back to top
39.1 C
Chư Sê
Thứ Tư, 1 Tháng Năm, 2024
Home Blog Page 149

Chùa Mỹ Thạch nấu cơm hỗ trợ khu cách ly tập trung trên địa bàn huyện Chư Sê

Đại đức Thích Quảng Phước, Phật tử cùng các nhà hảo tâm phối hợp với các cấp chính quyền nấu cơm phục vụ cho 2 khu cách ly là Trường Dân tộc Nội trú và Trường Trần Cao Vân, mỗi ngày cung cấp gần 2.000 suất ăn, hỗ trợ trong vòng 2 tuần khoảng 28.000 suất ăn.

Chùa Mỹ Thạch, Phật tử, các nhà hảo tâm nấu hàng trăm suất cơm phục vụ người dân đang cách ly tập trung trên địa bàn huyện Chư Sê
Mỗi ngày chùa nấu 2.000 suất cơm phục vụ người dân trở về từ vùng dịch đang cách ly tập trung

Hiện nay, huyện Chư Sê đang có 5 khu cách ly tập trung: Trường Dân Tộc Nội Trú (371 người), Thao Trường A Yun (99 người), Trường PTTH Trường Chinh (272 người), Trường Trần Hưng Đạo (297 người), Trường Trần Cao Vân (232 người). Tổng số người dân đang cách ly hiện tại là 1.271 người và dự kiến thời gian tới sẽ mở rộng thêm 2 khu cách ly tập trung do người dân từ vùng dịch đang trở về.

Có nên tin lá số tử vi?

Hỏi: 

Kính thưa thầy!

Nếu một người thấy ra được lá số tử vi của mình là chính xác vì cũng đã trải qua nhiều điều đúng như lá số nhắc tới. Nhưng đặc biệt đó là lá số người này toàn là điều xấu. Nếu như những điều biểu hiện qua lá số là quả phải trả ở kiếp này, như vậy người này hiểu rằng cuộc đời anh ta kiếp này chỉ có khổ đau và không hề có hạnh phúc thế gian.

Như vậy nếu người này đã xác định cuộc đời anh ta chỉ có đau khổ nên anh ta bây giờ không nỗ lực cố gắng gì nữa, mà chỉ chấp nhận những quả xấu tới và nhẫn nại chịu đựng trong đó để trả quả.

Thưa thầy như vậy là nghịch pháp hay thuận pháp ạ?

Trưởng lão Hòa thượng Viên Minh
Trưởng lão Hòa thượng Viên Minh

Đáp: 

Tử vi chỉ nói đúng phần sinh nghiệp (quả) không nói đến trì nghiệp, chướng nghiệp, đoạn nghiệp. Giống như một cây mít sinh ra đương nhiên sinh nghiệp của nó là mít (sinh nghiệp) không thể khác được.

Tuy nhiên nếu được chăm bón tốt thì cây mít sẽ tốt hơn (trì nghiệp), nếu bỏ phế hay bị dây leo, tầm gửi thì sẽ xấu đi (chướng nghiệp) và nếu chặt bỏ thì sẽ bị gián đoạn (đoạn nghiệp). Ba nghiệp sau là thái độ của mỗi người đối với sinh nghiệp của họ, điều này tử vi không nói được.

Sinh nghiệp xấu nhưng thái độ đúng tốt thì có thể chuyển nghiệp hoặc giác ngộ giải thoát.

Có nên nhẫn nhịn nữa không nếu như bị kẻ xấu lợi dụng?

Đáp: 

Thế thì xem ra con chưa đủ nhẫn nại hoặc còn có điều sai lầm trong đó, bởi vì mặc dù con nói đã nhẫn nại nhưng rõ ràng là con vừa mới tỏ ra còn ít nhiều ấm ức bất mãn, phải không?

Nhẫn nhịn không có nghĩa là nuốt hận chịu thua để cầu an hoặc để phục hận về sau.

Người có thể nhẫn nhịn thường rất trầm tĩnh và tự tin, vì vậy người ấy có đủ sáng suốt để tránh được những cách xử sự nóng nảy hấp tấp và biết sống sao cho hài hòa với mọi người, dù xấu hay tốt một cách hợp tình hợp lý, không độc tài cũng không xu nịnh.

Nhẫn nại là mảnh đất vững chắc thích hợp để nảy nở tình thương yêu thông cảm và sự hiểu biết đúng đắn, nhờ đó con có thể cảm hóa người xấu thay vì tranh chấp với họ.

Chúng ta cần phải thận trọng trong việc đánh giá người tốt kẻ xấu, chẳng hạn như người đối nghịch với mình chưa hẳn là xấu, kẻ ủng hộ mình chưa hẳn là tốt.

Xấu hay tốt tùy thuộc vào bản chất đạo đức của mỗi người. Nói chung, kẻ xấu thường hành động, nói năng, suy nghĩ hại mình, hại người.

Ngược lại, người tốt không những không làm hại ai mà còn đem lại lợi ích cho mọi người. Thực ra, người xấu thật bất hạnh, cần được thương yêu tha thứ, vì dù thế nào đi nữa, họ sẽ chịu nhiều khổ đau khi phải trả giá cho tâm địa xấu xa tội lỗi của mình.

Dù khi nhẫn nại, nếu cần, con có thể nghiêm khắc để họ khỏi quấy phá, nhưng con phải chắc rằng đó không phải là phản ứng phát xuất từ giận dữ, thù ghét, mà con chỉ muốn giúp họ trở nên tốt hơn hoặc ngăn chặn sự thiệt hại cho nhiều người khác mà thôi.

Con không nên trừng trị kẻ ác một cách chủ quan theo kiểu “Thay Trời hành đạo” mà cứ để “ác hữu ác báo” theo luật nhân quả tự nhiên…

Phật tử có thờ hộ pháp tại nhà được không?

Đáp: 

Hộ pháp còn được gọi là những vị thần già-lam (chư vị thiện thần phát tâm hộ trì Phật pháp, bảo vệ chùa viện). Các vị hộ pháp già-lam thì rất nhiều nhưng phổ biến ở xứ ta là hộ pháp Vi Đà (ông Thiện) và đại sĩ Tiêu Diện (ông Ác), nhiều nơi thờ Tứ thiên vương, chư vị Kim cang.

Tại tư gia Phật tử rất ít nhà thờ thần hộ pháp. Nếu có chăng cũng tôn trí dưới chân Đức Phật chứ không phải thờ riêng như ở chùa. Nguyên do trước hết là không gian thờ phụng giới hạn, ưu tiên thờ Phật và tổ tiên. Kế đến, như tên gọi của chư vị là hộ pháp già-lam, bảo vệ chùa chiền. Tư gia Phật tử tuy có thờ Phật nhưng không phải ngôi phạm vũ già-lam nên không thờ hộ pháp.

Chùa chiền là ngôi Tam bảo uy linh, thờ phụng nghiêm cẩn, cúng kính trang nghiêm, là nơi tu hành của chư Tăng đồng thời là nơi cầu nguyện và chiêm bái của thập phương bá tánh. Ngoài việc kính thờ chư Phật, Bồ-tát, Tổ sư, chùa còn là nơi nương tựa của chư thần linh, chư vị vong linh, âm linh cô hồn. Vì thế, thờ chư vị hộ pháp ở chùa mới đúng chức năng và hạnh nguyện của chư vị.

Làm sao để thay đổi tính ích kỷ?

Việc thay đổi tính ích kỷ không phải là chính, mà cái chính là thấy ra nó: thấy ra cái tâm ích kỷ và thông suốt được toàn bộ diễn biến của nó như thế nào. Từ sự quan sát thấy được tâm ích kỷ sẽ thấy ra sâu xa hơn, thấy ra nguyên nhân, hậu quả của nó. Nếu chưa thông suốt được tính cách của ích kỷ và nguồn gốc của nó mà muốn loại trừ, tiêu diệt nó thì coi chừng sẽ không bao giờ giác ngộ được sự thật về nó, hay cũng là giác ngộ chính mình.

Ích kỷ có sinh có diệt, có mặt tốt, mặt xấu, có vị ngọt, sự nguy hại, có nguyên nhân, hậu quả như thế nào thì cứ thấy như thế thôi, đừng cố tìm kiếm chủ quan.

Thí dụ như đọc câu “Hôm nay tôi đi chợ” khi đọc từng chữ thì chưa biết nói gì, nhưng khi đọc đến chữ cuối tự nhiên hiểu hết cả câu. Cứ đọc thôi, chữ nào xuất hiện thì đọc, đọc hết thì tự nhiên thấy ra toàn bộ sự việc. Nếu không chịu đọc mà muốn dẹp nó đi để đổi qua cái khác thì sẽ không bao giờ thấy ra diễn biến của toàn bộ sự thật.Đầu tiên là thấy, khi thấy ra thì có thể tùy duyên mà đối trị hay đáp ứng cho đúng tốt thì đâu có sao.

Làm sao để thay đổi tính ích kỷ?

Thí dụ như thấy đói nên cần ăn thì không sao, nhưng không thấy đói mà ham ăn thì mới sai xấu. Khi thấy ra thì sẽ biết nó có tiến trình nhân quả của nó, có cái đúng cái sai của nó, cho nên nếu chưa thấy ra mà đã vội thay đổi hay loại bỏ nó đi là thiếu chín chắn. Nên đừng vội kết luận ích kỷ là xấu hay tốt mà phải thấy thái độ đang diễn ra thế nào.

Đúng tốt, sai xấu chỉ thấy được khi nó đang diễn ra thôi. Không có cái đúng cái sai nào có thể kết luận được, vì cái đúng bây giờ lát nữa có thể sai rồi, như đồng hồ chỉ đúng với giờ hiện tại nhưng sau đó là giờ khác rồi. Đừng vội kết luận điều gì mà chỉ nên quán triệt trình tự diễn biến của nó: thông suốt được sự sinh diệt, nhân quả, lợi hại của sự kiện thì mới thấy ra được lẽ thật.Mục đích chính của Đạo Phật là thấy ra Sự Thật. Trong khi hầu hết các Tôn giáo khác thì mục đích là làm sao hết ích kỷ, làm sao tâm được định, làm sao đạt được cái này cái kia nên vẫn còn loay hoay trong Tam Giới. Tuy mục đích của Đạo Phật là chỉ thấy ra Sự Thật nhưng một khi đã thấy ra thì mọi việc sẽ tự chuyển hóa dễ dàng. Nếu chưa giác ngộ mà muốn giải thoát là sai ngay từ đầu.Trong Phật giáo có hai từ “Giác ngộ và giải thoát” nhưng phần lớn người tu chỉ muốn giải thoát thôi chứ không muốn giác ngộ. Nhưng nếu không giác ngộ thì không thể nào giải thoát được. Nếu không giác ngộ mà cố thoát ra cái này thì liền bị ràng buộc vào cái khác thôi, chỉ có giác ngộ mới thực sự hoàn toàn giải thoát.

A Di Đà Phật – Âm ba vi diệu nhất

Bạn tu có thích nghe tui niệm Phật không? Giọng của tui ngân vang cao lắm! Cho nên tui thường hay tụng “tiếp hơi” cho bác chủ lễ.

Chúng tôi thường xưng hô hai tiếng “bạn tu” khi nói chuyện điện thoại với nhau. Đó là sáng kiến của cô bạn Phật tử của tôi, nghe ra cũng thấy hay hay.

– Này, đang nói chuyện di động đó bạn tu à! Mai mốt gặp nhau rồi tha hồ mà niệm Phật.

– Đừng vòng vo! Lắng nghe đây: Nam-mô A Di Đà Phật, Nam-mô…

A Di Đà Phật - Âm ba vi diệu nhất

Thật ngạc nhiên, quả không sai, cô bạn tui niệm Phật qua điện thoại di động nghe như là đang hát kinh, không thua gì máy niệm Phật! Giọng cô ấy lên xuống trầm bổng du dương cao vút, hèn chi đạo tràng của cô ai cũng khen cô có giọng tụng kinh hay đáo để. Dù mới tụng kinh niệm Phật ba năm nay thôi mà cô đã có khả năng nghe được âm thanh tiếng niệm Phật của cô phát ra từ sau gáy. Cô lấy làm lạ bèn đi hỏi thầy, được thầy cho biết trong đạo tràng này gồm khoảng 30 Phật tử thường xuyên đi chùa tụng kinh từ mấy năm nay, nhưng hiếm người có khả năng đó. Cô là người thứ hai có khả năng này do sự tín tâm niệm Phật A Di Đà rất nhiều, rất nhiều. Cho nên danh hiệu Phật được ghi lại trong bộ nhớ đặc biệt của cô và khi cô ngồi yên chỉ cần nghĩ về sáu chữ của câu niệm ấy, tức thì sáu chữ ấy vọng lên bên tai.

Như vậy, nhờ vào sự hành trì siêng năng tinh tấn mà cô bạn tôi đã có bước đầu thành tựu rất đáng kính nể. Bản thân tôi học Phật thâm niên hơn cô ấy rất nhiều, nhưng việc niệm Phật chưa có thành tựu gì đặc biệt, sự hiểu biết của tôi về đạo chưa có nhiều và sự thực hành cũng chưa được tinh tấn thiết thực bằng cô ấy. Nhưng tôi cũng có được một điều như cô bạn tu ấy. Đó là khi niệm Phật trong miệng tiết ra chất dịch vị ngọt hơn bình thường, cho nên dù niệm Phật to tiếng suốt cả thời kinh không uống nước cũng không cảm thấy khát nước và không khan giọng, tôi có cảm giác như là lục phủ ngũ tạng và hàng tỉ tỉ tế bào khi nghe niệm danh hiệu A Di Đà Phật thì tất cả đều rất hoan hỷ và hưng phấn.

Không có ai quy định mỗi ngày niệm Phật bao nhiêu là đủ, nhưng với tôi từ khi chọn lựa pháp môn Niệm Phật để tu tập, tôi tự thấy rất phù hợp. Tôi niệm Phật trong các thời kinh, niệm Phật bất kỳ ở nơi đâu khi cần thiết để vượt qua mọi lo âu phiền muộn. Và tôi cảm thấy khi niệm Phật thì thân tâm thật sự sảng khoái, thư thái, như thiết lập được sự bình an vô ngại. Làn sóng tâm niệm Phật và âm thanh niệm Phật truyền độ rung động đến toàn thân một cách vi diệu, tác động rất tinh tế và nhẹ nhàng vào tất cả tế bào khiến rất dễ chịu có thể phát huy công năng tốt nhất, chỉ khi nào thân tâm buông thư mới có thể nhận ra được cảm giác dễ chịu này.

Trong những năm gần đây, người ta đã nghiên cứu việc dùng âm nhạc để trị bệnh. Từng loại nhạc có khả năng trị liệu khác nhau, đó là điều mà các nhà khoa học đã chứng minh được qua thực tế lâm sàng. Ni sư Đạo Chứng, là một vị bác sĩ Tây y, cho rằng, so với âm nhạc thì việc niệm Phật được thực hành khi chúng ta mở rộng lòng từ, toàn thân buông thư niệm Phật theo âm vận nhất định thì tôi tin rằng còn hiệu quả hơn so với âm nhạc bình thường, bởi vì trong danh hiệu Phật đã hàm chứa tâm từ bi vĩ đại và trí tuệ thâm sâu cứu độ chúng sanh của Đức Phật. Đồng thời danh hiệu Phật cũng khai phát ánh sáng và năng lực công đức Phật tánh vốn có bên trong của chúng ta! Năng lực công đức này đương nhiên cũng bao gồm năng lực trị liệu tâm bệnh cả thân bệnh.

Đức Phật là người đã khám phá ra năng lượng Phật tánh của mình đến mức viên mãn. Khi chúng ta niệm danh hiệu Phật, Ngài cũng sẽ theo bản thệ nguyện của mình mà đến hướng dẫn giúp chúng ta diệt khổ để đạt đến cảnh giới an vui.

Cô bạn tu của tôi là một người đã từng đau khổ nhất khi chồng mất, trải qua một năm dài chìm sâu xuống đáy sâu tuyệt vọng tưởng như chỉ có cái chết mới có thể chấm hết được khổ đau. Nhưng thật may, người anh bên chồng đã giúp cô ấy vượt qua được bằng con đường hành trì niệm Phật. Tối nào cô cũng cầu siêu cho chồng ở chùa hoặc ở nhà riêng, cô đã niệm Phật A Di Đà không biết bao nhiêu biến, nhiều lắm! Trong các thời kinh Cầu siêu, kinh A Di Đà, kinh Địa Tạng, Lương Hoàng sám… cô đã rút ra được một điều:

“Muốn tâm của mình bình tĩnh, cách tốt nhất là niệm Phật, không rời câu niệm A Di Đà Phật. Không kể là gặp phải bất cứ sự đau khổ hay sung sướng như thế nào, cũng phải nên niệm A Di Đà Phật. Đây là phương pháp đơn giản dễ dàng thực tập, lại nhanh chóng giúp chúng ta bình tâm trở lại. Chúng ta quán tưởng ánh sáng từ bi và trí tuệ của Đức Phật chan hòa tràn đầy khắp thân tâm của mình thì sớm muộn gì sự đau khổ cũng sẽ biến mất. Quá khứ đã qua rồi/Tương lai thì chưa đến/A Di Đà trì niệm/ Hiện tại nhất định vui”.

Bước vào tuổi 57 mới học Phật, nhờ cái duyên lành gặp đạo, cô đã chuyển hóa được khổ đau phiền não thành an vui trong thời gian rất ngắn hành trì niệm Phật. Hàng ngày cô chăm chút vườn lan đến cả nghìn chậu, vừa chăm bón, cô vừa hát kinh bằng câu niệm A Di Đà Phật trầm bổng rất hay và thỉnh thoảng còn ngâm câu thơ nhại theo của ai đó: “Giả sử ngày mai tận thế/Đêm nay lan vẫn nuôi trồng/Bình tâm ngắm ánh trăng trong/Hát kinh A Di Đà Phật”. Cô bạn tu nói là rất tiếc không tu sớm. Người đời có câu “Tu mau kẻo trễ!” nhưng không sao, vấn đề không ở chỗ là sớm hay muộn, mà khi bạn gặp phải khổ đau chướng ngại, bạn có gặp được thầy dạy cho cách “Đập nát hư không tìm lối thoát/Cài then mộng mị tỏ đường về”.

Lối thoát đó là đường trở về với Bụt, con đường có hương hoa thơm ngát. Để không phải lạc lối giữa bể khổ trần gian này thì người con Phật luôn gọi đúng danh hiệu Ngài. A Di Đà Phật, âm ba vi diệu nhất.

Lê Đàn – GNO

Vừa chăm lo việc nhà vừa niệm Phật, có đảm bảo vãng sanh không?

Đáp:

Trước đây, khi tôi giảng Kinh, hình như đã kể một câu chuyện.

Ở San Francisco nước Mỹ, có một bà cụ, bà cũng lo việc nhà, chăm sóc cháu nội. Bởi vì con trai và con dâu đều đi làm, người già ở Mỹ đích thực là giúp chăm sóc việc nhà.

Bà niệm Phật rất tinh tấn. Lúc vãng sanh, người trong nhà đều không hay biết.

Bà trước giờ chưa từng nói với người nhà về việc niệm Phật.

Vừa chăm lo việc nhà vừa niệm Phật, có đảm bảo vãng sanh không?

Mỗi buổi sáng bà dậy rất sớm làm cơm sáng, mỗi ngày đều như vậy.

Một buổi sáng nọ bà không thức dậy, không có người nấu bữa sáng, con trai và con dâu thấy vậy đã đến phòng của bà. Họ vừa mở cửa phòng thì nhìn thấy bà ngồi xếp bằng trên giường, gọi bà bà không đáp. Đến trước mặt nhìn thì bà đã vãng sanh rồi, không biết ra đi vào lúc nào. Bà ngồi xếp bằng mà ra đi.

Sau đó nhìn kỹ lại bên giường thấy có để di chúc của bà. Bà đã viết từ lâu, không những đã viết xong di chúc dặn dò, mà bà đã chuẩn bị xong tang phục của con trai, con dâu và cháu trai, đều đặt ở cạnh giường.

Bạn xem, bà cụ này thật là cừ khôi! Đây là biết trước ngày giờ ra đi. Bà đã lo liệu toàn bộ việc hậu sự của mình, con cháu không cần phải lo lắng chút nào.

Bạn xem đó, bà vừa lo việc nhà, vừa chăm sóc con cháu, mà không hề bị chướng ngại việc niệm Phật, nhất định là không có chướng ngại.

Điều quan trọng nhất là trong tâm không được có một chút vấn vương đối với gia đình, đối với con cháu. Nếu có một chút vương vấn thì sẽ có chướng ngại, bạn không thể tự tại vãng sanh.

Bà tuy chăm lo vô cùng chu đáo các công việc, nhưng trong tâm bà chỉ có A Di Đà Phật. Ngoài A Di Đà Phật ra, trong tâm bà không có một ý niệm nào về con cháu, cho nên bà mới vãng sanh tự tại như vậy.

Chúng ta phải nên học tập việc này.

Bất luận làm công việc, ngành nghề gì thì đối với việc niệm Phật vãng sanh đều không có chướng ngại.

– Nếu có chướng ngại là do chính bạn không hiểu đạo lý, không hiểu phương pháp.

– Nếu bạn hiểu đạo lý, hiểu phương pháp thì việc gì cũng không thể làm chướng ngại được.

Pháp môn niệm Phật thù thắng chính là ở chỗ này.

Cách chuyển hóa một nghiệp xấu

Đáp: Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy thí dụ như sau:

“Nếu người phải bị nuốt một nắm muối sẽ rất khó khăn. Tuy nhiên nếu đem cho nắm muối đó vào một tô nước nhỏ rồi uống, thì sẽ dễ dàng hơn việc nuốt muối khan như ban đầu. Và nếu cho nắm muối đó vào một lu nước rồi uống thì sẽ còn dễ chịu hơn chút nữa. Cuối cùng nếu bỏ nắm muối vào hồ nước lớn rồi uống vào thì chuyện sẽ không còn là vấn đề.

“Nắm muối ở đây tượng trưng cho các ác nghiệp mà con người đã gây tạo, bây giờ phải lãnh quả báo khổ đau, không sao tránh khỏi. Chỉ có phước báo có ít hay nhiều, tượng trưng tô nước, lu nước hay hồ nước, có thể giúp con người vượt qua khổ đau mà thôi. Ví dụ : Cùng là 2 đứa trẻ bị tật nguyền, nhưng một em thì sinh vào nhà giàu, có kẻ hầu người hạ, đầy đủ tiện nghi, cha mẹ thương yêu hết lòng, bản thân chỉ bị tật thôi, ngoài ra không thiếu một thứ gì. Còn một em thì lại sinh ra trong gia đình nghèo khó, cha mẹ nuôi không nổi, bữa đói bữa no, dần dà rồi cũng đẩy vào viện mồ côi, cuộc sống thiếu thốn đủ điều.

Qua đó ta thấy rằng 1 người trả quả báo khi phước đang còn. Còn 1 người trả quả báo khi khi phước không còn, thê thảm vô cùng.Khi chúng ta đang có phước thì nghiệp sẽ chưa trổ quả, nhưng khi phước đã cạn thì ác nghiệp chúng sẽ kéo đến ngay, gây đau khổ cho bản thân này.

Biết được điều đó mọi người hãy cố gắng tu, cố gắng làm phước đền bù với phần tội mà chúng ta đã từng gây tạo trong hiện tại cũng như quá khứ, để khi nghiệp quả xấu xảy đến chúng ta có trả cũng trả một cách nhẹ nhàng hơn.

Làm thế nào để phân biệt kinh Phật và kinh ngụy tạo?

Bàn đến kinh Phật, chúng ta phải biết ý nghĩa của kinh, kinh do ai thuyết, tác dụng của kinh, khởi đầu và kết thúc như thế nào mới đúng nghĩa, để không lầm kinh do Phật thuyết hay kinh do ngụy tạo.

Trước nhất chúng ta thử tìm hiểu về “kinh”, phạm vi lời Phật thuyết giáo trong cõi ta bà suốt 49 năm, có thuyết nói 45 năm. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Phạm Hạnh, thứ 20 do Ngài Đàm Vô Sấm (265-316), đời Tây Tấn dịch từ văn Phạn ra văn Hán, Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917-2014) dịch từ văn Hán ra văn Việt, Luận Đại Trí Độ, nguyên tác Bồ tát Long Thọ, Ngài Cưu Ma La Thập dịch từ văn Phạn ra văn Hán, Ngài Hòa Thượng Thích Thiện Siêu (1921-2001) dịch từ văn Hán ra văn Việt, Ngài HT Thích Thiền Tâm (1924-1992) biên soạn Kinh Điển Đạo Phật.

Làm thế nào để phân biệt kinh Phật và kinh ngụy tạo?

Ngoài ra trong Phật học từ điển của Cụ Đoàn Trung Còn (1908-1988), một học giả trứ danh của Phật giáo miền Nam, để lại một kho tàng kinh sách Phật, trong đó có bộ Từ điển Phật học, các vị đã nghiên cứu trích giảng 12 phần giáo như sau:

Thứ nhất Tu Đa La (Khế kinh)

Ngôn ngữ, những phần kinh do Đức Phật Bổn sư Thích Ca thuyết pháp cho chư đệ tử. Kinh được chia ra làm 2 phần: Thông giáo và biệt giáo

Tu đa la là tên chung của thánh điển, Đức Phật có thuyết ra các bài kinh. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, Tôn giả A Nan đọc lại tại đại hội kiết tập lần thứ nhất trong hang Thất La Phiệt. Kết tập Bồ tát tạng ngoài hang Thất La Phiệt. Sau đại hội gom lại kêu là Tu Đa La, Trung Hoa dịch là Khế kinh. Kinh là một trong tam tạng thánh điển: Kinh (Tu Đa La), Luật (Tỳ Nai Da), Luận (A Tỳ Đạt Ma).

Tu Đa La còn là một thể văn Trường hàng (tản văn, dài), nói thẳng pháp nghĩa trong Khế kinh, Trung hoa dịch là Pháp Bổn. Đức Phật tùy nghi thuyết pháp cho đệ tử, khi thì dùng văn thường, khi thì dùng ca kệ. Ban đầu Ngài giảng về Tiểu thừa, lần lượt thuyết chín bộ (Cửu bộ kinh). Đến chứng muốn đưa đệ tử vào đại thừa, Phật thừa, Nhứt thừa, Phật mới nói thêm ba thuyết nữa kêu chung là Thập nhị bộ kinh. Thập nhị bộ kinh là các thể lọai thuyết pháp của Phật, gọi là tam tạng thánh điển. Kinh là phần quan trọng trong Cửu bộ pháp. Mỗi phần kinh đều khởi bằng mấy chữ: “Ta nghe như vầy” và kết luận phần kinh bằng chữ: “hoan hỷ phụng hành”

Nhân nói đến phần kinh, các Bạn Phật tử cần hiểu về ý nghĩa của Kinh, gọi đủ là Khế kinh. Bao nhiêu những bộ thánh điển mà Đức Phật thuyết, Tôn giả A Nan nhớ hết và mỗi khi nghe thì tin chịu, chớ không hề nghi ngờ. Cho đến khi Đức Phật Niết Bàn, Đại hội kết tập cử Tôn giả A Nan lên pháp tòa, diễn giảng lại các khế kinh.. Khế kinh còn có nghĩa là hợp kinh, hợp với căn cơ trình độ của các hạng chúng sanh. Dù hạng cao, hạng vừa hay hạng thấp. Hạng đã tu lâu hay hạng mới tu tập, ai nghe kinh coi kinh cũng đều được lợi ích tất cả.

Bao nhiêu khế kinh do tôn giả A Nan giảng thuật, hiệp lại làm thành Kinh tạng, một bộ trong Tam Tạng (Kinh Luật Luận). Tất cả những bài khế kinh hiệp thành một thể trong 12 thể thuyết pháp của Phật, không khác với đạo lý giải thoát của Phật, nên gọi là khế lý (Từ điển Phật học Đoàn Trung Còn)

Thứ hai Trùng Tụng (Kỳ Dạ)

Là một thể thuyết pháp của Phật và lập đi lập lại nhiều lần bằng kệ tụng, nên gọi là Trùng tụng. Trùng Tụng cũng gọi là Ứng Tụng.

Thường trong các thời thuyết giảng kinh của Phật bằng tản văn, dài quá làm cho các môn đệ khó nhớ, hoặc những người ở xa đến nghe pháp không kịp, hoặc để tóm một bài giảng, Đức Phật thường lập đi lập lại bằng những bài kệ, giúp cho mọi người dễ nhớ, giúp cho người nghe pháp không nhàm chán, hoặc giúp cho những ở xa mới đến được nghe lời Phật giảng bằng bài kệ tụng.

Thứ ba Thọ ký

Thọ là nhận lấy, ký là ghi nhớ, ghi chứng. Đọc trọn thành ngữ là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ký, viết tắt là Thọ ký. Thọ ký cũng có nghĩa là trao cho, sự ký chứng. Cũng gọi là Thọ biệt, khi một Đức Phật phán trước rằng về sau một vị tu hành nào đó sẽ thành Phật, hiệu là…đó kêu là Thọ ký. Như tiền thân Đức Phật Thích Ca, được Đức Nhiên Đăng cổ Phật thọ ký cho thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni thế tôn vậy.

Thứ tư Kệ Đà (Kệ)

Có nghĩa là phúng tụng trì tụng Phật ngôn, kệ là những bài thi ca thường hiệp lại thành 4 câu (tứ cú kệ), tức 4 hàng, để ca tụng công đức Phật, Bồ tát. Cũng nhằm để gom lại ý của một bài kinh, của một cuộc thuyết pháp, hoặc để phô diễn lòng cảm mến, lòng tin tưởng Tam bảo.

Kệ còn là những bài trường thi, hiệp lại là cả trăm câu, để trùng tuyên giải thêm cho rộng nghĩa một bài thuyết pháp, như các bài kệ tụng trong phầm Thí dụ Kinh Pháp Hoa.

Thứ năm Tự Thuyết

Cũng gọi vô vấn tự thuyết, trong đời thuyết giáo của Phật có nhiều thời giảng, không do ai hỏi mà Đức Phật tùy cảm ứng mà thuyết. Cho nên kinh vô vấn tự thuyết Udàna còn gọi là Kinh Cảm Ứng. Theo tự điển Phật học của Cụ Đoàn Trung Còn, thì kinh mà Phật tự nhiên diễn giảng, chẳng có ai khải thỉnh, chẳng có ai thưa hỏi, gọi là Udàna

Thường thì có vị Thanh Văn hay vị Bồ tát khải thỉnh, hoặc hỏi vì ý nghĩ của mình, thì Phật mới thuyết pháp. Nhưng có khi chẳng đợi ai hỏi, Phật tự nhiên giảng giải đó gọi là tự thuyết kinh. Ví dụ như kinh A Di Đà, thuộc về kinh vô vấn tự thuyết.

Thứ sáu Nhân Duyên

Ni Đà Na danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Nhân Duyên. Đây là những kinh nhân có người thỉnh, hay nhân có duyên chi Phật mới nói ra, hoặc nói về nhân duyên gặp Phật nghe pháp, những chỗ có nhân duyên hóa độ, hay nói về duyên khởi của vũ trụ và nhân lọai.

Thứ bảy Thí dụ

A Ba Đà Na, tức là Kinh Thí Dụ. Pháp của Phật nói ra rất mầu nhiệm, người độn căn khó mà hiểu thấu. Vì thế, khi giảng dạy Ðức Như-Lai phải dùng những thí dụ cho thính chúng dễ hiểu. Đại khái như những lời thí dụ trong các Kinh điển

Là những tích xưa có thật (sử), hoặc đặt ra (ngụ ngôn) cùng là một thể so sánh do Đức Phật thuật lại để giúp cho moi người thấu hiểu đạo lý cao siêu, hoặc để cho người mới tu tập tỉnh ngộ.

Thứ tám Bản Sự kinh (Như thị Pháp Hiện)

Là những kinh văn Phật nói chỗ tu nhân của các vị Bồ-Tát, đệ tử về đời quá khứ, hoặc những ngôn giáo, sự nghĩa liên quan với đời trước. Thí dụ như đoạn: “Nầy các Tỷ-kheo! Pháp của ta nói hôm nay gọi là Giới kinh, đời Phật Câu Lưu Tôn gọi là Cam Lồ Cổ, đời Phật Câu Na Hàm Mâu Ni gọi là Pháp Cảnh, đời Phật Ca Diếp gọi là Biệt Không”. Kinh Bản Sự là một thể lọai trong 9 thể lọai kinh của Tiểu Thừa, một trong 12 thể lọai của Đại thừa.

Kinh có 7 quyển do Ngài Huyền Trang dịch vào năm 650 được xếp vào Đại chánh tạng, tập 17.

Kinh Bản Sự có nội dung rất gần giống với những kinh thuộc thể lọai như thị ngữ trong tạng Pali hiện còn. Trong tạng Pali nầy gồm có 4 thiên và 112 kinh thuộc thể lọai như thị ngữ, ít hơn 26 kinh do với kinh Bản Sự. Phần nhiều các học giả hiện đại đều suy đoán Kinh Bản Sự và những kinh thuộc thể lọai như thị ngữ trong tạng Pali đều có cùng một nguồn gốc. Riêng nội dung kinh Bản Sự do Ngài Huyền Trang dịch đều lấy thể lọai như thị ngữ xuyên suốt từ đầu đến cuối mỗi kinh mà không bao gồm một câu truyện Bản Sanh nào (Phật học từ điển Huệ Quang, trang 296-297)

Thứ chín Bản Sanh kinh:

Là phần lớn nhất của Tiểu bộ kinh, gồm 547 bài. Kinh này kể lại sự tích, các tiền kiếp của Phật Thích Ca, nói về các đệ tử và những người chống đối Phật và chỉ rõ các nghiệp đời trước đóng vai trò thế nào trong đời này.

Bản sanh là 1 trong 9 thể lọai kinh (phân theo hệ tiều thừa) và 12 thể lọai kinh (phân theo hệ đại thừa), kinh thứ 10 trong 15 kinh của Tiểu bộ Kinh, thuộc hệ kinh tạng Pali. Trong đó kinh thứ 10 gom chép sự tích bản sanh, thuật lại việc Phật Thích Ca thị hiện thân như Quốc Vương, Thầy Bà La Môn, lái buôn và thân các lòai động vật như: voi, khỉ, nai, gấu.v.v..hoặc để cứu độ chúng sanh, hoặc vì cầu pháp mà tinh tấn làm các công đức thiện nghiệp. Toàn bô viết bằng văn xuôi hoặc văn vần. Kinh nầy chia làm 22 tập, 547 bài tùy theo độ ngắn dài của các thiên hoặc số kệ nhiều hay ít các bài, trong đó từ tập 1 đến tập 8 có lập tên phẩm riêng.

Trong kinh nầy có nhiều truyện tinh thần hy sinh của thánh hiền, tiền thân Phật. Phải chăng giáo nghĩa lợi tha của Phật giáo đại thừa đã bắt nguồn từ đây và 6 pháp ba la mật cũng do những câu truyện bản sanh nầy phân lọai mà tổ chức thành những hạnh Bồ tát lợi tha.

Kinh Bản sanh bằng tiếng Pali có lẽ được chép thành sách vào khỏang thế kỷ III trước tây lịch, không rõ tên tác giả. Có thuyết cho rằng, người thời ấy lấy những tích đương thời làm nền tảng, rồi dung nhập với màu sắc Phật giáo mà chép thành (trích Phật học từ điển Huệ Quang, trang 294)

Thứ mười Phương Quảng

Tỳ Phật Lược, danh từ nầy, Trung Hoa dịch là Phương Quảng. Đây là những kinh Đại thừa Phương Đẳng, nội dung hàm nghĩa lý cao siêu, hạnh tu bình đẳng, nghĩa lý sâu mầu, rộng rãi như mười phương hư không. Phương là chữ nghĩa, ngôn ngữ chơn chánh, Quảng là nghĩa lý rộng rãi vô biên; như Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Đại Tập, Kinh Bảo Tích, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội, Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân (tự điển Phật học Đoàn Trung Còn)

Thứ mười một Hy pháp

A Tỳ Đạt Ma, danh từ nầy, Trung-Hoa dịch là Vị Tằng Hữu hoặc Hy pháp, tức là pháp hiếm có, ít nói ra cho đại chúng nghe. Đây là kinh văn nói về những thần lực, những nghiệp duyên, những công đức tối thắng, lạ lùng, ít có, mà trí phàm phu khó tin hiểu. Như kinh Đại Niết Bàn nói: “Thế nào là pháp Vị Tằng Hữu? Như Bồ Tát khi mới sanh ra, không người nâng đỡ mà tự đi bảy bước, phóng đại quang minh, nhìn khắp mười phương. Như con vượn tay bưng bát mật cúng dường Như Lai. Như con chó cổ trắng theo bên Phật nghe thuyết pháp. Như Thiên ma Ba Tuần biến làm con thanh ngưu đi trên những bát bằng sành, khiến cho các bát va chạm nhau mà không sứt bể. Và cũng như Bồ Tát khi mới sanh được đưa vào miếu thờ thiên thần, các thiên tượng đều đứng lên lễ kỉnh”.

Thứ mười hai Luận nghị

Ưu Bà Đề Xá danh từ nầy có nghĩa Luận nghị. Đây là lối kinh văn có tính cách vấn đáp biện luận, hoặc phân biệt các tướng mạo, các lẽ chánh tà. Luận Du Già nói: “Thế nào là Luận Nghị? Đây là tất cả đối pháp luận, nghiên cứu nghĩa rộng sâu của Tô Đát Lãm, tuyên dương tông yếu của các kinh”. (Kinh điển Đạo Phật của HT Thích Thiền Tâm)

Vì sao kinh chia thành 12 phần giáo?

Mười hai phần giáo như trên gọp chung lại gọi là “Kinh”, trong đó phần giáo thứ 12 còn gọi là luận nghị. Luận là nói, đàm luận lời dạy của Phật, nói với nhau qua những ý nghĩ sâu mầu, uyên bác. Chư vị Tổ sư là những người đắc đạo, là những nhà hoc Phật uyên thâm, thường gặp nhau trong chốn thâm sơn cùng cốc luận đàm kinh Phật cho ra nghĩa lý sâu mầu mà truyền giáo cho chúng sanh học hỏi. Các Ngài cũng thường gặp nhau trên văn đàn, trao đổi những kiến thức những kinh nghiệm trải qua các thời giáo hóa của Phật, các bậc tiên đức và bản thân mà suy luận thành những bài luận đặc sắc sâu mầu vi diệu để giáo hóa chúng sanh cho phù hợp, như Thắng Pháp Yếu Luận, Đại Trí Độ Luận, Trung Quán Luận, Thành Thật Luận, Câu Xá Luận…

Trong đời thuyết giáo Đức Phật tại quê hương rộng lớn và huyền bí của Ngài có nhiều thành phần đệ tử quy y: trí thức như Xá Lợi Phất, Phú Lâu Na, giàu có như Da Xá, Cấp Cô Độc, người tôn giáo khác như Ca Diếp, ít học như Ưu Ba Ly, Châu Lợi Bàn Đặc, trẻ như La Hầu La, Nan Đà, nghèo hèn như Ưu Đà Di, người ác như Ương Quật Ma La, nhẫn đến trong giáo đoàn của Ngài còn thu phục nhiều thành phần, ngọai đạo, chúng sanh ở thế giới khác, chúng sanh hai hình, không hình, nhơn phi nhơn… nên trong mỗi thời thuyết giáo lúc nào Ngài cũng đem đến cho chúng sanh một bức thông điệp mới lạ, ý thức mới, luôn có sự vươn lên tầm cao, nhằm để cho các vị để tử dễ dàng tiếp thu, giác ngộ tu hành giải thoát sanh tử luân hồi. Từ đó có nơi Phật nói pháp bằng thi kệ, có nơi Phật nói thành một tản văn lớn thành kinh bộ, có nơi chỉ nói 4 câu kệ, một bài kinh ngắn…đại chúng nghe liền giác ngộ tu hành không thối đạo tâm.

Như trên đã nói, Pháp âm của Phật rất mầu nhiệm, nhưng tam tạng thánh điển mới chỉ được tuyên lưu trong hành tinh địa cầu, trong khi phạm vi giáo hóa của Phật là thế giới ta bà, tức là còn có nhiều chủng lọai chúng sanh trong hằng hà sa số hành tinh khác nữa trong thế giới ta bà. Như vậy tiếng pháp âm luôn luôn được thay đổi thành vô lượng nghĩa để diễn dương vi diệu pháp trong khắp mười phương ba đời.

Mười hai (12) thời giáo Phật khẩu tuyên

Đại thừa phương tiện thuở sanh tiền

Chín (9) giáo đưa người về bến giác

Giữ gìn chơn lý bổn thủy nguyên

Hòa thượng Thích Giác Quang