back to top
25.7 C
Chư Sê
Thứ Sáu, 17 Tháng Năm, 2024
Home Blog Page 150

Tôn giả Mục Kiền Liên – Thần thông đệ nhất

Sự chào đời của Tôn giả cũng có một nhân duyên như Tôn giả Đại Ca Diếp vậy – Tôn giả Đại Ca Diếp là do cha mẹ cầu khẩn dưới cây mà sinh ra; thì Tôn giả Mục Kiền Liên cũng vậy, cũng do cha mẹ cầu tự dưới cây Câu Luật Đà mà sinh ra, cho nên lấy tên của cây nầy đặt tên cho con.

Mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên tuy cầu Thần linh, nhưng không tin Phật, không tin Pháp, không tin Tăng. Bà chẳng những không tin Tam bảo, lại còn hủy báng, phá hoại Tam bảo, nói nào là Tam bảo không tốt, nào là không đáng để tin theo…, cho nên sau khi chết, bà liền bị đọa vào địa ngục. Đợi đến sau khi Tôn giả Mục Liên chứng quả vị La Hán, đắc được lục thông, Tôn giả liền quan sát khắp các cõi giới để tìm mẹ; vừa nhìn đã thấy bà đã bị đọa vào địa ngục. Vì Tôn giả đã khai mở được Phật nhãn, Pháp nhãn, huệ nhãn, đắc được ngũ nhãn lục thông, nên nhìn thấy được mẹ mình đang chịu khổ nơi địa ngục, cơm cũng không có mà ăn; thế là Tôn giả liền đi xin một bát cơm để mang đến cho mẹ.

Tôn giả Mục Kiền Liên

Tôn giả Mục Kiền Liên

Vào đến địa ngục, Tôn giả dâng bát cơm cho mẹ. Bà mẹ của Tôn giả lúc còn sanh tiền vì tâm tham quá nặng nề, cho nên dù bị đọa làm ngạ quỷ nhưng vẫn không dứt bỏ được tâm tham. Bà một tay đỡ lấy bát, dùng vạt áo của tay kia che lại, rồi vội vàng chạy đến chỗ không có các ngạ quỷ, đem bát cơm ra len lén ăn một mình. Vì sao bà phải che bát cơm lại? Vì bà sợ các ngạ quỷ khác đến giành giật, nào ngờ cơm vừa đưa đến miệng thì liền hóa thành lửa. Đây là lý do gì? Đây là vì nghiệp chướng của bà quá nặng nề, nghiệp tội quá sâu dày, cho nên dù là thức ăn có ngon đến mấy, bà cũng không thể ăn được!

Tôn giả Mục Liên tuy là thần thông đệ nhất, nhưng bây giờ thì hết cách, không còn chú để niệm, không thể thi triển thần thông, không còn cách nào khác – đành đi tìm sư phụ thôi: “Những khả năng đệ tử học được, đến nơi đó đều trở nên vô dụng!” Thế là Tôn giả trở về tinh xá Kỳ Hoàn, tìm đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thưa rằng: “Mẹ của con bị đọa vào địa ngục, con mang cơm đến cho mẹ, nhưng mẹ vừa bốc ăn thì cơm liền hóa thành lửa. Xin Phật hãy nói cho con biết nên làm thế nào? Đức Thế Tôn từ bi, xin hãy cứu mẹ của con!”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni liền đưa ra một phương cách giúp Tôn giả cứu mẹ, đó là cách gì? Phật bảo: “Vì mẹ của ông hủy báng Tam bảo, tội nghiệp quá nặng; bây giờ sức của một mình ông không thể nào giải cứu được đâu. Muốn cứu được mẹ ông thì vào ngày rằm tháng bảy, là ngày chư Phật hoan hỷ, cũng là lúc chư Tăng tự tứ, ông hãy thiết lễ Vu lan bồn, đây là lễ cúng “giải đảo huyền” (giải cứu cái khổ bị treo ngược). Trước tiên, ông hãy cúng dường mười phương Tăng; khi mười phương Tăng chưa thọ dụng những thức ăn này thì ông cũng chưa được dùng. Ông trước hết là phải cúng Phật, Pháp và Tăng, sau đó mới có thể thọ dụng những phẩm vật dâng cúng. Vào ngày này, ông thiết trai cúng dường Tam bảo thì mẹ của ông sẽ lìa khổ được vui!”

Thế là Tôn giả Mục Kiền Liên y theo phương cách này, thiết bày pháp hội Vu lan, lễ cúng Vu lan bồn. Cho nên mỗi năm đến ngày này, các chùa đều tổ chức pháp hội Vu lan bồn, siêu độ cho cha mẹ trong bảy đời quá khứ và cha mẹ hiện đời. Có người hỏi rằng: “Cha mẹ của tôi hiện còn tại thế, vậy tôi nên làm gì?” Cha mẹ hiện đời vẫn còn sống thì hãy siêu độ cho cha mẹ trong bảy đời đã qua; siêu độ cho cha mẹ trong quá khứ thì cha mẹ hiện đời cũng sẽ được tăng thêm phước báu, kéo dài tuổi thọ.

Thần thông của Tôn giả Mục Kiền Liên là đệ nhất, vô cùng quảng đại. Có một lần, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp,  trên đường đi, lúc băng qua núi Tu di, Đức Phật gặp một con rồng độc. Con rồng độc này ganh tỵ với Phật, nói rằng: “Sa môn như Ngài mà lại muốn lên trời thuyết pháp à, tôi không cho Ngài đi!” Rồng bèn phun cát độc từ trong miệng ra, muốn dùng nọc độc giết chết Đức Phật, nhưng Tôn giả Mục Kiền Liên đã dùng thần thông biến cát độc thành những bông gòn mềm nhuyễn, không còn tác dụng độc hại nữa.

Rồng độc liếc nhìn: “Thì ra vị sa môn này có thần thông, đã hóa giải hết cát độc của ta!” Thế là rồng độc liền hiện thành một thân to lớn, quấn quanh núi Tu di ba vòng; quý vị thấy có lợi hại không! Rốt cuộc là núi Tu di lớn bao nhiêu? Núi Tu di lớn không thể diễn tả được – bốn bộ châu lớn của chúng ta đều nằm ở bốn bên của núi Tu di. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mục Liên cũng hiện ra thân hình to lớn, lớn hơn cả thân của rồng độc – thân của rồng độc quấn núi Tu di được ba vòng, thì Tôn giả Mục Liên lại hiện ra một thân hình to lớn, quấn quanh núi đến chín vòng. Rồng độc vừa nhìn thấy: “A! Tôn giả lợi hại hơn tôi như thế!” Nhưng rồng độc vẫn chưa chịu thua.

Bấy giờ, Tôn giả Mục Liên lại biến thành một con trùng nhỏ, chui vào trong bụng của rồng độc cắn xé ruột của nó khiến nó vô cùng đau đớn. Rồng độc biết mình không có được thần thông quảng đại như vậy, nên liền quy y theo Phật! Bởi vậy nên nói thần thông của Tôn giả Mục Liên vô cùng quảng đại.

Tôn giả Mục Liên là vị nào? Chính là “Bồ tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương” mà bây giờ chúng ta thường gọi. Bồ tát Địa Tạng Vương vì nhìn thấy mẹ mình phải chịu khổ, Ngài không chỉ không nỡ nhìn cảnh mẹ mình chịu khổ, mà cũng không nỡ nhìn thấy mẹ của tất cả chúng sanh chịu khổ, cho nên Ngài phát nguyện làm Địa Tạng Vương đi vào địa ngục, trông coi tình hình ở địa ngục. Đây là nhân duyên của Tôn giả Mục Kiền Liên.

Phật dạy công đức trì tụng chú Đại Bi

a1

>> Quý vị phát tâm trì tụng Chú Đại Bi tại đây. 

Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử.

Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối 10 phương đạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, 10 phương đạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt.

Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch, báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh, bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng?

Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng?

Và, như người tụng chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường sanh ở trước chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn!

Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.

Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình.

Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền định vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền.

Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt.

Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy chính là tạng dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sanh.

Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi 10 phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng.

Lợi ích cho người tụng kinh chú Đại Bi 7 biến mà bạn nên biết

 Trích ”Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni”.

Phật dạy có bốn hạng người đáng thân cận

“Một thời Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt-kỳ cùng với chúng Đại Tỳ-kheo 1.250 người.

Bấy giờ, vào lúc thích hợp, Ðức Thế Tôn khoác y cầm bát vào thành khất thực. Lúc bấy giờ tại thành La-duyệt-kỳ có con trai của trưởng giả tên là Thiện Sinh, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành, đi đến khu vườn công cộng sau khi vừa tắm gội xong, cả mình còn ướt, hướng đến các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới mà lạy khắp cả.

Phật lại bảo Thiện Sinh:

– Có bốn hạng người thân đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn?

1- Ngăn làm việc quấy.

2- Thương yêu.

3- Giúp đỡ.

4- Đồng sự. Đó là bốn hạng người thân đáng thân cận.

– Này Thiện Sinh, hạng ngăn quấy thì thường làm bốn việc đem lại nhiều lợi ích và hay che chở: 1- Thấy người làm ác thì hay ngăn cản.

2- Chỉ bày điều chánh trực.

3- Có lòng thương tưởng.

4- Chỉ đường sinh Thiên. Đó là bốn trường hợp ngăn cản việc quấy đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.

– Hạng thương yêu thì thường làm bốn việc:

1- Mừng khi mình được lợi.

2- Lo khi mình gặp hại.

3- Ngợi khen đức tốt mình.

4- Thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản. Đó là bốn điều thương yêu đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.

– Hạng giúp đỡ có bốn việc. Những gì là bốn? Đó là:

1- Che chở mình khỏi buông lung.

2- Che chở mình khỏi hao tài vì buông lung.

3- Che chở mình khỏi sợ hãi.

4- Khuyên bảo mình trong chỗ vắng người.

– Hạng đồng sự thì thường làm bốn việc:

1- Không tiếc thân mạng với bạn.

2- Không tiếc của cải với bạn.

3- Cứu giúp bạn khỏi sợ hãi.

4- Khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người.

Nói như vậy xong, Ðức Thế Tôn lại nói bài tụng:

Bạn ngăn ngừa điều quấy

Bạn từ mẫn thương yêu

Bạn làm lợi ích bạn

Bạn đồng sự với bạn.

Đó bốn hạng đáng thân

Người trí đáng thân cận

Thân hơn người thân khác

Như mẹ hiền thân con.

Muốn thân người đáng thân

Hãy thân bạn kiên cố

Người bạn đủ giới hạnh

Như lửa sáng soi người”.

(Kinh Trường A-hàm,kinh Thiện Sinh, số 16 [trích])

Lời Phật dạy về hạng người ra khỏi nước

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Lời bàn: 

Theo tuệ giác của Thế Tôn, bốn hạng người nêu trên đáng để thân cận, vì họ thường đem lại lợi ích và hay che chở cho mình. Ai ngăn ta làm ác, người ấy thật dũng cảm, rất đáng thân cận. Ai biết sẻ chia, mừng khi ta được lợi và lo khi ta bị hại, người ấy thực sự yêu thương ta, rất đáng thân cận. Ai che chở cho ta khi lo sợ, khi buông lung, khi thất thế sa cơ, người ấy hết lòng giúp đỡ ta, rất đáng thân cận. Ai sống hết mình, không tiếc thân mạng và tiền của, không nề lao nhọc, lại còn khuyên bảo ta tế nhị, kín đáo và chân tình, người ấy thực sự đồng hành với ta, rất đáng thân cận.

Ở đời, tìm ra những hạng người có bốn đặc điểm kể trên để thân cận là rất khó. Phải có nhân duyên, quan trọng là phải thành tâm hướng thiện thì mới có thể gặp gỡ và kết duyên lành với bạn tốt lâu dài. Gặp được người tốt mà mình chỉ nhờ cậy và không sửa mình cho tốt thì duyên lành ấy cũng chóng tan. Thế nên, phải phát khởi thiện duyên, nguyện sửa mình để sống lành mới mong gặp được bạn tốt, để cùng nhau xây dựng một cộng nghiệp hạnh phúc, an vui.

Ăn chay có được ăn TRỨNG không | Thầy Pháp Hòa

Trứng và sữa có phải thực phẩm chay?

Theo quan niệm của đạo Phật, ăn chay là tránh sát sinh. Trứng gà công nghiệp trong thời gian không thể thành con, không tạo nên sinh linh nên có thể dùng.

Việc tiêu thụ trứng hay sữa còn phụ thuộc trường phái ăn chay của mỗi người. Do đó, có nhiều người ăn chay vẫn có thể sử dụng trứng, sữa. Nếu theo chế độ thuần ăn chay thì ngoài việc tránh ăn thịt, cá thì cũng phải loại bỏ trứng, sữa.

Một số tôn giáo không xem trứng là thực phẩm ăn chay và cấm sử dụng, chẳng hạn như Ấn Độ giáo và đạo Jain.

Trường phái ăn chay nào có thể ăn trứng, sữa?

Ăn chay là chế độ ăn tránh tiêu thụ các sản phẩm được chế biến từ thịt động vật. Nhưng có một số trường phái và tôn giáo vẫn cho phép tiêu thụ trứng, sữa.

  • Trường phái ăn chay có trứng sữa (Lacto Ovo Vegetarian): Ở trường phái này, bạn cần tránh thịt cá nhưng vẫn có thể bổ sung trứng, sữa vào thực đơn dinh dưỡng.
  • Trường phái ăn chay có sữa (Lacto Vegetarian): Không ăn thịt, cá, trứng nhưng được uống sữa.
  • Trường phái ăn chay có trứng (Ovo Vegetarian): Không ăn thịt cá và sữa nhưng có thể ăn trứng.
  • Các tôn giáo có thể bổ sung trứng trong thực đơn ăn chay: Công giáo, Phật giáo,…

Công đức ăn chay

Chuyện xưa kể rằng, Cố Thuận Chi là một nhân vật hiền đức, chuyên ăn chay, từ trước đến nay chưa bao giờ ăn mặn. Một hôm ông nằm ngủ, rồi ngủ luôn một giấc suốt bảy ngày đêm, khiến cho người nhà phải một phen âu lo cuống quít. Sau khi tỉnh giấc, ông thuật lại với mọi người trong nhà: “Quả là một cuộc hành trình vô cùng ý nghĩa! Đêm ấy, ta đang nằm ngủ thì mơ màng thấy có người đến gọi: Ôi chao ! Đã ngủ rồi sao?”.

“Hóa ra là pháp sư Đạo Quang, vị Đại sư mà hằng ngày ông kính trọng. Ngài nói: “Cố cư sĩ, chúng ta hãy đi nghe kinh nhé!” Tự nhiên ta cảm thấy vô cùng thích thú, liền đáp: Đi thì đi!”.

“Thế là chúng ta cùng đến một đạo tràng rất quy mô rộng rãi. Đạo tràng này trang nghiêm nhã khiết. Tại đó có khá đông thính chúng. Pháp đường trước thì giảng kinh Kim Cương, pháp đường sau thì giảng kinh Báo Ân”.

Công đức ăn chay
Công đức ăn chay

“Vị cao Tăng giảng kinh Báo Ân đến lúc kết thúc dạy rằng: “Các cư sĩ tại gia ăn thịt thì điều cần nhất phải giữ giới không sát sinh. Một là để siêu độ cho cha mẹ, hai là để tiêu trừ tội nghiệp của chính mình. Còn những Phật tử có đạo tâm từng ăn chay thì cố giữ gìn kiên định”. Kế đến pháp sư Đạo Quang dẫn ta đi đến một nơi mà vừa mới chạm mắt đã phải kinh hồn, đó là một cái hồ máu!”.

“Ở chính giữa cái hồ máu có một người đàn bà khóc la thảm thiết, trên thân bà thì vô số những con ốc, con giun đang bò qua, bò lại. Pháp sư giảng một cách rõ ràng: “Thân mẫu hiện tại của ngươi nhờ công đức ăn chay, làm phước của ngươi nên đã được cứu độ, còn người trong hồ ấy chính là mẫu thân trong đời quá khứ của ngươi, vì bà ta thích ăn thịt vịt nên ngày nay mới ra nông nỗi ấy! Nếu ngươi muốn cứu độ bà thoát khỏi khổ báo thì cố gắng tụng chú Đại Bi và chú  vãng sinh!”.

“Đó chính là giấc mộng vừa rồi của ta!”.

Từ đó, Cố Thuận Chi còn tin công đức của việc trì trai là rất lớn, và lòng tin ấy càng ngày càng kiên cố.

Lời bàn 

Hiện nay số người ăn chay trên thế giới càng ngày còn đông. Đối với người Việt Nam chúng ta, nói đến ăn chay thì thường nghĩ ngay đến đạo Phật hay những người phát tâm tu hành theo Phật giáo. Đối với Phật giáo, ăn chay là thể hiện lòng từ bi vô biên của người con Phật, lòng yêu thương và tôn trọng mạng sống của muôn loài, vì biết rằng mọi sinh vật dù lớn, dù nhỏ đều sợ đau đớn, đều muốn sống còn. Trong kinh Pháp Cú đức Phật dạy: “Không nên giết hại vì ai cũng muốn sống, đồng thời cũng không nên gây tổn hại cho mọi chúng sinh, dù chính mình không trực tiếp cầm dao để sát sinh vật, nhưng ăn thịt tức là gián tiếp cổ động cho người khác sát sinh”.

Cũng theo như kinh Pháp Bảo Đàn, khi ngài Huệ Năng đến huyện Tào Khê thì bị bọn ác tâm tìm kiếm để não hại, Ngài  phải lánh sang vùng Tứ Hội để tỵ nạn và ở chung với nhóm thợ săn trong vòng 15 năm. Trong thời gian này, Ngài cũng lợi dụng lúc thuận tiện để thuyết pháp hóa độ họ. Và các danh nhân trên thế giới từ Đông sang Tây đều quan niệm, rằng lòng từ bi và yêu thương các sinh vật là động cơ chủ yếu cho việc chay tịnh, vì chay tịnh nên lòng từ bi lớn mạnh, khi có lòng bi lớn mạnh thì công đức phát sinh. Nói như văn hào Leon Tolstoi: “Sự sát sinh đã làm cho những con người vốn có một tâm hồn cao thượng, có lòng vị tha đối với mọi người như đối với bản thân mình, đã trở thành những kẻ hung bạo”.

Tác giả: Thích Nhuận Thạnh
Trích trong cuốn sách “Chuyện đạo đời”

Vô Úy Quan Âm

Bạn chỉ cần tâm sự riêng với một mình tôi, người luôn luôn lắng nghe với ánh mắt thanh tịnh đầy thông cảm.
Bạn không cần nói cho thiên hạ mà chỉ thì thầm với riêng tôi, người đang lắng nghe tâm lòng bạn cũng như bạn đang trong tâm lòng của tôi.
Và nếu bạn tịnh tâm nhìn vào bạn sẽ tức khắc kiến thấy tôi.
Bạn không bao giờ cô đơn giữa biển khổ đau!
Con người hình như là động vật duy nhất trên trái đất biết mình sẽ mất mát, sẽ chết nên lo sợ đưa đến đau khổ?
Cái sợ hãi khủng khiếp nhất là chờ đợi sự sợ hãi đến, chứ không phải trông cái sợ hãi đi.
Những sinh vật khác chỉ linh cảm được nguy hiểm để tránh, biết đau đớn nhưng không biết khổ tâm? Vì không biết mình sẽ chết, không biết mình sẽ già bệnh, không tích lũy bất động sản cho nên những sinh vật này không chấp có cho nên không biết lo âu, khổ sở.
Ngày nào mà chúng ta chưa thấu đáo được cái nguyên nhân hiện sinh làm người của mình thì chúng ta vẫn trầm luân trong luân hồi sinh tử chưa thể giải thoát được cho đến khi giác ngộ.
Cái ngày đó bảo đảm sẽ không bao giờ tới với đa số chúng sinh.
Tuy nhiên, đời đẹp biết bao nếu ngày mai không bao giờ đến.
Tomorrow Never Comes
Zac Brown Band
 
I’ve been climbing my way through the sky
Tôi đã đang tự leo thang lên hỏi trời
Searching for answers that I’ll never find
Tìm những câu trả lời mà tôi sẽ không bao giờ tìm thấy
Losing my breath as I fall
Hụt thở khi rơi
Learning to fly, letting go of it all
Tập bay xa, bỏ lại tất cả
Learning to fly, letting go of it all
Nhẹ cánh bay, buông bỏ đời
I’m gonna live
Tôi sẽ sống
Like tomorrow never comes
Như không có ngày mai
There’s no end in sight
Không thấy tận cùng
Tonight we black out the sun
Đêm nay chúng ta đen tối mặt trời
Better hold on tight
Tốt hơn nắm chặt lấy
Before you know it’s gone
Trước khi mình biết nó vuột đi
And live like tomorrow never comes
Và sống như ngày mai không bao giờ đến
I’ve been trying to open my eyes
Tôi đã đang cố mở mắt
Take it all in as the world passes by
Chấp nhận tất cả như dòng đời trôi qua
Getting lost in the twists and the turn
Lạc lõng trong khúc khuỷu
Finding these questions inside me still burn
Tìm những câu hỏi này nóng bỏng trong tôi
Finding these questions inside me still burn
Nóng lòng với nhiều nghi nan
I’m gonna live
Tôi sẽ sống
Like tomorrow never comes
Như ngày mai không bao giờ tới
There’s no end in sight
Không có giới hạn trong mắt tôi
Tonight we black out the sun
Tối nay tôi tắc mặt trời
Better hold on tight
Giữ nó chắc nịch trong tối đen
Before you know it’s gone
Trước khi mình biết nó mất đi
And live like tomorrow never comes
Và sống như ngày mai không bao giờ tới
I keep…
Tôi quyết giữ…

Cuối cùng là cho những người đã bước qua đời bạn hay bạn đã suýt nữa đi xuyên qua đời họ, yêu hay hờn, nhớ hay thương, bạn hay thù. Bạn nên luôn luôn cầu cho họ buông tha cho bạn lẫn buông xả chính họ đừng nên nuối tiếc để vướng bận tâm lòng nhau vì khi mà không có duyên số, nợ nần với nhau thì đối diện cũng bất tương phùng.
Gặp hay không gặp, tái ngộ hay biệt ly cũng vì duyên, chớ nên đau khổ luyến lưu.

Quán thấu sự “vô thường” của nhà Phật giúp chúng ta tùy duyên mà sống nhất là thường khi chúng ta rơi vào nỗi thống khổ, ái ố, tưởng như không thể chịu đựng được nữa thì quán thấu lý vô thường, “qua đi qua đi những cơn mê, cuộc đời này rồi cũng đổi thay,” sẽ giúp chúng ta thăng hoa trí tuệ để can đảm mà đối chiếu với khổ đau.

Không nên mong ngày mai gặp lại nhau vì ngày mai đó không bao giờ tới trong kiếp này mà có tới nó cũng trôi qua nhanh.
Tất cả đã nhạt nhòa đi rồi! Tất cả có thể sẽ không trở lại trong kiếp sau đúng như vậy mà mong ước.

Vô Úy Quan Âm
Vô Úy Quan Âm

Vô Ngại Đại Từ Bi Bồ Tát
Quán Thế Âm Bồ Tát (tiếng Phạn, Avalokitesvara) là Tầm Thanh Cứu Khổ Nạn Đại-Từ Đại-Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Cũng có tên là Quán Tự Tại Bồ Tát, nghĩa là vị Bồ-tát dùng trí huệ Bát-nhã quán sát sự vật đúng như chân lý một cách tự tại và thoát ra ngoài các tai ách khổ nạn.
Tiếng Hán dịch là Quán Thế Âm, nghĩa là quán xét tiếng tâm đau khổ của đời để cứu độ. Tiếng Phạn là Bodhisat (Bồ Tát). Bồ Tát là một danh từ chỉ cho những vị phát tâm rộng lớn cầu sự giác ngộ như chư Phật và giáo hóa chúng sinh .

Vô Úy Quan Âm
Vô Úy Quan Âm

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Từ Bi Bồ Tát
Trong bức hình của Quan Âm ở trên, những cánh tay là tượng trưng cho từ-bi quảng đại, do từ-bi mà phát xuất vô lượng phương tiện để cứu độ chúng sinh. Mắt là tượng trưng cho trí tuệ bao la, trí tuệ sáng suốt ngộ nhập chân lý và quán xét căn cơ của muôn loài để đưa họ về lại nơi bến giác.
Ngài tượng trưng cho lòng thương không bờ bến của Mẹ với lòng nhân từ bao la như biển Nam Hải. Ngài là Mẹ hiền trong tất cả các mẹ hiền, kính mến thương.
Kinh Pháp-Hoa phẩm Phổ-Môn đức Phật giải thích, nếu có vô lượng trăm nghìn vạn ức chúng sinh bị các khổ não, nghe danh hiệu của Bồ Tát này liền nhứt tâm xưng danh của Bồ Tát, thì tức thời Bồ Tát nghe tiếng kêu cầu rồi làm cho tất cả đều được giải thoát. Vì thế nên gọi là Quán Thế Âm. Quán cái âm thanh!
Pháp môn tu hành của Quan Âm là “dùng nhỉ căn quán chiếu thanh tịnh,” khi căn trần thanh tịnh thì chứng được viên thông. Ấy là pháp môn có tác dụng đặc biệt với chúng sinh trong cảnh giới Ta Bà này.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát có thuật lại phương pháp tu hành của Ngài là do nghe, suy nghĩ, và tu tập mà nhập chánh định. Bắt đầu Ngài tu từ sự nghe. Trong một cái nghe mà trước tiên là phải quán triệt tiền trần rồi bỏ luôn quán trí và cuối cùng diệt hết đế lý. Ngài chuyển dụng khả năng nghe tiếng bên ngoài mà nghe lại tự tánh nghe của mình. Đến lúc những cái sinh diệt diệt hết thì tánh vắng lặng hiện ra và khi ấy chứng được “nhĩ căn viên thông,” được hai thứ thù thắng: một là đồng với từ lực của mười phương chư Phật, hai là cảm thông lòng cầu mong thương cứu của chúng sinh trong sáu đường.
Pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm chính là phương pháp quán tự tại tức là từ cái nghe, cái thấy để trở về tự tánh.
Trong pháp tu này, hành giả tuyệt đối không dùng tai và mắt để thấy và nghe. Nếu còn dùng mắt và tai để thấy và nghe là chạy theo âm thanh, và sắc tướng.
Không thể dùng nhĩ căn của nhục thể để nghe (quán) vì như tôi đã trình bày trong bài luận này, tai không có tính nghe. Cũng không thể dùng nhục nhãn để thấy (kiến) quang vì mắt không có tánh thấy.
Dùng tâm mà nghe thấy bằng cách thanh tịnh tâm.
Hòa thượng Thích Thiện Hoa khi giải thích về phương pháp tu của ngài Bồ Tát Quán Thế Âm đã cho biết: (1) Bắt đầu từ khi cái nghe đối với thanh trần không khởi phân biệt theo thanh trần, nên thanh trần tự vắng lặng; xong còn cái nghe. (2) Đến giai đoạn thứ hai là cái nghe (năng, sở) cũng hết, xong còn cái hết. (3) Đến tầng thứ ba không chấp ở nơi hết, xong còn cái biết hết. (4) Đến tầng thứ tư là cái biết đó cũng không, xong còn cái không. (5) Nên đến tầng thứ năm là cái không đó cũng không còn. 
Mười phương chư Phật và vạn đại Bồ Tát tu hành, chỉ có một con đường duy nhất là trừ hết vọng tâm thì chân tâm hiện bầy.
Như viên ngọc Mani tự chói ánh quang minh, soi thấu vô minh và như thế gọi là thành Phật, hay là chứng Đại Niết Bàn.
Tâm kinh đã tóm lược, rất súc tích: Ưng vô sở trụ. Nhi sinh kỳ tâm!
Tôi xin đơn giản hóa, nghe mà không nghe, thấy mà không thấy.
Dùng cái nghe để thấy và dùng cái thấy để nghe. Lúc đó sẽ thấy cái nghe, nghe cái thấy.
Chưa chiếu đã kiến trước tốc độ của ánh sáng. Chưa động đã quán được vận tốc của âm thanh.
Tức khắc, thấy tánh thấy. Nghe tánh nghe.
Quán tỉnh tĩnh tịnh quán
Quán đại bát nhã quán
Quán tâm từ bi quán
Quán tánh quang âm quán
Quán ngũ uẩn không quán
(Lê Huy Trứ)
Bát phong
Phạm Công Thiện viết, “Tôi cảm thấy rằng tôi có thực vì tám điều [bát phong, Trứ], nhưng thực ra vì tôi hoàn toàn không có thực, vì tôi đang chết trong đời sống và cái chết là cái có thực nhất có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Chính cái chết chuyển hóa tất cả sự thực thành ra không thực, và ngay đến cái chết chỉ có thực khi tôi còn đeo sự sống, dù là một sự sống rất mong manh. Mỗi khi tôi thực sự chết, chết hoàn toàn thì chính cái chết cũng không có thực. Nơi đây cũng nên nhắc lại câu tuyệt vời của nhà thần bí Ðức Abraham a Santa Clara: “Kẻ nào chết, trước khi hắn chết, hắn không chết, lúc hắn chết” (Wer stirbt, che er stirbt, der stirbt nicht, wenn er stirbt) (cf. Heidegger, Ueber Abraham a santa Clara, Gesprochen beim Messkircher Schultreffen am 2 Mai 1964 im Martinsaal). Chỉ khi nào tôi mất hết mọi hy vọng trong đời sống này mà vẫn không bi quan, chỉ khi nào tôi không còn mong đợi gì nữa trong tương lai mà không phải cay đắng, chỉ khi nào tôi thấy rằng mình hoàn toàn không có thực, chỉ lúc ấy cái chết sáng tạo sẽ chuyển hóa hết mọi sự hữu tình. Tại sao gọi là cái chết sáng tạo ? Cái chết sáng tạo không phải chỉ là chết thôi rồi không có gì hết (Ðó là chủ nghĩa hư vô): cái chết sáng tạo là chết cái sống và sống cái chết, chết trong sự sống và sống trong sự chết; cái chết sáng tạo chuyển hóa hữu hình thành vô hình và chuyển hóa vô hình thành hữu hình, chuyển hóa cái này ra mọi cái, chuyển hóa mọi cái ra cái này, chuyển hóa mọi cái này ra mọi cái khác và không còn cái nào tự biệt lập ra một cái độc lập không dính líu gì với cái khác: tất cả đều trở thành liên hệ mật thiết với nhau, những gì mâu thuẫn nhứt kêu gọi lẫn nhau như người tình kêu gọi người tình, cái không thực nhứt trở thành sự thực và sự thực lại không có thực. Tôi không có thực vì tôi chuyển hóa không ngừng thực ra không phải tôi chuyển hóa mà tôi là sự chuyển hóa; tôi là tất cả mọi sự chuyển hóa ở không gian thời gian vô tận; tôi là tất cả mọi chuyển hóa của vô tận ý tướng và của vô tận vô tưởng. Vì tất cả mọi sự đều chuyển hóa trùng trùng duyên khởi trong sự sự vô ngại pháp giới, cho nên tôi không còn là tôi nữa mà là hóa thân vô hạn của vô hạn vũ trụ sinh thành hoại diệt; tôi không phải là Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT lại chính là Thể Tính Toàn Diện (Samantamukha) của tôi. Tôi không thấy quán Thề Âm Bồ Tát, vì chưa bao giờ thấy được Thể Tính Toàn Diện của tôi. Muốn thấy được sự Toàn Diện ấy, tôi phải vứt bỏ cái tôi. Tôi không thể tự vứt bỏ tôi được, vì thực ra không có cái gì gọi là tự mình mình có và cũng không có cái gì gọi là cái khác. Quán Thế Âm Bồ Tát là SỰ TỈNH THỨC TOÀN DIỆN CỦA TÌNH THƯƠNG VÔ HẠN. Sức mạnh vĩ đại nhứt trên tất cả mọi sức mạnh, đó là Tình Thương không chủ thể và không đối tượng. Tình thương là một Tiếng Gọi, tiếng gọi tiếng thành ra Tiếng, âm thanh gọi âm thanh thành ra âm Thanh. Danh Hiệu QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT chính là Quán Thế Âm Bồ Tát, vì chính Quán Thế Âm là Ðại Âm Thanh của tất cả những âm thanh vũ trụ và ngoài vũ trụ. Quán Thế Âm không phải là biểu tượng một cái gì khác; Quán Thế Âm là Thực Tại của tất cả mọi thực tại và đồng thời Quán Thế Âm cũng là Biểu Tượng vì Tình Thương vô hạn chuyển hóa mọi biểu tượng thường tình thành ra thực tại.” (Sự có mặt liên tục của Quán Thế Âm Bồ Tát, chương này đã được cư sĩ Phạm Công Thiện giảng tại chùa Việt Nam ở Los Angeles thứ Bảy ngày 22 tháng 10 năm 1983 dương lịch, nhân dịp ngày vía Quán Thế Âm Bồ Tát.)
Tôi xin mạo muội tóm tắc những gì triết gia, giáo sư, cư sĩ, Phạm Công Thiện trích dẩn về triết lý nhân sinh quan cái sợ (khả úy) từ những đại triết gia Tây Phương trong bài pháp giảng “Sự có mặt liên tục của Quán Thế Âm Bồ Tát” qua vài dòng sau đây.
Thứ nhất, những định nghĩa dài dòng, chơi chữ, về nổi lo sợ của con người từ những đại triết gia nổi danh trên thế giới đó chỉ cần túm lại trong 5 chữ “thần hồn nhát thần tánh.” Cái lo sợ của lo sợ đã đầy đủ để diễn tả rốt ráo cái bản lai diện mục của sợ hải, cái nguyên do của khả úy.
Những triết gia này còn chấp ngã, chấp tự, chấp kiến thức, chấp suy luận nhị nguyên. Họ chỉ là những người mù sờ voi, chủ quan mô tả được cái biệt tướng của lo sợ chứ chưa thấy được tổng tướng của khổ đau, nói gì biết được cái gốc vô minh để giải được bài toán giác ngộ, giải thoát.
Vì những triết gia Tây Phương này chưa đủ nhân duyên để học qua triết lý của Phật Giáo cho nên họ vẫn ở ngoài vô môn quan chưa lọt được vào vòng trí tuệ của vô tự kinh.
Thứ nhì, những giải thích đầy triết lý bác học mà tôi trích dẫn trên đây của cư sĩ Phạm Công Thiện có thể tóm tắc bởi luật thứ nhất của Thermodynamics.
Tôi cố tâm dùng ngôn ngữ của Phật Giáo để diễn dịch ý này vì chỉ có ngôn ngữ của Phật giáo mới giải thích viên diệu lời kinh xưa từ kim khẩu của Đức Thế Tôn:
Vật chất (matters) lẫn phi vật chất (waves) trong vũ trụ không sinh lẫn không diệt, không tăng không giảm, chỉ có luân hồi.
Trong vũ trụ (closed system), vạn vật, sắc tướng cấu thành bởi năng lượng (energy) mà energy vô sinh vô diệt, không tăng không giảm (constant) chỉ thay hình đổi dạng (transformed).
“The first law of thermodynamics is a version of the law of conservation of energy, adapted for thermodynamic systems. The law of conservation of energy states that the total energy of an isolated system is constant; energy can be transformed from one form to another, but can be neither created nor destroyed.”
Thứ ba, Quan Thế Âm là Ta. Ta là Quan Thế Âm!
Tôi xin phóng dịch ý văn của Dr. Suzuki trong The Essence of Buddhism tả về Quan Thế Âm như sau:
Bồ tát và Ta viễn ly từ nhiều ngàn kiếp trước mà vẫn gần trong khoảnh khắc như chưa bao giờ xa lìa nhau. Ta và Ngài mặt đối mặt suốt đời, vậy mà vẫn chưa bao giờ gặp, và chưa thấy được nhau.” (The Essence of Buddhism, trang 27)
Tôi đang gặp mặt tâm sự với Bồ Tát ngay khoảnh khắc này như than thở với mẹ hiền, thế mà Tôi vẫn chưa bao giờ gặp gỡ Ngài từ thiên thu vạn đại… Tôi đang nhập thiền ở đây mà lại đang rong chơi lạc ra ngoài ngàn dặm…làm phàm nhân đứng giữa trời trông ngóng mộng niết bàn. (The Essence of Buddhism, trang 61)
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Kệ Quan Thế Âm 
Quán Thế Âm Bồ Tát có rất nhiều nhân duyên với chúng sinh trong cõi Ta Bà này. Ngài lại đủ oai thần và phương tiện để cứu khổ, ban từ, ban bi cho muôn loài. Chúng ta đang luôn thừa hưởng được ân huệ của Ngài và đang cố gắng thực hành theo hạnh từ-bi của Ngài, để làm vơi cạn nỗi khổ đau, xoa dịu sầu não cho mình và cho người.
Ngài thường ban bố đức vô úy, hùng lực không sợ sệt trước tai nạn bất ngờ cho chúng sinh. Chúng sinh luôn luôn được hưởng từ bi và sự che chở mầu nhiệm trong bàn tay giáo hóa của Ngài.
Trong kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn, đức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: “Quán Âm Bồ-tát có những hạnh nguyện rất vĩ đại, Ngài dùng oai thần diệu dụng hoá hiện vô số thân trong mọi loài để cứu độ; đáng dùng thân Phật để cứu độ, Ngài hiện thân Phật; cho đến đáng dung thân đồng-nam đồng -nữ để cứu độ, Ngài hiện thân đồng-nam đồng-nữ để hoá độ, đáng dung thân gì Ngài hiện thân ấy. Ngài hiện đủ ba mươi hai loại thân và hoá thân nhiều nhất của Ngài là hoá thân phụ-nữ.”
Thử chiêm nghiệm những câu kệ mới mà tôi biên soạn dưới đây:
Tôi với Ngài như người ở bờ này, kẻ nơi bến kia của biển Nam Hải cùng uống chung nước Cam Lồ. Tương cố bất tương kiến.
Trong giây phút này, tôi mở lòng ra để nhận lấy năng lượng của Đức Quan Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) như nước Cam Lồ liên miên bất tuyệt, truyền vào trong cơ thể của tôi. Năng lực đó đang chuyển hóa những căng thẳng, đau khổ rồi tất cả bị hút vào nhất điểm không (a point of emptiness).
Tôi đang mở tâm ra để cho năng lượng đó của ngài và tha lực của tăng đoàn rót vào để ôm ấp tấm thân tâm tôi, rồi hóa giải những lo ra, lo âu, sợ hãi, buồn khổ trong tôi.
Trong giây phút này, thân và tâm tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn với tràn đầy sinh khí. Tôi đem tâm trở về với hơi thở, lắng nghe, buông bỏ, thong thả, thư giản để cho năng lượng của Quan Âm Bồ Tát tự nhiên có cơ hội đi vào thân và tâm, để hết lo lắng, không suy nghĩ chỉ toàn thanh tịnh, đầy an lạc.
Trong thầm lặng, tôi nguyện hồi hướng năng lượng chú tụng hùng vĩ của đại chúng tăng ni, thiện tri thức cùng với tấm lòng đại từ bi đầy tình thương bao la dạt dào như từ mẫu đang ru con, “ngoan ngoan con nhoẽn miệng cười…đừng có lo sợ mà tơi bơi ruột gan” với cái nhìn triều mến lẫn sự bảo bọc của người cha đầy bi tri dũng từ Quan Thế Âm Bồ Tát này lại cho chúng sinh.
Đặc biệt, tôi muốn hồi hướng năng lượng vĩ đại này cùng với hào quang trí tuệ của Đại Thế Chí Bồ Tát (Tara) rực rỡ soi sáng vô minh, và âm thanh sư tử hống đánh tan sợ hải cho những người đang bị căng thẳng nội tâm, bệnh hoạn hành hạ để họ bớt đau, bớt khổ, bớt tuyệt vọng, bớt sợ hải ngay trong giây phút phải đến hay đi.
Tôi biết Bồ Tát Quan Thế Âm có tâm từ bi với hạnh lắng nghe tiếng kêu bi thương, ai oán của con người để hiện tới mà cứu độ. Ngài luôn luôn lắng nghe và hiểu thấu những ưu tư trong tâm khảm của tôi trước khi tôi kịp tâm sự, tỉ tê, than ngắn thở dài, và cầu xin Ngài phù hộ.
Cũng như tôi đang tập lắng nghe âm lực từ bi của Ngài bao la dạt dào như tình thương của mẹ hiền đang ôm ấp, an ủi, và bảo hộ cho tôi.
Tôi đang “Phản quan tự kỷ bản phận sự, bất tùng tha đắc” (quay lại tự tâm chính mình và không tìm cầu ra bên ngoài), lắng nghe thấy dòng năng lượng từ Ngài trôi vượt qua bức tường âm thanh trôi nhanh theo tốc độ của ánh sáng đến tận cùng sâu thẳm của vô âm thanh, vô quang sắc đi xuyên qua tôi làm tâm lòng tôi trở nên thanh tịnh.
Tôi luôn trì tụng danh hiệu của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) và đang cảm xúc được với năng lượng của tình thương trong trái tim tôi. Tôi tiếp xúc được với năng lượng tình thương quảng đại đó từ Đức Bồ Tát.
Tôi đang chế tác được năng lượng hùng hậu, năng lực tập thể của thánh tăng ni đoàn đó trong tôi. Tôi đang chuyển pháp luân để truyền nội lực hổn nguyên chân khí hùng hậu của vũ trụ này lại cho chúng sinh.
Tôi luôn tri vọng, đối trị vọng tưởng, tâm thanh tịnh, đầy tỉnh giác theo phương pháp phản văn văn tự tánh, nương theo hạnh lắng nghe với lòng cảm thông, đầy tình thương như Ngài.
Tôi đang nhỏ lệ từ bi vì nghe, và quán thấy được tiếng kêu cứu, khẩn cầu của chúng sinh trong biển khổ.
Tôi là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Ánh mắt Bồ Tát
Dưới đây là bài kệ thơ mộng bất hủ, một trong những phần kệ của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh để ca tụng Quan Thế Âm Bồ Tát mà khi cố dịch ra Việt Văn, Hòa thượng Thích Trí Tịnh đã phải giữ nguyên chữ Hán, vì nó quá súc tích lãng mạn, Ngài sợ dịch ra có thể làm mất ý nghĩa tuyệt diệu của ý thơ?
Chơn quán thanh tịnh quán
Quảng đại trí tuệ quán
Bi quán cập từ quán
Thường nguyệt thường chiêm ngưỡng
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Tôi cũng đồng ý, nó quả thực “quá súc tích thơ mộng” như vậy. Công nhận, bài kệ chữ Hán ở trên quá tuyệt hảo không thể dịch hay hơn được.
Nhưng tôi hậu sinh khả úy, ngứa ngáy, cả gan, không sợ bị chê dốt, dịch đại thử ra răng?
Chánh kiến an tịnh quán
Vô lượng bát nhã quán
Từ bi quán cập quán
Luôn nguyện hằng kính ngưỡng
(Lê Huy Trứ, phóng dịch)
Ánh mắt thật thanh tịnh
Thấy trí tuệ bao la 
Cái nhìn đầy từ bi
Luôn kính hằng mến mộ
(Lê Huy Trứ, phỏng dịch)
Nhìn thấy thật thanh tịnh
Nhìn bao trùm trí tuệ
Nhìn thân cận từ bi
Dạo vũ ánh trăng chơi
(Lê Huy Trứ, phóng dịch)
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Thú thật, tôi đã tự lượng sức mình, nhưng Ngài bảo tôi thử bắt chước Lục Tổ ra kệ thử xem. Bổng nhiên, tâm tôi xuất thần dịch cấp tốc trong vòng vài chục phút là gỏ xong ngay với một điều kiện là tôi không ham y bát của Ngài.
Phạm Công Thiện dịch lại theo văn chương Việt qua 5 “cái dòm” ao ước, mơ tưởng như vầy,
Ồ, cái nhìn chân thực, cái nhìn trong sạch, thanh thản, trầm lặng
Cái nhìn sáng suốt tỉnh thức sâu rộng bao la 
Cái nhìn đầy tình thương, cái nhìn hiền lành yêu dấu 
Mà mình thường hoài vọng ao ước, thường ngó nhìn mơ tưởng. 
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Theo bản chữ Phạn thì có thể tạm dịch “4 đôi mắt” tình tứ như vầy,
Ồ, hỡi Người có đôi mắt trong trẻo, đôi mắt hiền lành nổi bật lóe sáng lên 
Trí Tuệ và sự Hiểu Biết, đôi mắt tràn trề tình thương và rộng lượng nhân từ; 
Người sao tuyệt đẹp, dung nhan tuyệt sắt và đôi mắt quá diễm kiều!
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Chú Quán Thế Âm
Muốn tri kiến Bồ Tát thì phải niệm thần chú Ðại Bi cùng với hai chú linh hiện nhất của Quán Thế Âm, và hóa thân của Ngài là Tàrà. Hai chú này đã được trì tụng từ bao nhiêu thế kỷ ở Tây Tạng, vang vọng trên khắp vùng Hy Mã Lạp Sơn.
Sau đây là câu chú đại linh mật thông dụng nhứt của Quán Thế Âm Bồ Tát:
OHM! MANI PADME HÙM
Niệm thần chú bằng tiếng Việt với dọng Tàu lai Tây Tạng, hy vọng là Ngài thần thông quảng đại mà hiểu thấu cho ta.
 Án Ma Ni Bát Di Hồng!
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Và đây, câu chú linh hiển thông dụng của Phật Tàrà, ứng Thân của Quán Thế Âm:
OM, TÀRE TUTTÀRE TURE SVÀHÀ
Chú ý, đây là lối viết theo người Pháp cho nên khi tụng nhớ tụng theo giọng Tây với chữ “r” phát âm từ giọng mũi của Tây Đầm mới linh nghiệm. “Svaha” đọc như “ça va” tiếng Tây. Trừ tiếng OM đọc như tiếng ÔM tiếng Việt. Phải ôm lấy (xúc, OM), nghe phát âm từ mũi, và lưỡi, quán thấy thật thành tâm mới thấu đáo, cảm thông được uy lực của câu thần chú này.
Nếu viết là Ohm thì phải ngân dài, trầm như tiếng chuông ngân, từ mũi với chân khí từ đan điền theo dọng Ấn Độ. Nếu không biết giọng Ấn thì đọc tiếng Tạng.

Tụng là tụng cho chính mình nghe chứ không phải cho Bồ Tát hay Phật nghe. Không ai chung quanh biết mình đọc sai, hay đọc sai thua/hơn mình để mà lo sợ, đừng bận tâm nhìn ngang liếc dọc sợ họ cười chê/cảm phục.

Còn tụng với nhất tâm bắn loạn xạ, bấn lên, khi thì tiếng Tây accent Anamit, khi thì Huế, Bắc-Trung-Nam Kỳ, hay tiếng Anh giọng Ấn Độ pha accent Tàu và Tây Tạng là Ngài quán không hiểu âm chi mà nghe lạ rứa?
Tôi vừa bật mí, mật chú bất khả lậu của quán thế âm.
Cho nên nếu quán sai âm, niệm với ma tâm, cầu bất khả đắc, bị tẩu hỏa nhập ma thì đừng có trách là tui “noái” láo.
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Khi mà nhất niệm bất loạn, tinh khí thần lư hỏa thuần thanh khai mở được thiên nhãn thì sẽ tri kiến Phật. Sẽ cảm thấy bồ tát gần với ta trong khoảng khắc. Thực ra, Ngài chưa bao giờ xa ta, chỉ có ta xa Ngài.
“Chú đại bi nằm trong Kinh Đại bi tâm đà la ni. Phật nói Chú đại bi là thần chú quảng đại viên mãn, thần chú vô ngại đại bi, thần chú cứu khổ. Trí chú này thì diệt vô lượng tội, được vô lượng phước và chết thì sinh Cực Lạc. Thần chú này do Quan Thế Âm bồ tát nói. Muốn trì chú này thì phải phát Bồ đề tâm, kính giữ trai giới, tâm luôn bình đẳng với mọi loài và phải trì tụng liên tục.”
Chú Ðại Bi: 
NAMO RATNA-TRAYÀYA NAMAH ÀRYA AVALOKITESVARÀYA BODHISATTVÀYA MAHA SATTVÀYA MAHÀKARU-NIKÀYYA OM SABALA-VATI SUDHANATASYA LAMAS-KRIVANINAM ÀRYA AVALOKTTESVARA LAMTABHA NAMO NÌLAKANTHA SRÌMAHAPATASAMI SARVA-TODHU-SUPHEMASIYUM SARVASADA NAMA BHAGA MABHATETU TADYATHÀ OM ÀVALOKI LOKATE KALATI ESILI MAHÀBODHISATTVA SABHO SABHO MARA MARA MASI MASI RIDHAYUM GURU GURU GANAM TURU TURU BHASIYATI MAHÀ BHASIYATI DHARA DHARA DHIRINI SVARAYA JALA JALA MAMA BHA-MARA MUDHILI EDHYEHI SINA SINA ALASIM BHALASARI BHASA BHASIMl BHARA SAYA HULU HULU PRA HULU HULU SRÌ SARA SARA SIRI SIRI SURU SURU BUDHI BUDHI BUDHAYA BUDHAYA MAITRIYE NÌLAKANTHA TRISA-RANA BHAYAMANA SVÀHÀ SITAYA SVÀHÀ MAHÀ SITAYA SVÀHA SITAYAYE SVARAYA SVÀHÀ NÌLAKANTHA SVÀHÀ PRANILA SVÀHÀ SRÌ SIDHA MUKHAYA SVÀHÀ SARVA MAHÀ ASTAYA SVÀHÀ CAKRA ASTAYA SVÀHÀ PADMA KESAYA SVÀHÀ NÌLANKANTHE PANTA LAYA SVÀHÀ MOBHOLISANKARAYE SVÀHÀ NAMO RATNA-TRAYÀYA NAMAH ÀRVA AVALOKITA ÌSVARAYA SVÀHA OM SIDHYAN-TU MANTRA PATAYE SVÀHÀ! 
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Quán tịnh tâm
Tôi quán như vầy, ý những bài kệ trên đã được tóm tắt trong câu kệ đầu, “Chơn quán thanh tịnh quán.” Khi có được cái nhìn chơn chính đầy thanh tịnh rồi thì trí tuệ, từ bi, an tâm, vô úy đều chan chứa trong quang ảnh chánh kiến an tịnh đó.
Chúng ta không trì tụng những câu thần chú này để bị kinh trì. Chúng ta cũng không nên sì sụp, hít hà, ca tụng, chiêm ngưỡng, kính sợ, lạy lục, van xin, ăn mày cõi Phật như nhiều người đã và đang làm như những tôn giáo khác vì đây không phải là tôn chỉ bình đẳng của đức Phật.
Chúng ta vẫn tụng kinh, niệm phật, chiêm ngưỡng, uy nghiêm quì bái lạy Phật và Bồ Tát như thập phương nhưng với cái lòng vô cầu, tâm thanh tịnh. Kính tam bảo là tự trọng!
Hơn nữa, chúng ta không thể tự “bưng” mình lên bàn thờ để rồi leo xuống quỳ lạy, xưng tụng, ngưỡng mộ, kính mến, cầu nguyện, van vái, ăn mày chính mình được?
Tâm kinh với những thần chú, mật mã chỉ là công cụ để khóa mở cho ta ra vô và để bảo vệ an ninh cho ta an thân lúc vô rồi, cũng như đóng khóa để bảo vệ “vô môn quan,” nơi chúng ta an tâm để tạm lìa xa bến củ, mà chưa vội về, hay lạc bướt mà lở quên đáo bỉ ngạn. Sinh ra đời – Sống ở trọ – Thác về nhà!
Cho nên, Tâm ta mới chính là chủ nhân ông của những mật chú đó. Nó được chính Tâm ta cho mật mã trước khi ta sinh ra trong một kiếp nhân sinh. Niệm Mantra (thần chú) là niệm Quan Thế Âm luôn sẳn có ở trong tâm lòng ta. Cầu Ngài là Ta cầu Ta!
Mật mã (mantra) thật ra chỉ là cái chìa khóa, password để mở smartphones, computers, mật mã để qua ải, và để làm những công việc quan trọng, cần thiết hơn cho người, cho ta nên mantra tự nó không có thần thông tánh để chấp mê tín.
Cho nên forgot password không phải là trời sập để mà vãi sợ. Nên bình tĩnh đừng có vãi sai mật mã (passwords) nhiều lần mà bị khóa (locked) rồi bực bội, giận cá chém thớt, lo lắng, đau khổ thân tâm một cách vô ích.
Vậy thì cái bí kíp võ công thượng thừa đó là cái gì mà nhân sinh cả đời bỏ công sức lẫn tài lực để tìm kiếm?
Niệm thần chú (Mantra) cũng như là một thế vỏ tự vệ căn bản của Ấn Độ được chính ta rèn luyện công phu hơn 10.000 ngàn lần và trở thành tuyệt kỷ của riêng ta. Khi đã luyện thành tuyệt kỷ có thể “cách sơn đã ngưu trắng” rồi thì còn lo sợ gì mà không hàng phục được trâu đen?
Theo phương pháp tu hành của Đại Thừa Đốn Giáo, “Đừng sinh vọng tâm trụ chấp một nơi nào”, để “hàng phục vọng tâm” mà cũng là “an trụ chơn tâm” vậy.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương Kinh chép lời Phật dạy: Giáo Pháp của ta, “Niệm” mà không trụ chấp nơi niệm, mới thật là “Niệm.” “Làm” mà không trụ chấp nơi làm, mới thật là “làm.” “Nói” mà không trụ chấp nơi nói, mới thật là “nói.” “Tu” mà không trụ chấp nơi tu, mới thật là “tu.” “Chứng” mà không trụ chấp nơi chứng, mới thật là “chứng.” Đó là tôn chỉ “vô trụ tướng” của Kinh Bát Nhã.
Phật dạy, “Đại Huệ! Đối với pháp bất sinh bất diệt, người tu chẳng biết pháp phương tiện là chẳng khéo tu, cho nên hành giả phải khéo tu phương tiện, chớ tùy theo ngôn thuyết như xem ngón tay mà chẳng thấy chỗ ngón tay chỉ.” 
Khéo tu phương tiện là khéo tùy duyên, nương theo nhân duyên mà tu.
Như vậy, Pháp Phật gồm cả Tông Thông (Tu Chứng) và thuyết thông (12 Bộ khế kinh.) Tổ Tăng Xán viết, “Bất đắc huyền chỉ. Đồ lao niệm tịnh. Hào ly hữu sai. Trời đất xa cách.”
Nếu không biết huyền chỉ của kinh thì chỉ nhọc công niệm với tịnh. Vì tu hành chỉ sai một ly thì đất trời xa cách, kết quả sai một ly xa một trời một vực. Như vậy Phần Tu Chứng tức là Tông Thông.
Tổ Huệ Năng nói, “Tông thông mà thuyết cũng thông, như mặt trời giữ không.” (Mượn giáo vào Tông. Giáo cũng thông mà Tông cũng thông).
Chư Tổ sư có dạy rằng: “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì!” Nghĩa là không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình tự giác ngộ chậm.
Nói cho dể hiểu, là không sợ tham, sân mà chỉ sợ si mê đó thôi. Nếu tham, sân nổi lên, mà ta sáng suốt phán đoán kịp thời, không có si mê, thì tham sân kia cũng chẳng làm gì được. Người học Phật phải dẹp trừ lòng si mê của mình, lúc nào cũng phải sáng suốt đối với tất cả mọi việc.
Cái sợ khủng khiếp đó là si mê sợ si mê. Khi mà chúng ta thấy rõ cái nhân duyên của nó rồi thì không còn lo sợ nữa đó gọi là “Tu Tâm vô úy.”
Trên thực tế, đa số chúng ta chỉ nghĩ đến niệm Phật trong lúc đau khổ dồn dập tuyệt vọng chán đời mong cầu vào tha lực cứu độ của chư Phật để tức khắc giải thoát.
Cái kinh khủng nhất mà Phạm Công Thiện gọi đó là “sợ hải cái sợ hải.” Không biết nên sợ cái không biết mà Phật Giáo gọi là vô minh.
Thật ra, thì nó chả có cái quái gì là bí mật cả vì cái bản năng “cóc sợ,” vô úy đó đã tự có trong ta chỉ cần đánh thức nó dậy lúc ta đang run sợ cho dù nó có càu nhàu vì đang ngái ngủ.
Mi sợ cái chi? Có chi dữ sợ mà mi sợ như rứa? Răng mà sợ răng sợ dữ sợ như rứa?
Khi biết hỏi sợ là cái gì rồi thì đã hết sợ vì ta không chạy trốn sợ nữa mà bình tĩnh, tỉnh táo, trực diện, chuẫn bị, để sẳn sàng đối phó với nó.
Vô úy chính là đầu óc tự tin với lối suy nghĩ lạc quan (positive) lúc tâm lòng an tịnh.
Luôn luôn phát từ tâm, tập nhìn đời bằng ánh mắt hiền hòa, cố nở nụ cười thật tươi, tiếu ngạo giang hồ với đời dù trong lòng đang héo úa. Mĩm cười ngay cả với chính mình, với gia đình mình, với người phối ngẫu, với con cái, với người, và với đời.
Đó là điều tiên quyết mà ta phải chuyên tâm thực tập hàng ngày. Nhiều người tập tành, làm được như vậy thì thiên hạ thanh an, thế giới thái bình. Đời là cõi Niết Bàn an lạc.
Vitamin cười là liều thuốc bổ hàng ngày của nhân sinh. Thú vật không cần cười như người cười mới được khỏe mạnh nên thú vật không biết cười như người cười.
Dù muốn làm được như vậy hay không muốn bị như vậy thì nó vẫn phải “độc đạo” như vậy. Dù đôi khi đau khổ tuyệt vọng, muốn chết con mẹ bà nó cho xong cũng đâu phải muốn chết là chết được?
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Đếch Sợ
Trong lúc tham thiền, trước khi đi ngũ hay tốt nhất là 24/7/365 luôn nhớ châm đầy ấm chè xanh lạc quan, ngọt ngào sau khi uống vơi bát lá vối đắng chát, chán đời.
Khi đầy lạc quan, cho dù quá lạc quan, mà không được đều mình mong muốn vẫn có lợi cho tinh thần và sức khỏe kể luôn có cơ hội thành công trên đời hơn là bi quan và không dám mơ ước gì cả trên đời.
Có thể đây là chìa khóa mở kho tàng hạnh phúc?
Điều trên cho thấy lạc quan có thể có nhiều triễn vọng đạt được những điều mình kế hoạch, thực hiện để đưa tới thành công hơn. Cho dù không hoàn toàn được kết quả như mong muốn, chúng ta vẫn học được kinh nghiệm thất bại để cải thiện, và nhất là luôn luôn nghĩ positive thì thân xác tự cân bằng được những hóa chất trong cơ thể cho ta sức khỏe, và đưa đến hạnh phúc hơn nhờ sống trong tinh thần lạc quan.
Vì bi quan, kém tự tin, quá thận trọng có thể cũng may mắn đạt được thành công nhưng khi thất bại sẽ ảnh hưởng xấu đến tinh thần và sức khỏe của mình lẫn những người tùy thuộc và tin cậy chung quanh mình.
Bi quan thể hiện trên khuôn mặt buồn khổ, hắc ám, hãm tài, xui xẻo ai cũng tránh xa sợ lấm vận xấu vào thân.
Tuy nhiên, những điều nói trên chỉ là phần ngọn. Phật tử muốn làm chủ vô úy thì phải biết cả nguồn gốc lẫn nguyên nhân hậu quả của duyên nghiệp và nhân quả của bố thí pháp như thị:
“Hiểu rõ về nghiệp hay nguồn gốc, nguyên nhân của mọi bất hạnh khổ đau và an vui hạnh phúc của con người; hiểu rõ con người chính là chủ nhân của nghiệp chứ không ai khác, con người có quyền tự do tạo nghiệp và có khả năng chuyển nghiệp (thay đổi nghiệp), chúng ta sẽ thấy rằng chuyển nghiệp là điều kiện bắt buộc khi muốn cải thiện đời sống, muốn làm thay đổi cuộc đời mình để có hạnh phúc trong hiện tại, đồng thời xây đắp nền móng tốt cho tương lai.
Chuyển nghiệp là làm thay đổi nghiệp nhân và nghiệp quả bằng cách thay đổi tâm ý.
Nghiệp là hoạt động của tâm ý thông qua ba nghiệp thân, khẩu, ý. Tâm ý trong sạch, chơn chánh, thiện lành thì suy nghĩ, lời nói, hành động đều tốt đẹp, lợi mình và lợi người. Tâm ý xấu, tiêu cực, bất thiện thì suy nghĩ, lời nói, hành động đều xấu ác, gây hại cho mình và người.
Khi tâm ý có sự thay đổi tích cực sẽ dẫn đến sự chuyển hóa ba nghiệp theo hướng tích cực. Đó chính là tạo các nghiệp nhân tốt trong hiện tại, những nghiệp nhân này có khả năng tác động, làm thay đổi, giảm thiểu năng lực hình thành nghiệp quả xấu của những nghiệp nhân bất thiện đã tạo trong quá khứ, và chúng cũng đưa đến những nghiệp quả tốt, tích cực trong tương lai.” Những hiểu lầm về Nghiệp trong Phật giáo, trích từ the GiacNgo online
Đây là điều bất tư nghị! Ai cũng biết như vậy nhưng không mấy ai luôn luôn làm được như vậy. Biết dễ, làm khó! Nhưng như đã nói ở trên, đó là con đường duy nhất để giảm bớt lo sợ, và phiền não, dù muốn hay không.
Chẳng hạn, đa số chúng ta sợ đau đớn thể xác, lo khổ não tâm thần bất ngờ tới hỏi thăm. Trong lúc khốn cùng đó, đa số có lúc tuyệt vọng, quẫn chí mong chết phức cho xong nợ đời và tưởng chạy trốn cái sống bằng cách chạy đến với cái chết sẽ tức khắc chấm dứt mọi khổ đau trên đời. Nhưng, thói thường, khi cầu chết được khả đắc và khi đối diện với cận tử nghiệp thì tham sinh húy tử, đổi ý hoang mang sợ hải, rồi lại cầu trời, cầu Phật cho con khỏi nghiệp chết.
Tuy nhiên cái chết bảo đảm sẽ tới viếng chúng ta trong giây phút bất ngờ nhất, và nhất là chết bằng cách nào thì ngoài khả năng làm chủ lấy tánh mạng của mình.
Điều mà chúng ta có thể nên cầu là cầu mong được bình tĩnh mà chết vì cho dù có run sợ, một khi tới số, thần chết tới tìm thì chắc chắn không trốn đâu được. Nếu không thể bình tĩnh mà chết được thì ít ra cũng “vừa bình tĩnh mà run,” để mà vãi… chết trong bình an.
Nhưng hình như, cho dù bình tĩnh, hay sợ run tới vãi…, són…, hay “vừa bình tĩnh mà run sợ” thì lưỡi hái của thần chết không thiên vị bất cứ ai.
Khả úy hay vô úy cũng chết như nhau. Chết là chết không có ma hèn, ma gan?
Tuy nhiên, nếu được chọn lựa thì nên học cái thói ngang tàng của Cao Bá Quát để ngạo nghễ đối diện với tử thần mà vẫn kiến tánh, tâm bất loạn, xuất chữi thành thơ, câu đối câu, từng chữ đối mỗi chữ, tuyệt hảo:
Ba hồi trống dục đù cha kiếp,
Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời.
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Quan Âm là chân lý
The Truth

Quan Âm là chân lý 
India.Arie, modified by Tru Le
Let me tell you why I love Quan Am
Để tôi nói cho bạn nghe tại sao tôi yêu kính Ngài 
‘Cause Quan Am is the truth
Bởi vì Ngài là đạo 
Said Quan Am is so real
Phải nói là Ngài như thật 
And I love the way that Quan Am makes me feel
Và tôi lạy tạ Ngài đã dạy tôi thanh tịnh 
And if I am a reflection of Quan Am
Và nếu tôi là phản ảnh của Ngài 
Then I must be fly, ’cause Quan Am’s light, it shines so bright
Thì tôi phải bay lên theo hào quang rực rỡ, chói loại của Ngài
I wouldn’t lie, no
Tôi không ngoa, không 
I remember the very first day that I saw Quan Am
Tôi nhớ rất rõ ràng ngày đầu mà tôi thấy Ngài 
I found myself immediately intrigued by Quan Am
Tôi tức khắc tâm phục liền quy y Ngài 
It’s almost like I knew this Quan Am from another life
Hầu như tôi biết Ngài từ kiếp trước 
Like back then maybe I was Quan Am, maybe Quan Am was me
Như đi trở về quá khứ có thể tôi đã là Ngài, Ngài có thể đã là tôi.
And even the things I don’t like about Quan Am are fine with me
Và ngay cả những gì tôi không như Ngài giờ sáng rõ trong tôi. 
‘Cause it’s not hard for me to understand Quan Am
 Vì nó không khó cho tôi để hiểu Ngài 
‘Cause Quan Am’s so much like me
Vì Ngài quá giống như tôi 
And it’s truly my pleasure to share Quan Am’s sentient beings
Và tôi sung sướng chia sẻ Ngài với chúng sinh 
And I know that it’s Quan Am’s gift to breathe the air Quan Am breathes
Và tôi biết đó là món quà sinh khí qua hơi thở của Ngài thổi 
‘Cause Quan Am is the truth
Ngài là chân lý 
Said Quan Am is so real
Ngài quá thật 
And I adore the way that Quan Am makes me feel
Tôi ngưỡng mộ phương pháp quán âm làm tôi cảm thấy thanh tịnh 
And iff…
Và nếu và chỉ nếu …
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Bệnh méo tâm
Nếu ta biết niệm đúng âm chú đại bi, tu thiền quán tự tại đúng phép cách, cho đến lúc khi mà người khác nhìn ta, và thấy được ánh mắt quang minh chân chính đầy thanh tịnh phát ra từ ta và tự tâm ta cũng quán được như thế thì lúc đó đại công đã cáo thành.
Nhưng như vậy vẫn chưa đạt tới lư hỏa thuần thanh. Khi mà tinh, khí, thần, thanh hợp nhất. Ta và Ngài tái hợp nhất! Đồng nhất thể!
Thật ra những pháp luận trên đều là vô nghĩa đối với bật giác ngộ. Ta và Ngài chưa bao giờ biệt ly nói gì đến bất đồng. Không có “Ta và Ngài [sẽ /đang /đã ] tái hợp nhất/ hợp nhất! Không nhất thể để mà đồng/bất đồng.
Không có gì để nói ở đây nhưng không biết sao tâm nó bắt tôi “gõ” dù có rất nhiều lần tôi nỗi loạn trong tâm. Tôi lý lẽ, chất vấn tâm, phủ nhận những triết lý quái gở, khó hiểu này. Tôi không bao giờ thua tâm trong lúc tranh luận về Phật Pháp chỉ có chưa thắng mà thôi. Nếu tôi còn thở tôi sẽ thắng tâm. Nếu tâm làm tôi tắt thở thì tôi không cầu thở nữa và chắc chắn là tôi đã chưa thua tâm.
Vậy rồi, tôi cũng không thoát khỏi tâm. Ối tâm là tâm! Ối tâm là tầm! Tôi nhất tâm không tòng tâm. Hơn nữa, tôi không biết, tôi không hiểu, tôi đang viết gì vì triết lý thậm thâm của Phật giáo không phải là sở trường của tôi.
Tôi chỉ biết chắc một đều: Dạo này, lúc mà gần rửa chân lên ngồi trên bàn thờ nếu còn có bàn thờ bên ni mà được ngồi, tôi bị mắc bệnh méo tâm, mó, rờ, nhìn đâu cũng thấy toàn Phật, thấy cả Pháp, gõ đúng tông, cùng nhịp với điệu luân vũ vô môn quan.
Nghe thấy mà tâm tê, lòng tái. Từ tê cho tới tái! Nhất là ánh mắt này, quay ngược tròng, tái kiến, lởn quởn giữa hai nhục nhãn, “rượng tới rượng lui,” thấy “răng mà hiền chi mà hiền dữ sợ như rứa tề.”
Vô Úy Quan Âm - Cổng thông tin Phật Giáo Chư Sê
Trí tuệ phật nhãn: Mắt giác ngộ chiếu kiến nhất như!
(Wisdom Eyes of Buddha [Bodhnath temple eyes]
Often found painted on the Stupas of Tibetan Buddhism, this symbol represents the all seeing eyes of the Buddha, a symbol of the omnipresent compassion of the Bodhisattvas. The small dot depicted between the eyes represents the third eye, a symbol of spiritual awakening. The curious squiggle between the eyes is the Sanskrit numeral one, symbolizing the unity of all things.)

Lê Huy Trứ

Thư Ngỏ – Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo Tượng Đài Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát

THƯ NGỎ
V/v Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo Tượng Đài Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Kính thưa quý Phật tử,

Nam Mô U Minh Giáo Chủ Cứu Khổ Bổn Tôn Cứu Bạt Minh Đồ Đại Thánh Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Kính Bạch chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni

Kính Thưa quý Phật tử thiện nam tín nữ gần xa,

Nhân ngày Vía Bồ Tát Quán Thế Âm 19/09 vừa qua, Chùa Phước Viên H’Bông đã tổ chức Khóa Tu Mùa Thu và đặt đá kiến lập tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát. Vừa rồi, sau Khóa Tu An Lạc Một Ngày 14/10 hoàn mãn, đến Rằm tháng 10, Bổn tự Chùa Phước Viên đã chính thức khởi công giải phóng mặt bằng và múc móng Kiến lập Tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát.

Thời gian qua, Bổn tự đã nhận được những tấm lòng phát tâm Bồ đề cúng dường kiến lập Tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát: TT. Thích Giác Nhàn cúng 100 triệu, quý Phật tử tham dự Khóa Tu An Lạc vừa qua 75 triệu đồng, (đệ tử TT. Giác Nhàn phát tâm 100 triệu, sẽ chuyển cúng vào đầu tháng tới). Gia đình cô Hảo và quý Phật tử Hà Nội cúng sắt và một phần công thợ trị giá 250 triệu, quý Phật tử Chùa Mỹ Thạch, Chùa Phước Viên, và Pleiku… cúng chung khoảng 110 triệu…….

Tổng số tịnh tài Bổn tự đã nhận được là 550 triệu. Dự kiến Công trình Tượng Đài Địa Tạng gần 2 tỉ đồng.

Hiện tại công trình đang thi công và rất cần Xi Măng (tổng công trình khoảng 100 tấn xi măng), xi măng đang làm là xi măng Hoàng Thạch, một bao là 100 ngàn (một tấn là 2 triệu).

Tượng Đài Địa Tạng Bồ Tát là Công trình tâm linh đặc biệt hồi hướng báo hiếu Ông Bà, Cha Mẹ, Cửu huyền Thất tổ, pháp giới chúng sanh: Chúng Sanh Độ Tận Phương Chứng Bồ Đề, Địa Ngục Vị Không Thệ Bất Thành Phật, Đại Từ Đại Bi, Đại Thánh Đại Nguyện, Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát…

Bổn tự rất mong được đón nhận sự phát tâm cúng xi măng từ quý Tôn đức và quý nam nữ Phật tử gần xa. Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát.

H’Bông ngày 19/10/Quý Mão
Trụ Trì Chùa Phước Viên
Đại Đức Thích Quảng Phước

Quý Phật tử phát tâm cúng dường có thể gửi trực tiếp tại bàn trực khách, văn phòng Ban liên lạc hoặc thông qua số tài khoản của chùa:
Tiếp nhận thông qua số tài khoản:

  • Ngân hàng: Vietinbank
  • Tên chủ tài khoản: NGUYEN TAN LOI (Đại Đức Thích Quảng Phước)
  • Số tài khoản VNĐ: 1008 6212 8777
  • SWIFF: ICBVVNVX182
  • Nội dung chuyển khoản: PTXMHPKT (Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo)

Xin cảm niệm công đức mọi sự quan tâm và đóng góp về vật chất lẫn tinh thần quý phật tử dành cho Phật Giáo Chư Sê. Mọi sự phát tâm cúng dường sẽ được nhà chùa phương danh sau khi khóa tu kết thúc.
Nguyện cầu mười phương chư Phật gia hộ cho quý Phật tử thân an tâm lạc, vạn sự kiết tường, sở cầu sở nguyện đều được như ý.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT