Sau đây là câu chú đại linh mật thông dụng nhứt của Quán Thế Âm Bồ Tát:
OHM! MANI PADME HÙM
Niệm thần chú bằng tiếng Việt với dọng Tàu lai Tây Tạng, hy vọng là Ngài thần thông quảng đại mà hiểu thấu cho ta.
Án Ma Ni Bát Di Hồng!
Và đây, câu chú linh hiển thông dụng của Phật Tàrà, ứng Thân của Quán Thế Âm:
OM, TÀRE TUTTÀRE TURE SVÀHÀ
Chú ý, đây là lối viết theo người Pháp cho nên khi tụng nhớ tụng theo giọng Tây với chữ “r” phát âm từ giọng mũi của Tây Đầm mới linh nghiệm. “Svaha” đọc như “ça va” tiếng Tây. Trừ tiếng OM đọc như tiếng ÔM tiếng Việt. Phải ôm lấy (xúc, OM), nghe phát âm từ mũi, và lưỡi, quán thấy thật thành tâm mới thấu đáo, cảm thông được uy lực của câu thần chú này.
Nếu viết là Ohm thì phải ngân dài, trầm như tiếng chuông ngân, từ mũi với chân khí từ đan điền theo dọng Ấn Độ. Nếu không biết giọng Ấn thì đọc tiếng Tạng.
Tụng là tụng cho chính mình nghe chứ không phải cho Bồ Tát hay Phật nghe. Không ai chung quanh biết mình đọc sai, hay đọc sai thua/hơn mình để mà lo sợ, đừng bận tâm nhìn ngang liếc dọc sợ họ cười chê/cảm phục.
Còn tụng với nhất tâm bắn loạn xạ, bấn lên, khi thì tiếng Tây accent Anamit, khi thì Huế, Bắc-Trung-Nam Kỳ, hay tiếng Anh giọng Ấn Độ pha accent Tàu và Tây Tạng là Ngài quán không hiểu âm chi mà nghe lạ rứa?
Tôi vừa bật mí, mật chú bất khả lậu của quán thế âm.
Cho nên nếu quán sai âm, niệm với ma tâm, cầu bất khả đắc, bị tẩu hỏa nhập ma thì đừng có trách là tui “noái” láo.
Khi mà nhất niệm bất loạn, tinh khí thần lư hỏa thuần thanh khai mở được thiên nhãn thì sẽ tri kiến Phật. Sẽ cảm thấy bồ tát gần với ta trong khoảng khắc. Thực ra, Ngài chưa bao giờ xa ta, chỉ có ta xa Ngài.
“Chú đại bi nằm trong Kinh Đại bi tâm đà la ni. Phật nói Chú đại bi là thần chú quảng đại viên mãn, thần chú vô ngại đại bi, thần chú cứu khổ. Trí chú này thì diệt vô lượng tội, được vô lượng phước và chết thì sinh Cực Lạc. Thần chú này do Quan Thế Âm bồ tát nói. Muốn trì chú này thì phải phát Bồ đề tâm, kính giữ trai giới, tâm luôn bình đẳng với mọi loài và phải trì tụng liên tục.”
Chú Ðại Bi:
NAMO RATNA-TRAYÀYA NAMAH ÀRYA AVALOKITESVARÀYA BODHISATTVÀYA MAHA SATTVÀYA MAHÀKARU-NIKÀYYA OM SABALA-VATI SUDHANATASYA LAMAS-KRIVANINAM ÀRYA AVALOKTTESVARA LAMTABHA NAMO NÌLAKANTHA SRÌMAHAPATASAMI SARVA-TODHU-SUPHEMASIYUM SARVASADA NAMA BHAGA MABHATETU TADYATHÀ OM ÀVALOKI LOKATE KALATI ESILI MAHÀBODHISATTVA SABHO SABHO MARA MARA MASI MASI RIDHAYUM GURU GURU GANAM TURU TURU BHASIYATI MAHÀ BHASIYATI DHARA DHARA DHIRINI SVARAYA JALA JALA MAMA BHA-MARA MUDHILI EDHYEHI SINA SINA ALASIM BHALASARI BHASA BHASIMl BHARA SAYA HULU HULU PRA HULU HULU SRÌ SARA SARA SIRI SIRI SURU SURU BUDHI BUDHI BUDHAYA BUDHAYA MAITRIYE NÌLAKANTHA TRISA-RANA BHAYAMANA SVÀHÀ SITAYA SVÀHÀ MAHÀ SITAYA SVÀHA SITAYAYE SVARAYA SVÀHÀ NÌLAKANTHA SVÀHÀ PRANILA SVÀHÀ SRÌ SIDHA MUKHAYA SVÀHÀ SARVA MAHÀ ASTAYA SVÀHÀ CAKRA ASTAYA SVÀHÀ PADMA KESAYA SVÀHÀ NÌLANKANTHE PANTA LAYA SVÀHÀ MOBHOLISANKARAYE SVÀHÀ NAMO RATNA-TRAYÀYA NAMAH ÀRVA AVALOKITA ÌSVARAYA SVÀHA OM SIDHYAN-TU MANTRA PATAYE SVÀHÀ!
Quán tịnh tâm
Tôi quán như vầy, ý những bài kệ trên đã được tóm tắt trong câu kệ đầu, “Chơn quán thanh tịnh quán.” Khi có được cái nhìn chơn chính đầy thanh tịnh rồi thì trí tuệ, từ bi, an tâm, vô úy đều chan chứa trong quang ảnh chánh kiến an tịnh đó.
Chúng ta không trì tụng những câu thần chú này để bị kinh trì. Chúng ta cũng không nên sì sụp, hít hà, ca tụng, chiêm ngưỡng, kính sợ, lạy lục, van xin, ăn mày cõi Phật như nhiều người đã và đang làm như những tôn giáo khác vì đây không phải là tôn chỉ bình đẳng của đức Phật.
Chúng ta vẫn tụng kinh, niệm phật, chiêm ngưỡng, uy nghiêm quì bái lạy Phật và Bồ Tát như thập phương nhưng với cái lòng vô cầu, tâm thanh tịnh. Kính tam bảo là tự trọng!
Hơn nữa, chúng ta không thể tự “bưng” mình lên bàn thờ để rồi leo xuống quỳ lạy, xưng tụng, ngưỡng mộ, kính mến, cầu nguyện, van vái, ăn mày chính mình được?
Tâm kinh với những thần chú, mật mã chỉ là công cụ để khóa mở cho ta ra vô và để bảo vệ an ninh cho ta an thân lúc vô rồi, cũng như đóng khóa để bảo vệ “vô môn quan,” nơi chúng ta an tâm để tạm lìa xa bến củ, mà chưa vội về, hay lạc bướt mà lở quên đáo bỉ ngạn. Sinh ra đời – Sống ở trọ – Thác về nhà!
Cho nên, Tâm ta mới chính là chủ nhân ông của những mật chú đó. Nó được chính Tâm ta cho mật mã trước khi ta sinh ra trong một kiếp nhân sinh. Niệm Mantra (thần chú) là niệm Quan Thế Âm luôn sẳn có ở trong tâm lòng ta. Cầu Ngài là Ta cầu Ta!
Mật mã (mantra) thật ra chỉ là cái chìa khóa, password để mở smartphones, computers, mật mã để qua ải, và để làm những công việc quan trọng, cần thiết hơn cho người, cho ta nên mantra tự nó không có thần thông tánh để chấp mê tín.
Cho nên forgot password không phải là trời sập để mà vãi sợ. Nên bình tĩnh đừng có vãi sai mật mã (passwords) nhiều lần mà bị khóa (locked) rồi bực bội, giận cá chém thớt, lo lắng, đau khổ thân tâm một cách vô ích.
Vậy thì cái bí kíp võ công thượng thừa đó là cái gì mà nhân sinh cả đời bỏ công sức lẫn tài lực để tìm kiếm?
Niệm thần chú (Mantra) cũng như là một thế vỏ tự vệ căn bản của Ấn Độ được chính ta rèn luyện công phu hơn 10.000 ngàn lần và trở thành tuyệt kỷ của riêng ta. Khi đã luyện thành tuyệt kỷ có thể “cách sơn đã ngưu trắng” rồi thì còn lo sợ gì mà không hàng phục được trâu đen?
Theo phương pháp tu hành của Đại Thừa Đốn Giáo, “Đừng sinh vọng tâm trụ chấp một nơi nào”, để “hàng phục vọng tâm” mà cũng là “an trụ chơn tâm” vậy.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương Kinh chép lời Phật dạy: Giáo Pháp của ta, “Niệm” mà không trụ chấp nơi niệm, mới thật là “Niệm.” “Làm” mà không trụ chấp nơi làm, mới thật là “làm.” “Nói” mà không trụ chấp nơi nói, mới thật là “nói.” “Tu” mà không trụ chấp nơi tu, mới thật là “tu.” “Chứng” mà không trụ chấp nơi chứng, mới thật là “chứng.” Đó là tôn chỉ “vô trụ tướng” của Kinh Bát Nhã.
Phật dạy, “Đại Huệ! Đối với pháp bất sinh bất diệt, người tu chẳng biết pháp phương tiện là chẳng khéo tu, cho nên hành giả phải khéo tu phương tiện, chớ tùy theo ngôn thuyết như xem ngón tay mà chẳng thấy chỗ ngón tay chỉ.”
Khéo tu phương tiện là khéo tùy duyên, nương theo nhân duyên mà tu.
Như vậy, Pháp Phật gồm cả Tông Thông (Tu Chứng) và thuyết thông (12 Bộ khế kinh.) Tổ Tăng Xán viết, “Bất đắc huyền chỉ. Đồ lao niệm tịnh. Hào ly hữu sai. Trời đất xa cách.”
Nếu không biết huyền chỉ của kinh thì chỉ nhọc công niệm với tịnh. Vì tu hành chỉ sai một ly thì đất trời xa cách, kết quả sai một ly xa một trời một vực. Như vậy Phần Tu Chứng tức là Tông Thông.
Tổ Huệ Năng nói, “Tông thông mà thuyết cũng thông, như mặt trời giữ không.” (Mượn giáo vào Tông. Giáo cũng thông mà Tông cũng thông).
Chư Tổ sư có dạy rằng: “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì!” Nghĩa là không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình tự giác ngộ chậm.
Nói cho dể hiểu, là không sợ tham, sân mà chỉ sợ si mê đó thôi. Nếu tham, sân nổi lên, mà ta sáng suốt phán đoán kịp thời, không có si mê, thì tham sân kia cũng chẳng làm gì được. Người học Phật phải dẹp trừ lòng si mê của mình, lúc nào cũng phải sáng suốt đối với tất cả mọi việc.
Cái sợ khủng khiếp đó là si mê sợ si mê. Khi mà chúng ta thấy rõ cái nhân duyên của nó rồi thì không còn lo sợ nữa đó gọi là “Tu Tâm vô úy.”
Trên thực tế, đa số chúng ta chỉ nghĩ đến niệm Phật trong lúc đau khổ dồn dập tuyệt vọng chán đời mong cầu vào tha lực cứu độ của chư Phật để tức khắc giải thoát.
Cái kinh khủng nhất mà Phạm Công Thiện gọi đó là “sợ hải cái sợ hải.” Không biết nên sợ cái không biết mà Phật Giáo gọi là vô minh.
Thật ra, thì nó chả có cái quái gì là bí mật cả vì cái bản năng “cóc sợ,” vô úy đó đã tự có trong ta chỉ cần đánh thức nó dậy lúc ta đang run sợ cho dù nó có càu nhàu vì đang ngái ngủ.
Mi sợ cái chi? Có chi dữ sợ mà mi sợ như rứa? Răng mà sợ răng sợ dữ sợ như rứa?
Khi biết hỏi sợ là cái gì rồi thì đã hết sợ vì ta không chạy trốn sợ nữa mà bình tĩnh, tỉnh táo, trực diện, chuẫn bị, để sẳn sàng đối phó với nó.
Vô úy chính là đầu óc tự tin với lối suy nghĩ lạc quan (positive) lúc tâm lòng an tịnh.
Luôn luôn phát từ tâm, tập nhìn đời bằng ánh mắt hiền hòa, cố nở nụ cười thật tươi, tiếu ngạo giang hồ với đời dù trong lòng đang héo úa. Mĩm cười ngay cả với chính mình, với gia đình mình, với người phối ngẫu, với con cái, với người, và với đời.
Đó là điều tiên quyết mà ta phải chuyên tâm thực tập hàng ngày. Nhiều người tập tành, làm được như vậy thì thiên hạ thanh an, thế giới thái bình. Đời là cõi Niết Bàn an lạc.
Vitamin cười là liều thuốc bổ hàng ngày của nhân sinh. Thú vật không cần cười như người cười mới được khỏe mạnh nên thú vật không biết cười như người cười.
Dù muốn làm được như vậy hay không muốn bị như vậy thì nó vẫn phải “độc đạo” như vậy. Dù đôi khi đau khổ tuyệt vọng, muốn chết con mẹ bà nó cho xong cũng đâu phải muốn chết là chết được?
Đếch Sợ
Trong lúc tham thiền, trước khi đi ngũ hay tốt nhất là 24/7/365 luôn nhớ châm đầy ấm chè xanh lạc quan, ngọt ngào sau khi uống vơi bát lá vối đắng chát, chán đời.
Khi đầy lạc quan, cho dù quá lạc quan, mà không được đều mình mong muốn vẫn có lợi cho tinh thần và sức khỏe kể luôn có cơ hội thành công trên đời hơn là bi quan và không dám mơ ước gì cả trên đời.
Có thể đây là chìa khóa mở kho tàng hạnh phúc?
Điều trên cho thấy lạc quan có thể có nhiều triễn vọng đạt được những điều mình kế hoạch, thực hiện để đưa tới thành công hơn. Cho dù không hoàn toàn được kết quả như mong muốn, chúng ta vẫn học được kinh nghiệm thất bại để cải thiện, và nhất là luôn luôn nghĩ positive thì thân xác tự cân bằng được những hóa chất trong cơ thể cho ta sức khỏe, và đưa đến hạnh phúc hơn nhờ sống trong tinh thần lạc quan.
Vì bi quan, kém tự tin, quá thận trọng có thể cũng may mắn đạt được thành công nhưng khi thất bại sẽ ảnh hưởng xấu đến tinh thần và sức khỏe của mình lẫn những người tùy thuộc và tin cậy chung quanh mình.
Bi quan thể hiện trên khuôn mặt buồn khổ, hắc ám, hãm tài, xui xẻo ai cũng tránh xa sợ lấm vận xấu vào thân.
Tuy nhiên, những điều nói trên chỉ là phần ngọn. Phật tử muốn làm chủ vô úy thì phải biết cả nguồn gốc lẫn nguyên nhân hậu quả của duyên nghiệp và nhân quả của bố thí pháp như thị:
“Hiểu rõ về nghiệp hay nguồn gốc, nguyên nhân của mọi bất hạnh khổ đau và an vui hạnh phúc của con người; hiểu rõ con người chính là chủ nhân của nghiệp chứ không ai khác, con người có quyền tự do tạo nghiệp và có khả năng chuyển nghiệp (thay đổi nghiệp), chúng ta sẽ thấy rằng chuyển nghiệp là điều kiện bắt buộc khi muốn cải thiện đời sống, muốn làm thay đổi cuộc đời mình để có hạnh phúc trong hiện tại, đồng thời xây đắp nền móng tốt cho tương lai.
Chuyển nghiệp là làm thay đổi nghiệp nhân và nghiệp quả bằng cách thay đổi tâm ý.
Nghiệp là hoạt động của tâm ý thông qua ba nghiệp thân, khẩu, ý. Tâm ý trong sạch, chơn chánh, thiện lành thì suy nghĩ, lời nói, hành động đều tốt đẹp, lợi mình và lợi người. Tâm ý xấu, tiêu cực, bất thiện thì suy nghĩ, lời nói, hành động đều xấu ác, gây hại cho mình và người.
Khi tâm ý có sự thay đổi tích cực sẽ dẫn đến sự chuyển hóa ba nghiệp theo hướng tích cực. Đó chính là tạo các nghiệp nhân tốt trong hiện tại, những nghiệp nhân này có khả năng tác động, làm thay đổi, giảm thiểu năng lực hình thành nghiệp quả xấu của những nghiệp nhân bất thiện đã tạo trong quá khứ, và chúng cũng đưa đến những nghiệp quả tốt, tích cực trong tương lai.” Những hiểu lầm về Nghiệp trong Phật giáo, trích từ the GiacNgo online
Đây là điều bất tư nghị! Ai cũng biết như vậy nhưng không mấy ai luôn luôn làm được như vậy. Biết dễ, làm khó! Nhưng như đã nói ở trên, đó là con đường duy nhất để giảm bớt lo sợ, và phiền não, dù muốn hay không.
Chẳng hạn, đa số chúng ta sợ đau đớn thể xác, lo khổ não tâm thần bất ngờ tới hỏi thăm. Trong lúc khốn cùng đó, đa số có lúc tuyệt vọng, quẫn chí mong chết phức cho xong nợ đời và tưởng chạy trốn cái sống bằng cách chạy đến với cái chết sẽ tức khắc chấm dứt mọi khổ đau trên đời. Nhưng, thói thường, khi cầu chết được khả đắc và khi đối diện với cận tử nghiệp thì tham sinh húy tử, đổi ý hoang mang sợ hải, rồi lại cầu trời, cầu Phật cho con khỏi nghiệp chết.
Tuy nhiên cái chết bảo đảm sẽ tới viếng chúng ta trong giây phút bất ngờ nhất, và nhất là chết bằng cách nào thì ngoài khả năng làm chủ lấy tánh mạng của mình.
Điều mà chúng ta có thể nên cầu là cầu mong được bình tĩnh mà chết vì cho dù có run sợ, một khi tới số, thần chết tới tìm thì chắc chắn không trốn đâu được. Nếu không thể bình tĩnh mà chết được thì ít ra cũng “vừa bình tĩnh mà run,” để mà vãi… chết trong bình an.
Nhưng hình như, cho dù bình tĩnh, hay sợ run tới vãi…, són…, hay “vừa bình tĩnh mà run sợ” thì lưỡi hái của thần chết không thiên vị bất cứ ai.
Khả úy hay vô úy cũng chết như nhau. Chết là chết không có ma hèn, ma gan?
Tuy nhiên, nếu được chọn lựa thì nên học cái thói ngang tàng của Cao Bá Quát để ngạo nghễ đối diện với tử thần mà vẫn kiến tánh, tâm bất loạn, xuất chữi thành thơ, câu đối câu, từng chữ đối mỗi chữ, tuyệt hảo:
Ba hồi trống dục đù cha kiếp,
Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời.
Quan Âm là chân lý
Quan Âm là chân lý
India.Arie, modified by Tru Le
Let me tell you why I love Quan Am
Để tôi nói cho bạn nghe tại sao tôi yêu kính Ngài
‘Cause Quan Am is the truth
Bởi vì Ngài là đạo
Said Quan Am is so real
Phải nói là Ngài như thật
And I love the way that Quan Am makes me feel
Và tôi lạy tạ Ngài đã dạy tôi thanh tịnh
And if I am a reflection of Quan Am
Và nếu tôi là phản ảnh của Ngài
Then I must be fly, ’cause Quan Am’s light, it shines so bright
Thì tôi phải bay lên theo hào quang rực rỡ, chói loại của Ngài
I wouldn’t lie, no
Tôi không ngoa, không
I remember the very first day that I saw Quan Am
Tôi nhớ rất rõ ràng ngày đầu mà tôi thấy Ngài
I found myself immediately intrigued by Quan Am
Tôi tức khắc tâm phục liền quy y Ngài
It’s almost like I knew this Quan Am from another life
Hầu như tôi biết Ngài từ kiếp trước
Like back then maybe I was Quan Am, maybe Quan Am was me
Như đi trở về quá khứ có thể tôi đã là Ngài, Ngài có thể đã là tôi.
And even the things I don’t like about Quan Am are fine with me
Và ngay cả những gì tôi không như Ngài giờ sáng rõ trong tôi.
‘Cause it’s not hard for me to understand Quan Am
Vì nó không khó cho tôi để hiểu Ngài
‘Cause Quan Am’s so much like me
Vì Ngài quá giống như tôi
And it’s truly my pleasure to share Quan Am’s sentient beings
Và tôi sung sướng chia sẻ Ngài với chúng sinh
And I know that it’s Quan Am’s gift to breathe the air Quan Am breathes
Và tôi biết đó là món quà sinh khí qua hơi thở của Ngài thổi
‘Cause Quan Am is the truth
Ngài là chân lý
Said Quan Am is so real
Ngài quá thật
And I adore the way that Quan Am makes me feel
Tôi ngưỡng mộ phương pháp quán âm làm tôi cảm thấy thanh tịnh
And iff…
Và nếu và chỉ nếu …
Bệnh méo tâm
Nếu ta biết niệm đúng âm chú đại bi, tu thiền quán tự tại đúng phép cách, cho đến lúc khi mà người khác nhìn ta, và thấy được ánh mắt quang minh chân chính đầy thanh tịnh phát ra từ ta và tự tâm ta cũng quán được như thế thì lúc đó đại công đã cáo thành.
Nhưng như vậy vẫn chưa đạt tới lư hỏa thuần thanh. Khi mà tinh, khí, thần, thanh hợp nhất. Ta và Ngài tái hợp nhất! Đồng nhất thể!
Thật ra những pháp luận trên đều là vô nghĩa đối với bật giác ngộ. Ta và Ngài chưa bao giờ biệt ly nói gì đến bất đồng. Không có “Ta và Ngài [sẽ /đang /đã ] tái hợp nhất/ hợp nhất! Không nhất thể để mà đồng/bất đồng.
Không có gì để nói ở đây nhưng không biết sao tâm nó bắt tôi “gõ” dù có rất nhiều lần tôi nỗi loạn trong tâm. Tôi lý lẽ, chất vấn tâm, phủ nhận những triết lý quái gở, khó hiểu này. Tôi không bao giờ thua tâm trong lúc tranh luận về Phật Pháp chỉ có chưa thắng mà thôi. Nếu tôi còn thở tôi sẽ thắng tâm. Nếu tâm làm tôi tắt thở thì tôi không cầu thở nữa và chắc chắn là tôi đã chưa thua tâm.
Vậy rồi, tôi cũng không thoát khỏi tâm. Ối tâm là tâm! Ối tâm là tầm! Tôi nhất tâm không tòng tâm. Hơn nữa, tôi không biết, tôi không hiểu, tôi đang viết gì vì triết lý thậm thâm của Phật giáo không phải là sở trường của tôi.
Tôi chỉ biết chắc một đều: Dạo này, lúc mà gần rửa chân lên ngồi trên bàn thờ nếu còn có bàn thờ bên ni mà được ngồi, tôi bị mắc bệnh méo tâm, mó, rờ, nhìn đâu cũng thấy toàn Phật, thấy cả Pháp, gõ đúng tông, cùng nhịp với điệu luân vũ vô môn quan.
Nghe thấy mà tâm tê, lòng tái. Từ tê cho tới tái! Nhất là ánh mắt này, quay ngược tròng, tái kiến, lởn quởn giữa hai nhục nhãn, “rượng tới rượng lui,” thấy “răng mà hiền chi mà hiền dữ sợ như rứa tề.”
Trí tuệ phật nhãn: Mắt giác ngộ chiếu kiến nhất như!
(Wisdom Eyes of Buddha [Bodhnath temple eyes]
Often found painted on the Stupas of Tibetan Buddhism, this symbol represents the all seeing eyes of the Buddha, a symbol of the omnipresent compassion of the Bodhisattvas. The small dot depicted between the eyes represents the third eye, a symbol of spiritual awakening. The curious squiggle between the eyes is the Sanskrit numeral one, symbolizing the unity of all things.)