back to top
28.5 C
Chư Sê
Thứ Sáu, 8 Tháng 8, 2025
Home Blog

Thư Ngỏ – Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo Tượng Đài Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát

THƯ NGỎ
V/v Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo Tượng Đài Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Kính thưa quý Phật tử,

Nam Mô U Minh Giáo Chủ Cứu Khổ Bổn Tôn Cứu Bạt Minh Đồ Đại Thánh Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Kính Bạch chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni

Kính Thưa quý Phật tử thiện nam tín nữ gần xa,

Nhân ngày Vía Bồ Tát Quán Thế Âm 19/09 vừa qua, Chùa Phước Viên H’Bông đã tổ chức Khóa Tu Mùa Thu và đặt đá kiến lập tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát. Vừa rồi, sau Khóa Tu An Lạc Một Ngày 14/10 hoàn mãn, đến Rằm tháng 10, Bổn tự Chùa Phước Viên đã chính thức khởi công giải phóng mặt bằng và múc móng Kiến lập Tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát.

Thời gian qua, Bổn tự đã nhận được những tấm lòng phát tâm Bồ đề cúng dường kiến lập Tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát: TT. Thích Giác Nhàn cúng 100 triệu, quý Phật tử tham dự Khóa Tu An Lạc vừa qua 75 triệu đồng, (đệ tử TT. Giác Nhàn phát tâm 100 triệu, sẽ chuyển cúng vào đầu tháng tới). Gia đình cô Hảo và quý Phật tử Hà Nội cúng sắt và một phần công thợ trị giá 250 triệu, quý Phật tử Chùa Mỹ Thạch, Chùa Phước Viên, và Pleiku… cúng chung khoảng 110 triệu…….

Tổng số tịnh tài Bổn tự đã nhận được là 550 triệu. Dự kiến Công trình Tượng Đài Địa Tạng gần 2 tỉ đồng.

Hiện tại công trình đang thi công và rất cần Xi Măng (tổng công trình khoảng 100 tấn xi măng), xi măng đang làm là xi măng Hoàng Thạch, một bao là 100 ngàn (một tấn là 2 triệu).

Tượng Đài Địa Tạng Bồ Tát là Công trình tâm linh đặc biệt hồi hướng báo hiếu Ông Bà, Cha Mẹ, Cửu huyền Thất tổ, pháp giới chúng sanh: Chúng Sanh Độ Tận Phương Chứng Bồ Đề, Địa Ngục Vị Không Thệ Bất Thành Phật, Đại Từ Đại Bi, Đại Thánh Đại Nguyện, Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát…

Bổn tự rất mong được đón nhận sự phát tâm cúng xi măng từ quý Tôn đức và quý nam nữ Phật tử gần xa. Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát.

H’Bông ngày 19/10/Quý Mão
Trụ Trì Chùa Phước Viên
Đại Đức Thích Quảng Phước

Quý Phật tử phát tâm cúng dường có thể gửi trực tiếp tại bàn trực khách, văn phòng Ban liên lạc hoặc thông qua số tài khoản của chùa:
Tiếp nhận thông qua số tài khoản:

  • Ngân hàng: Vietinbank
  • Tên chủ tài khoản: NGUYEN TAN LOI (Đại Đức Thích Quảng Phước)
  • Số tài khoản VNĐ: 1008 6212 8777
  • SWIFF: ICBVVNVX182
  • Nội dung chuyển khoản: PTXMHPKT (Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo)

Xin cảm niệm công đức mọi sự quan tâm và đóng góp về vật chất lẫn tinh thần quý phật tử dành cho Phật Giáo Chư Sê. Mọi sự phát tâm cúng dường sẽ được nhà chùa phương danh sau khi khóa tu kết thúc.
Nguyện cầu mười phương chư Phật gia hộ cho quý Phật tử thân an tâm lạc, vạn sự kiết tường, sở cầu sở nguyện đều được như ý.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Vì sao gọi Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi quý báu?

Đức Thế Tôn trong kinh Niệm Phật Ba La Mật thuyết: “Tam bảo là chỗ về nương tựa của muôn loài, là ngọn đèn phá tan mọi hắc ám, là con thuyền đưa chúng sinh qua thấu bờ bên kia.”

Tam bảo là gì?

Nhân loại thường cho vàng bạc, ngọc ngà châu báu hay quyền cao chức trọng là quý. Nhưng thử hỏi khi gặp chuyện mất mát đau thương, quyến thuộc xa lìa hoặc bị giặc cướp, bệnh tật trầm kha… thì các thứ ấy có thể làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau cho ta được hay không?

Phật là con người đã hoàn toàn tự tại, giải thoát nhờ phước huệ song tu với tinh thần vô ngã vị tha. Pháp là những lời dạy chân chính của Phật qua sự trải nghiệm trong tu chứng nên thấy rõ chúng sinh sống chết luân hồi đều do mình tạo lấy. Tăng là những người truyền thừa thay Phật hoằng dương Chánh pháp, sống trong tinh thần Lục hòa, đoàn kết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần chia vui sớt khổ, phục vụ vì lợi ích chúng sinh.

Tam Bảo là ba ngôi quý báu; gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
Tam Bảo là ba ngôi quý báu; gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.

Tăng là những người hiến trọn đời mình cho mục đích trên cầu thành Phật, dưới hoằng hóa độ sanh vì lợi ích con người. Nhờ có chư Tăng, Ni thay Phật hoằng truyền những lời dạy của Ngài khiến cho Chánh pháp được mở mang rộng rãi đến với tất cả mọi người. Những ai hấp thu được tinh ba của Phật pháp sẽ ngày càng được an vui, hạnh phúc hơn và sẵn sàng an ủi, sẻ chia, giúp đỡ tha nhân vì tình người trong cuộc sống.

Nhưng Tăng cũng có nhiều loại, đại khái lược có ba là Bồ Tát Tăng, Thanh Văn Tăng và Phàm Phu Tăng. Đây là Tăng bảo chân chánh xứng đáng được mọi người y chỉ tu học và tôn kính cúng dường.

Chúng ta nên hiểu đúng về Tam Bảo

Phật tùy duyên giáo hóa và đã nhập Niết bàn, nay chỉ còn lại những lời vàng ngọc của Ngài. Chư Tăng thay Phật truyền trì Chánh pháp, hiến trọn đời mình cho sự nghiệp vì lợi ích chúng sinh.

Tăng phàm phu là những người chân thật nguyện hiến đời mình cho lý tưởng giác ngộ và giải thoát, đang kế thừa con đường Phật đạo, tuyên dương Chánh pháp giúp cho mọi người bớt khổ thêm vui, luôn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Phàm phu Tăng tuy chưa thành tựu đạo quả nhưng vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn mọi người biết cách dứt ác làm lành nhờ tin sâu nhân quả nên chính vì vậy ai phát tâm cúng dường phàm phu Tăng vẫn được phước báo không thể nghĩ bàn.

Pháp là những lời dạy của Đức Phật để chúng sinh nương tựa vào giáo Pháp của Ngài
Pháp là những lời dạy của Đức Phật để chúng sinh nương tựa vào giáo Pháp của Ngài

Thực tế trong cuộc đời này phàm phu Tăng là số đông gần gũi với chúng ta nhất. Phàm phu Tăng chân thật tu hành thuyết pháp độ sanh mang tinh thần của các vị thánh Tăng Bồ Tát và thánh Tăng Thanh Văn.

Phàm phu Tăng là số đông nên quý Phật tử dễ gần gũi và tiếp cận hơn, chúng ta vẫn học hỏi được những điều hay lẽ phải để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày.

Nói tóm lại, tin sâu Tam Bảo là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Khi chúng ta tin thì không nên thần tượng hóa vì thần tượng hóa dễ sụp đổ và mất tín tâm. Ta chỉ thấy thầy mình hay, thầy mình giỏi nên dễ dẫn đến tư tưởng phê bình, chỉ trích người khác, do đó làm mất đi sự hoà hợp trong Tăng đoàn gây sự chia rẽ.

Tăng là đoàn thể sống trong an vui, hòa hợp. Vì lợi ích số đông mà nhiều người cùng sống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết với tinh thần vô ngã vị tha.

Quy y Tam Bảo, ý nghĩa và tầm quan trọng

Trong cõi đời vô thường này mới thấy đó nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh mà nay đã tán gia bại sản, cửa nát nhà tan, con cái chia lìa. Duy chỉ có Tam bảo Phật-Pháp-Tăng mới giúp chúng ta vượt qua biển khổ sông mê, vươn lên vượt qua số phận tối tăm để làm mới lại chính mình bằng cách dứt ác làm lành, giữ tâm ý trong sạch nên mới gọi là ba ngôi báu.

Tam bảo là ngọn đèn sáng giúp cho con người vượt qua si mê, tối tăm, mờ mịt. Tam bảo có khả năng chuyển hóa phiền não, khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Nhờ Tam Bảo ta biết được điều hay lẽ phải, biết rõ sự thật cuộc sống con người và muôn loài vật đều phải nương nhờ vào nhau mới bảo tồn mạng sống.

Chính vì vậy, người Phật tử chân chính cần phát triển lòng từ bi thương yêu bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Do đó, Tam bảo Phật-Pháp-Tăng như ba viên ngọc quý không gì có thể so sánh được. Và Tam bảo có sáu ý nghĩa không thể nghĩ bàn:

Một là nghĩa hy hữu, tức là hiếm có, khó được như vàng bạc, kim cương, ngọc quý… người nghèo không thể có được. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, dù người ở sát bên chùa nhưng thiếu phước cũng khó gặp, không thể thân cận với Tam bảo để tu học nên gọi là hy hữu.

Khóa thu mùa hè 2023
Ngôi báu thứ ba chính là Tăng Bảo, là những nhà tu hành dành trọn cuộc đời thực hành theo giáo pháp của Đức Phật, hướng đến sự giải thoát.

Học Phật tại gia như thế nào?

Hai là nghĩa ly cấu, tức lìa xa những việc xấu ác mà hay làm những việc thiện lành, tốt đẹp như ngọc ma ni trong sáng, sạch đẹp không tỳ vết, khó vấy bẩn. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, giúp cho chúng ta xa lìa phiền não tham-sân-si nên gọi là ly cấu.

Ba là nghĩa thế lực, như châu báu ở thế gian có thế lực lớn giúp con người vượt qua nghèo khó, còn có thể dùng để trị bệnh trúng độc. Tam Bảo cũng lại như thế, có đủ Tam minh Lục thông tùy cơ ứng biến dứt kiếp nghèo khổ, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi nên gọi là thế lực.

Bốn là nghĩa trang nghiêm, như châu báu ở thế gian làm đồ trang sức cho thân thể trở nên xinh đẹp, lộng lẫy, ai cũng muốn ngắm nhìn. Tam Bảo cũng lại như vậy, lấy nhân quả, nghiệp báo, nhân duyên làm nền tảng để giúp con người làm chủ bản thân, tâm trí trở nên sáng suốt, thanh tịnh, làm việc chân chính nên gọi là trang nghiêm.

Năm là nghĩa tối thắng, như châu báu ở thế gian quý hơn tất cả mọi vật nhưng xét cho cùng không quý bằng mạng sống con người. Tam Bảo cũng lại như vậy, là pháp thù thắng hơn hết có khả năng giúp đỡ mọi người vượt qua biển khổ sông mê, sống an vui, bình yên và hạnh phúc nên gọi là tối thắng.

Sáu là nghĩa bất biến (không thay đổi), như vàng ròng ở thế gian dù đập, nấu, mài, dũa vẫn không thay đổi bản chất. Tam Bảo cũng lại như vậy, người thân cận Tam Bảo tất được an vui, bình yên, hạnh phúc nhờ sống trở lại Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý nên không bị vô thường chi phối, nước không thể cuốn trôi, lửa không thể thiêu đốt, do đó gọi là bất biến.

Ý nghĩa 3 nén hương trong Phật giáo

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Quý Phật Tử có thể tìm hiểu thêm: Quy Y Tam Bảo – TT. Thích Chân Quang

Lịch Sử Hình Thành Xe Hoa, Kiệu Hoa Phật Đản

Hằng năm cứ mỗi độ xuân qua hạ về, ngàn muôn đóa bạch liên khoa sắc, vạn ức hồng liên tỏa hương thơm ngát là hàng trăm triệu người con Phật khắp mọi nơi trên thế giới hân hoan đón mừng một sự kiện vô cùng quan trọng trong Phật giáo, sự kiện đức Phật đản sanh kéo dài hàng tuần lễ gọi là tuần lễ Phật đản (từ mùng 08 đến 15 tháng tư âm lịch).

uần lễ Phật đản (từ mùng 08 đến 15 tháng tư âm lịch)
uần lễ Phật đản (từ mùng 08 đến 15 tháng tư âm lịch)

Vào những ngày này khắp mọi quốc gia Phật giáo trên thế giới: Từ cao nguyên thanh tạng nóc nhà thế giới ngàn năm tuyết phủ của Tây Tạng huyền bí, cho đến hải đảo phù tang rợp bóng anh đào của quốc gia Nhật Bản; từ đại lục Trung Hoa mênh mông cho đến quốc đảo sư tử giọt lệ đài trang của nước Tích Lan yên bình; từ đại ngàn đầy nắng gió của quốc gia Miến Điện cho đến đất kinh kì triệu voi nước Lào; từ đại lục xứ Ấn trầm hùng quê hương Phật giáo cho đến quốc gia duyên hải hình chữ S thân yêu nước Việt mến thương… trong các tự viện, chùa chiền, tịnh xá… đều long trọng tổ chức đại lễ Phật Đản cờ hoa muôn phương, phướng lọng rợp trời… cho đến nhiều nhà dân Phật tử cũng treo đèn kết hoa, biểu ngữ, trên các nẻo đường nhiều khi còn có cả xe hoa, kiệu hoa, thuyền hoa… tạo nguồn sinh khí an lành, mang nguồn an vui hạnh phúc đến cho nhân loại.

Sự hình thành xe hoa, kiệu hoa rước Phật trong ngày Phật đản

Nguồn gốc ý nghĩa về đại lễ Phật Đản phần lớn mọi người đều biết đến, nhưng ý nghĩa sự hình thành xe hoa, kiệu hoa rước Phật trong ngày Phật đản lại ít người được tri tường.

Ngược dòng thời gian xuôi về quá khứ với gần ba ngàn năm về trước, tại một vùng bình nguyên rộng lớn của dãy Hy mã lạp sơn có một quốc gia hùng cường thanh bình thịnh trị mang tên Ca-tỳ-la-vệ, dưới sự trị vì của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma-ya. Lịch sử Phật giáo ghi rằng: Vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-ya tuổi ngoài bốn mươi vẫn chưa có con nối dỗi…

Vua và hoàng hậu hằng ao ước, cầu nguyện, làm bao điều phước thiện hằng mong có một người con tiếp nối điện ngọc, ngai vàng… Một đêm nọ hoàng hậu Ma-ya nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà khai hông bên hữu đi vào trong bụng, chợt mình tỉnh giấc thấy người khoan khoái an lạc vô cùng biết mình có mang thánh thai. Các nhà tiên tri, đạo sĩ đều cho biết rằng Hoàng hậu sẽ sớm sanh một hoàng thái tử tài trí siêu việt, lớn lên sẽ trở thành một bậc đế vương cai trị cùng khắp bốn châu thiên hạ…

Gần đến ngày sanh hạ, theo phong tục bấy giờ, Hoàng hậu đã xin phép vua Tịnh Phạn và hoàng gia về lại quê hương mình đợi ngày sinh hạ. Trên đường về lại quê hương vua Thiện Giác (Vua cha của mình), giữa đường đến một hoa viên tú lệ tên Lâm-tỳ-ni, muôn hoa khoe sắc, muôn chim ca hót, hương thơm ngạt ngào… Hoàng hậu cho đoàn tùy tùng dừng bước thưởng ngoạn cảnh sắc tuyệt vời của hoa viên, lúc dạo chơi đến gốc cây tên gọi Vô-ưu, hoa thơm lạ thường, sắc đẹp huyền ảo, Hoàng hậu vừa đưa cánh tay phải lên hái đóa hoa Vô-ưu, ngay lúc ấy Thái tử Đản sanh, bước đi bảy bước, có bảy đóa hoa sen đỡ chân …

Thái tử đưa một tay lên chỉ trời, một tay chỉ xuống đất tuyên bố cùng nhân loại: Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn….  Có chín rồng phun nước, chư thiên trỗi nhạc tung hoa cúng dường Thái tử… Sau đó Thái tử nằm trong hoa sen như bao em bé bình thường… Hoàng hậu lập tức cho người báo về hoàng cung, vua Tịnh Phạn liền cho đoàn tùy tùng cùng với những kiệu hoa, xe hoa được kéo bởi đoàn voi ngựa trang nghiêm trọng thể rời hoàng cung đi rước Thái tử và Hoàng hậu từ Hoa viên Lâm-tỳ-ni trở về hoàng cung Ca-tỳ-la-vệ.

Sự kiện này là một sự kiện lịch sử trọng đại đã trở thành hình tượng và ý nghĩa để hàng triệu người con Phật thời sau khắp nơi trên thế giới trang hoàng xe hoađể tái hiện lại hình, kiệu hoa  ảnh thiêng liêng: Lễ Rước Phật Đản Sanh. 

Lịch sử lễ rước Phật Đản Sanh bằng xe hoa, kiệu hoa có nguồn gốc từ Ấn Độ xa xưa. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, những người con Phật xuất gia và tại gia muốn tái hiện lại hình ảnh rước Phật Đản Sanh từ vườn Lâm-tỳ-ni về thành Ca-tỳ-la-vệ; đặc biệt dưới sự phát tâm hộ pháp của những vị vua Phật tử thuần thành, lễ rước Phật được diễn ra vô cùng trang nghiêm và trọng thể.

Vua A Dục Vương (273-233 BC), sau khi quy ngưỡng về Phật pháp, đã trở thành Hộ Pháp A Dục ủng hộ Phật pháp tuyệt vời, hằng năm không những nhà Vua tổ chức lễ Rước Phật long trọng trang nghiêm, còn ra Chiếu chỉ khắc vào bia đá nhắc nhở thần dân phải tổ chức lễ Rước Phật… Chỉ dụ số 4 của vua A Dục được các nhà Khảo cổ học phát hiện tại Kandaha ghi rằng: “Vào ngày lễ Đản Sanh mỗi năm phải tổ chức trọng thể thiết lập lễ Rước Phật.”

Ngài Pháp Hiển (319-414) người Trung Hoa, gần 16 năm Tây du Ấn Độ đã kể lại lễ Rước Phật tại nước Vu Điền (Khotan, một quốc gia thuộc Ấn Độ cổ) trong tác phẩm Phật Quốc Kí của mình như sau: “Lễ rước Phật từ mùng 01 đến hết tháng tư, lễ rước rất long trọng, xe kiệu nâng Phật cao hơn ba trượng, trang hoàng lộng lẫy…” Ngài Huyền Trang (596-664), gần 17 năm tu học nghiên cứu tại Ấn Độ cũng kể lại lễ Rước Phật tại Ấn Độ xưa trong tác phẩm Đại Đường Tây Vực Kí: “Tại nước Dao Tần (Kucha) lễ Rước Phật được tổ chức cực kì hoành tráng có đến 100 xe hoa nghinh Phật sơ sinh diễu hành trên khắp phố để toàn thể dân chúng được chiêm ngưỡng và lễ bái Phật.”

Lễ rước Phật nhân ngày Phật Đản tại các nước trên thế giới

Tại Trung Quốc và một số quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Nhật Bản…. lễ rước Phật được gọi là lễ Hành Tượng, có nghĩa là dùng các loại xe kiệu trang hoàng lộng lẫy bằng bảy báu, hoa hương, cờ phướng, lồng đèn… chở tượng Phật đi xung quanh khắp phố phường, cung thành… vào dịp lễ Phật Đản. Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm: Thời Đông Tấn (318-420) đã đúc năm tượng Phật Sơ Sinh để rước trong lễ rước Phật. Thời Nam Bắc Triều, Thái Võ Đế nhà Ngụy (408-452) đã có chiếu chỉ thiết lễ rước kiệu Phật, chính vua và hoàng hậu rải hoa cúng dường đoàn xe kiệu rước Phật Sơ Sinh.

Theo sách Phật Tổ Thống Kí, Hiếu Võ Đế nhà Tây Ngụy (467-499) hạ chỉ: “Vào ngày Đản Sanh, các ngôi chùa lớn ở tại Lạc Dương phải trần thiết xe kiệu rước Phật vào cung đình; đồng thời chiếu chỉ quy định mỗi năm phải thiết lễ Phật Đản long trọng như thế, không khí lễ Phật thật hùng vĩ và tưng bừng.” Đặc biệt thời nhà Đường (618-907), thời đại hoàng kim của Trung Hoa, quốc gia hùng cường Phật giáo rất Phát triển, lễ rước Phật được diễn ra càng trọng thể to lớn và linh đình hơn…

Tại xứ sở hoa Anh đào, quốc gia Nhật Bản, từ thời Thánh Đức (574-622), lễ Phật Đản đã được phát triển và thịnh hành, ngoài việc trần thiết xe hoa, kiệu hoa rước Phật đản sanh, các ngôi chùa còn tổ chức phát chẩn, tế bần… đặc biệt là việc phát tâm kết hoa cúng Phật… Ngày nay, ngày Đản sanh đã trở thành ngày cắm hoa, còn gọi là lễ Hội hoa tại quốc gia này.

Tại các nước Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia… ngày lễ Phật Đản, lễ Rước Phật còn tổ chức trọng thể hơn; vì các quốc gia này, ngày Đản sanh còn được kết hợp với ngày lễ đức Phật thành đạo và Niết bàn còn gọi là lễ Tam Hợp, lễ Vesak. Ngày Lễ này đã được cả nhân loại tôn vinh là ngày lễ vô cùng thiêng liêng, lễ Hòa bình, lễ quốc tế Vesak Liên hợp Quốc… và được gần như các nước trên thế giới vinh danh tổ chức tại các trụ sở Liên Hợp Quốc của quốc gia mình từ năm 2000 đến nay.

Tìm Hiểu Lịch Sử Hình Thành Xe Hoa, Kiệu Hoa Phật Đản
Tìm Hiểu Lịch Sử Hình Thành Xe Hoa, Kiệu Hoa Phật Đản

Chính vì thế, ngày nay vào tuần lễ Phật Đản sanh (khoảng từ mùng tám đến 15 tháng tư âm lịch), tại các nước như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào… lễ Rước Phật được tổ chức trang nghiêm và hoành tráng, từng đoàn người kéo dài hàng vài km với kiệu hoa, xe hoa chở tượng Phật được kéo bởi những thớt voi, trang hoàng lộng lẫy, hương hoa, cờ hoa, phướng lọng, trống chiêng vang vọng khắp phố phường…

Lễ rước Phật nhân ngày Phật Đản tại Việt Nam từ xưa tới nay

Tại Việt Nam, lễ rước Phật cũng có lịch sử gần hai ngàn năm; Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỉ thứ nhất, và còn lưu dấu lại những ngôi chùa cổ kính thăng trầm cùng dân tộc như cùa Dâu, chùa Keo… Sách Ngô Chí có đoạn chép: “…Ở Giao Châu, khi ra đường người ta thường nghe tiếng kiểng, lẫn tiếng trống kèn những người rợ Hồ (chỉ các vị Tăng và Phật tử người Ấn) đi theo thắp hương hai bên có từng đoàn xe có mười người…” Đến triều đại nhà Lý (1009-1225) và nhà Trần (1225-1400), hai triều đại thịnh trị quốc gia thái bình phát triển, Phật giáo đã trở thành Quốc giáo, Phật giáo phát triển hy hoàng các nghi thức Phật Đản, rước Phật cũng đã được tổ chức trang nghiêm trọng thể.

Đại Việt Sử Kí Toàn Thư III, tờ 15A, tr.37: “Vua Lý Nhân Tông sau khi cho xây dựng trùng tu chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), hàng tháng cứ đến ngày Rằm, mùng một và mùng tám tháng tư Phật Đản, xa giá ngự đến đặt lễ Cầu an và nghi thức tắm Phật hàng năm làm lệ thường. Ngoài ra thời bấy giờ có tục nghinh rước Phật Pháp Vân, Pháp Vũ rất linh đình…” Đại Việt Sử Kí Toàn Thư IV, tờ 20B, tr.92 chép: “Đích thân vua Lý Cao Tông đến chùa Pháp Vân nghinh rước Phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên để làm lễ cầu mưa, tục này còn duy trì đến thời Hậu Lê.” 

Sách Thơ Văn Lý Trần dịch văn bia Tháp Sùng Thiện Diên Linh đã miêu tả rất chi tiết không khí lễ hội: “Nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an, bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng; tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa…. Sai phụng thường chỉnh đốn kiệu xe, khiến phong bá quét sạch bụi bặm. Khói trầm đàn như mây toả khắp sơn khê, bóng cờ phướng như ráng phô đầy các ngả. Chuông trống vang ầm, khánh tiêu rộn rã. Phía trước xe mây Tam bảo, đằng sau kiệu báu thánh hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung, về hết trẻ già muôn nước. Điện hoa vắt ngang phía trước, chùa Phật mở rộng bên trong. Hội Tăng Ni trai khiết, diễn Giác Đế chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang, đọc kệ đoạn cúi đầu tạ lễ. Cung nga khép nép, nghe kinh xong dâng sữa múa ca…”        

Theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo luôn thăng trầm đồng hành cùng dân tộc; từ thuở các vị vua Hùng dựng nước và giữ nước đã có hình ảnh của ông Bụt (Buddha – Phật) truyền dạy tâm ấn giúp Tiên Dung và Chữ Đồng Tử vượt qua những khó khăn thử thách giữa cuộc đời, lập nghiệp giúp dân… cho đến thời Việt Nam thể hiện chủ quyền dân tộc gần như các vị vua anh minh là những Phật tử anh dũng kiên cường tỏa rạng vinh quang dòng giống con Hồng cháu Lạc: Từ Lý Nam Đế (503-548, Vị vua lập nên nhà Tiền Lý, với khai quốc Vạn Xuân) cho đến Ngô Quyền (898-944, vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam, với chiến thắng  Bạch Đằng nổi tiếng, kết thúc gần một thiên niên kỷ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam). Từ Đinh Bộ Lĩnh (968-979, dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc, với Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập), đến Lý Công Uẩn (974-1028) khai sinh nhà Lý dời Đô từ Hoa Lư về Thăng Long, mở ra một thời đại vàng son thái bình thịnh trị của dân tộc Việt. Từ Trần Thái Tông, Phật Hoàng Trần Nhân Tông… khai sinh một nền quốc giáo, Phật giáo với danh lam Yên Tử thiêng liêng… một triều đại huy hoàng uy danh của Đại Việt ba lần đại thắng Mông Nguyên… đến các đời chúa Nguyễn tiếp nối chí nguyện Phật hoàng Trần Nhân Tông (mở đất: Châu Ô, Châu Rí – mở mang đất Việt – phụng thờ Phật pháp), với Nguyễn Hoàng được mệnh danh là Chúa Tiên, với Nguyễn Phúc Nguyên mệnh danh là Chúa Sãi, Nguyễn Phúc Lan mỹ danh là chúa Hiền, Nguyễn Phúc Tần danh xưng chúa Nghĩa, Nguyễn Phúc Chu – vị vua Phật tử mỹ hiệu là Chúa Phật….. tất cả đều là những người con anh dũng và uy danh của dân tộc Việt, là đệ tử của đức Phật, cho nên họ phát tâm làm phúc thiện, hộ trì chánh pháp cũng như cung kính, long trọng tổ chức các đại Lễ Phật giáo như Phật Đản, Vu Lan… cầu nguyện quốc gia thái bình nhân dân an lạc đúng theo truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.

Xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Phật Giáo như gắn chặt, có mặt hầu hết trên các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, triết học, nghệ thuật, âm nhạc, đạo đức, v.v… đâu đâu cũng lưu lại hình ảnh của Phật Giáo. Đến khi Chúa Nguyễn Hoàng phát nguyện vào Nam khai hoang mở cõi kiến lập chùa Thiên Mụ…. một dãi trời Nam lại hiện bóng từ bi, Phật Giáo lại cùng với dân tộc vào miền đất mới, trong quá trình mở cõi tạo tác sơn hà, Phật Giáo lại chứng minh truyền thống đồng hành cùng dân tộc của mình, và chính nơi miền đất mới, dãi đất miền Trung mến yêu đã hình thành hai trung tâm Phật Giáo mới của Phật Giáo Việt Nam đó là: Trung tâm Phật Giáo thần kinh Thuận Hóa và Phật giáo Bình Định đất võ uy linh.

Việt Nam trong những thập niên trở lại đây, lễ Rước Phật tại đất thần kinh xứ Huế được xem là trang nghiêm ý nghĩa và long trọng nhất. Hình ảnh bảy đóa hồng liên nở rạng tỏa sáng trên dòng hương giang núi ngự, bên chùa Thiên Mụ cổ kính trầm hùng có thể được xem là biểu tượng thiêng liêng cho dân tộc Việt.

Hình ảnh của từng đoàn xe hoa, kiệu hoa rước Phật
Hình ảnh của từng đoàn xe hoa, kiệu hoa rước Phật

Hình ảnh của từng đoàn xe hoa, kiệu hoa rước Phật, cờ phướng rợp trời, có cả ngàn vạn chư Tăng cùng Phật tử thành kính trang nghiêm đưa rước từ chùa Diệu Đế đi khắp phố phường sông Hương qua Tràng Tiền, Đông Ba… về chùa Từ Đàm kéo dài hàng vài cây số quả thật là thiêng liêng và trọng thể biết dường nào. Ngày nay, với sự quan tâm của Chính phủ, của hầu hết người dân Việt, Phật giáo đã thật sự hưng thịnh, lễ rước Phật xe hoa, kiệu hoa… được tổ chức long trọng trang nghiêm cả ba miền Nam Trung Bắc.

Đặc biệt năm nay, PL. 2563 – DL. 2019, Đại lễ Phật Đản Vesak Liên Hợp Quốc lại được long trọng tổ chức ngay trên quê hương Việt Nam, có hơn 100 quốc gia trên thế giới về tham dự, hàng trăm triệu người con Phật trên khắp thế giới đang hân hoan đón mừng ngày Đản Sanh của đức Từ Phụ, và chắc chắn hình ảnh ý nghĩa của lễ Rước Phật bằng xe hoa, kiệu hoa sẽ có mặt khắp mọi tỉnh thành, phố phường trên cả nước.

Trong đó xe hoa, kiệu hoa đặc biệt long trọng và hoành tráng nhất chắc chắn sẽ là trung tâm văn hóa Phật giáo chùa Tam Chúc, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam.

Mùa Phật Đản Vesak LHQ, PL. 2363 – DL. 2019

TK. Thích Quảng Phước, cẩn soạn

Đức Phật nói về nguyên nhân thất bại ở đời

Đức Phật Nói

Có vị Thiên nhân nghĩ đến nỗi khổ của thế gian nên đến thỉnh vấn Đức Thế Tôn về nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của con người sống ở trên đời.

Đức Phật nói về nguyên nhân thất bại ở đời
Đức Phật nói về nguyên nhân thất bại ở đời

Với lòng thương tưởng chúng sinh, Phật(1) lần lượt đưa ra những lời giải đáp, nêu rõ các nguyên nhân khiến con người rơi vào cửa bại vong. Bao giờ cũng thế, lời Phật giản dị nhưng rất thực tế và bổ ích, rất đáng cho chúng ta suy nghĩ và học tập:

Vị Thiên nhân

Về bại vong con người,

Con hỏi Gotama!

Con đến hỏi Thế Tôn,

Cửa vào của bại vong?

Đức Thế Tôn

Thật dễ hiểu thành công, 

Thật dễ hiểu bại vong,

Ưa mến pháp, thành công,

Thù ghét pháp, bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ nhất về bại vong,

Thứ hai, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Ai mến kẻ bất thiện,

Không ái luyến bậc thiện,

Thích pháp kẻ bất thiện,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ hai về bại vong,

Thứ ba, mong Ngài nói, 

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Ngưới tánh ưa thích ngủ,

Thích hội chúng, thụ động,

Biếng nhác, thường phẫn nộ,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy chúng con rõ,

Thứ ba về bại vong,

Thứ tư, mong Ngài nói,

Cửa vào cửa bại vong?

Thế Tôn

Ai với mẹ hay cha,

Già yếu, tuổi trẻ hết,

Tuy giàu không giúp đỡ,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ tư về bại vong,

Thứ năm, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Ai nói dối lường gạt,

Sa-môn, Bà-la-môn, 

Hay các khất sĩ khác,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vây, chúng con rõ,

Thứ năm về bại vong,

Thứ sáu, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Người giàu có tài sản,

Có vàng bạc thực vật,

Hưởng  vị ngọt một mình,

Chính cửa vào bại vong?

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ sáu về bại vong,

Thứ bảy, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong. 

Thế Tôn

Người tự hào về sanh,

Về tài sản giòng họ,

Khinh miệt các bà con,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ bảy về bại vong,

Thứ tám, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Người đắm say nữ nhân,

Đắm sau rượu, cờ bạc,

Hoang phí mọi lợi sắc,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ tám về bại vong,

Thứ chín, mong ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Không vừa đủ vợ mình,

Được thấy giữa dâm nữ,

Được thấy với vợ người,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ chín về bại vong,

Thứ mười, xin Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Người trẻ tuổi đã qua,

Cưới cô vợ vú tròn,

Ghen nàng không ngủ được,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ mười về bại vong,

Thứ mười một, xin nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Đàn bà, hay đàn ông,

Rượu chè, tiêu hoang phí,

Được địa vị quyền thế,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy chúng con biết,

Thứ mười một bại vong,

Thứ mười hai, xin nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Tài sản  ít, ái lớn,

Sanh gia đình hoàng tộc,

Ở đây muốn trị vì,

Chính cửa vào bại vong.

Bại vong này ở đời,

Bậc trí khéo quán sát,

Đầy đủ với chánh kiến,

Sống hạnh phúc ở đời.

Lời Phật dạy – Những lời vàng ngọc của Đức Phật

Lời Phật dạy – Những lời vàng ngọc của Đức Phật truyền dạy, chúng ta hãy cùng chiêm nghiệm để giác ngộ cuộc sống và hành xử có văn hóa.

Luận Đại Trí Độ: “Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được.”
Luận Đại Trí Độ: “Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được.”

Lời Phật dạy

[ssredlist]
  • Kinh Đại Thừa Nghĩa: “Quay về nương dựa nên gọi là quy y. Hành tướng quy y như con theo cha mẹ, nương dựa phục tùng; như dân nương nhờ vua, như người yếu nương nhờ kẻ mạnh. Nương Phật như thầy, nên gọi là quy y Phật. Nhờ pháp như thuốc, nên gọi là quy y Pháp. Nương Tăng là bạn, nên gọi là quy y Tăng.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Như người có tay, vào trong núi báu, tự do lấy ngọc; người có lòng tin cũng vậy, vào trong Phật pháp, tự do lấy của báu vô lậu.”
  • Kinh Tâm Địa Quán: “Như người không tay tuy đến núi báu, không lấy được gì. Người không lòng tin, dầu gặp Tam bảo cũng không ích gì.”
  • Luận Đại Trí Độ: “Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được.”
  • Kinh Tiểu Địa Quán: “Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền.”
  • Kinh Trung A Hàm: “Ví như nhà vua, tạo lâu đài nơi bên thành, xây đắp chắc chắn, khiến không thể hư nát; bề trong quốc gia yên ổn, bề ngoài ngự phòng oán địch. Phật tử cũng vậy, phải kiên cố lòng tin tưởng đức Như Lai, khi lòng tin đã vững vàng thì quyết không theo những kẻ sa môn ngoại đạo phạm chí ác ma và ác thế gian. Ấy là đã xây dựng được lòng tin như lâu đài bền chắc. Là Phật tử phải bỏ điều ác, điều xấu mà tu các pháp lành.
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh mờ ám, người hiểu giáo lý mà không lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải cùng đủ mới làm cội gốc tu hành.”
[/ssredlist]
Kinh Tiểu Địa Quán: "Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền.”
Kinh Tiểu Địa Quán: “Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền.”
[ssredlist]
  • Kinh Lăng Nghiêm: “Tin chơn lý thường trú gọi là lòng tin.”
  • Kinh Tăng Nhứt A Hàm (văn Ba lị): “Vì muốn đến niết bàn, nên tin Phật pháp, cần phải nghe mới được trí huệ, chẳng phải buông lung mà thông suốt; được như vậy thì lo gì đời nầy không vào được cảnh giới cao tột.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Lòng tin làm nhơn cho nghe pháp, nghe pháp làm nhơn cho lòng tin.”
  • Kinh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội: “Đến bạn lành, được nghe pháp mầu nhiệm là được pháp các bậc thánh tôn yêu quí. Đức Như Lai trí tuệ hơn hết, trùm khắp hư không, nói ra giáo pháp, duy có Phật mới có thể hiểu thấu được. Vậy nên các ngươi cần phải nghe nhiều hiểu rộng chánh pháp, mới tin nổi lý chơn thiệt chánh pháp của Ta. Được làm thân người trong cõi người rất khó, mà được gặp giáo pháp Như Lai lại càng khó hơn. Vậy nên nghe được giáo pháp phải tinh tấn tu trì.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nhơn duyên được nghe chánh pháp, là gần gũi bạn lành; nhơn duyên gần gũi bạn lành đó là lòng tin vậy. Phát được lòng tin có hai nhơn duyên là: nghe pháp và suy nghĩ nghĩa lý của pháp.”
  • Luận Khởi Tín: “Nói lòng tin có 4 món: một là lòng tin cội gốc, nghĩa là ưa nghĩ pháp chơn như; hai là tin đức Phật có vô lượng công đức, thường nhớ gần gũi, cúng dường, cung kính phát khởi căn lành để cầu xin nhất thế trí; ba là tin Pháp có nhiều lợi ích, thường nhớ tu hành cho rốt ráo; bốn là tin Tăng hay tu hành hạnh lợi mình và người, thường ưa gần gũi các vị Bồ tát cầu học hạnh như thật.”
  • Kinh Niết Bàn: “Lòng tin lại có 2 món: một là từ nghe mà sanh, hai là từ nghĩ mà sanh. Những người từ nghe sanh mà chẳng từ nghĩ sanh, thì gọi là lòng tin chẳng đầy đủ. Còn có 2 món nữa: một là tin có Đạo, hai là tin có chứng Đạo. Lòng tin người nào chỉ tin có Đạo mà chẳng tin có các người chứng Đạo, ấy gọi là lòng tin chẳng đầy đủ.”
  • Kinh Vô Lượng Thọ: “Nếu có chúng sanh rõ tin Phật trí cho đến thắng trí, rồi tu các công đức để hồi hướng lòng tin. Những chúng sanh này ở trong hoa bảy báu, tự nhiên hóa sanh: xếp bằng mà ngồi trong chừng giây lát, thân thể sáng rực, trí tuệ công đức như các Bồ tát đầy đủ trọn vẹn.”
  • Kinh Đại Bảo Tích: “Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin.”
  • Kinh Xuất Sanh Bồ Đề Tâm: “Nếu cầu Bồ đề để làm lợi ích chúng sanh, ấy là những kẻ vì chúng sanh hơn hết vậy; hạng nầy còn không thể so sánh huống là bậc trên nữa. Vậy nên đã được nghe các pháp này, kẻ trí thường sanh tâm vui pháp sẽ được đại phước không lường và mau được chứng đạo vô thượng.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Hoặc có người nói: Quả vô thượng chánh đẳng chánh giác, do lòng tin làm nhơn. Thật ra chánh nhơn của bồ đề (tức chánh đẳng giác) tuy còn nhiều vô lượng, nhưng nếu nói lòng tin, tức đã bao quát hết rồi vậy.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Bồ đề Tâm là con đường lớn, vì có thể đưa người được vào cõi Nhất thế trí. Bồ đề Tâm là con mắt sáng, vì có thể xem thấy hết thảy đường chánh nẻo tà. Bồ đề Tâm là mặt trăng sáng, vì soi rõ các tịnh pháp đều viên mãn. Bồ đề Tâm là nước sạch, vì rửa sạch tất cả dơ bẩn phiền não. Bồ đề Tâm là ruộng tốt, vì nuôi dưỡng chúng sanh trong sạch.Bồ đề Tâm là hạt giống tất cả đức Phật, vì có thể sanh tất cả pháp các đức Phật.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: ” Đại tín tâm tức là Phật tánh, Phật tánh tức là Như Lai.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Trăng Bồ đề trong mát, soi rốt ráo hư không, chúng sanh tâm nước sạch, bóng Bồ đề hiện ngay.”
[/ssredlist]
Kinh Đại Bảo Tích: “Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin.”
Kinh Đại Bảo Tích: “Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin.”
[ssredlist]
  • Kinh Tăng Nhứt A Hàm (Văn Ba-lị): Đức Phật biết mở giây sanh tử cho tất cả chúng sanh: Ngài đích thân đối với thần nhơn, chỉ rõ pháp hiểu biết, khiến họ thấy hoặc nghe, đều được an tâm. Đức Phật thật là bậc Đạo nhơn, là Thiện nhơn, là Quyết định nhơn, là Vô lậu nhơn, vì Ngài thấu suốt thân mệnh, chính là bậc Đại nhơn trí tuệ cao cả vậy.
  • (Cũng kinh này) Tỳ kheo nương Phật pháp mà sanh lòng tin: tin Đức Như Lai là: Thế Tôn, đẳng Chánh giác, Minh hạnh Túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng Phu, Thiên nhơn sư. Ngài chứng quả an lành không bệnh; tu nhẫn nại và tinh tấn mức trung đạo, chứng quả chẳng hư ngụy, chẳng mê hoặc. Đúng như thật đối trước các bậc sư chủ: Chỉ rõ đạo nghĩa, an trụ tinh tấn, bỏ pháp bất thiện, phát khởi thiện pháp, nương thiện pháp mà quyết định gắng gỗ bền chắc. Thế mới thành tựu bậc trí huệ chứng Vô thượng trí vậy.
  • Kinh Tiểu A Hàm: “(Văn Ba lị) Ta, tuy trong một nháy mắt, cũng chẳng rời trí lực sâu sắc của Phật Đà mà tỏ rõ nói pháp; nói pháp không ái và không phiền não của Phật Đà; với kẻ khác không còn so sánh. Ta chẳng phân biệt ngày, đêm, lấy con mắt tâm xem thấy hết. Ta tự tin rằng thoạt qua là hết đêm, cho nên trong giây lát chẳng bỏ rời. Ta tin và thích, tâm và niệm, khiến ta quy y Phật giáo vậy. Những người trí huệ cao cả như thế chẳng luận là nơi chỗ nào ta cũng vẫn đến quy y. Dầu cho thân ta già, sức ta yếu, không thể đi đến chỗ ấy được, nhưng tâm ta quyết định thường đi đến chỗ ấy. Thế thì tâm ta và tâm kẻ ấy phù hợp vậy.”
  • Kinh Pháp Hoa: “Hết lòng muốn thấy Phật, chẳng tiếc gì thân mạng, khi Ta và chúng Tăng, đồng đến núi Linh Thứu.”
  • Kinh Đại Bửu Tích: “Phật dạy: Nếu có Bồ Tát đem vui thắng ý, đến chỗ Ta phát khởi ý nghĩ như gặp cha, người kia sẽ được vào trong hàng ngũ Như Lai, như Ta không khác gì.”
  • Kinh Trung A Hàm: “(Văn Ba lị) Thưa Thế Tôn: Nếu pháp này chỉ có Thế Tôn thành tựu, mà Tỳ kheo chẳng đặng thành tựu, hay Tỳ kheo đặng thành tựu mà Tỳ kheo ni chẳng đặng thành tựu; hoặc Tỳ kheo ni đặng thành tựu mà các người tại gia Ưu bà tắc, Ưu bà di và các người còn dục lạc chẳng đặng thành tựu, thời pháp ấy chẳng được hoàn toàn. Nhưng pháp này đức Thế Tôn được thành tựu, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đều được thành tựu. Hơn nữa, những người tại gia nam nữ và các kẻ còn dục lạc thảy đều được thành tựu, cho nên ta tin pháp này là hoàn toàn.”
[/ssredlist]
Kinh Hoa Nghiêm: "Nếu có chúng sanh nào, chưa phát tâm Bồ đề, một khi nghe tên Phật, quyết định thành Bồ đề.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu có chúng sanh nào, chưa phát tâm Bồ đề, một khi nghe tên Phật, quyết định thành Bồ đề.”
[ssredlist]
  • Kinh Tạp A Hàm: “(Văn Ba lị) Vì muốn đến Niết Bàn, tin, vâng các Thánh pháp, nghe, cầu được trí huệ, tinh tấn hay thông suốt.”
  • Kinh Phạm Võng: “Đứng đầu tất cả hạnh là đức tin, vì cội gốc các đức vậy.”
  • Kinh Đại Trang Nghiêm: “Tất cả các công đức, đức tin là sứ mạng; trong các của báu, của đức tin đứng đầu.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Tin là nguồn Đạo, mẹ công đức, nuôi lớn tất cả các pháp lành, dứt trừ lưới nghi, thoát dòng ái, mở chỉ Niết Bàn, đạo Vô thượng; tin lòng trong sạch không dơ bẩn, dứt trừ kiêu mạn gốc cung kính, là của thứ nhất trong kho Pháp, là tay trong sạch lãnh các hạnh; tin hay huệ thí tâm không tham; tin hay vui mừng vào Phật pháp; tin hay thêm lớn trí công đức; tin hay quyết đến cõi Như Lai; tin khiến các căn lành sáng suốt; tin sức bền chắc không thể hư; tin hay dứt hẳn gốc phiền não; tin hay hướng về Phật công đức; tin đối cảnh giới không tham lam, xa lìa các nạn, được không nạn; tin hay vượt khỏi các đường ma, thị hiện đạo Vô thượng giải thoát; tin chẳng phá hư giống công đức; tin hay nuôi lớn cây Bồ đề; tin hay thêm ích trí tối thượng; tin hay thị hiện tất cả Phật.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu có chúng sanh nào, chưa phát tâm Bồ đề, một khi nghe tên Phật, quyết định thành Bồ đề.”
  • Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa: “Nếu người trồng căn lành, nghi thời hoa chẳng nở; lòng tin được trong sạch, hoa nở liền thấy Phật.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Bồ tát đối sanh tử, khi đầu tiên phát tâm, một bề cầu Giác đạo, bền chắc chẳng khá lay. Kia một niệm công đức, sâu rộng không ngằn mé, Như Lai phân biệt nói, trọn kiếp không thể hết.
  • Tất cả tâm chúng sanh đều phân biệt hết, tất cả cõi vi trần hãy còn tính được số; mười phương cõi hư không, mảy lông cũng lường được, Bồ Tát sơ phát tâm, rốt ráo chẳng lường được.
  • Kinh Xuất Sanh Bồ Đề Tâm: “Như đấng Đại Phước rất cao kia, chẳng bằng phần mười sáu Đạo tâm; nếu muốn cầu phước như Tu Di, như cát sông Hằng ở cõi Phật, thảy đều tạo chúa, xây các tháp chẳng bằng Đạo tâm mười sáu phần.”
  • Kinh Đại Bảo Tích: “Công đức Bồ Đề tâm, nếu có chất hẳn hỏi, khắp cả cõi hư không, không thể dung chứa hết.”
[/ssredlist]
Kinh Hoa Nghiêm: "Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới.”
[ssredlist]
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới.”
  • Kinh Vô Lượng Thọ: “Đức Phật bảo Ngài Di Lặc rằng: Nghe danh hiệu Đức Phật kia, vui mừng nhảy nhót, cho đến một niệm. Phải biết người ấy ắt được lợi lớn. Ấy là đủ công đức cao tột.”
  • Đức Phật dạy: Nghe pháp hay chẳng quên, thấy kinh được rất mừng, ấy bạn lành ta vậy.
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Ví như vàng Diêm phù đàn, chỉ thua ngọc Như ý, hơn tất cả các ngọc. Bồ Đề tâm như vàng Diêm phù đàn, cũng như vậy, chỉ thua Nhất thế trí, hơn tất cả các công đức.”
  • Ví như chim Ca lăng tần già, khi còn nằm trong trứng, đã có thế lực mạnh, các loài chim chẳng bằng. Vị Đại Bồ tát cũng như vậy. Còn ở trứng sanh tử, đã phát tâm bồ đề, công đức rất thế lực, hàng Thanh văn Duyên giác làm gì so sánh kịp.
  • Ví như hoa cây Ba Lợi Chất Đa, xông áo một ngày, hoa Chiêm Bồ, hoa Bà Sư, tuy xông ngàn năm, chẳng hay sánh nổi. Hoa Bồ đề tâm cũng lại như vậy, đem công đức xông một ngày, mùi thơm thấu mười phương cõi Phật, hàng Thanh văn Duyên giác, dùng trí vô lậu xông các công đức đến trăm ngàn kiếp cũng chẳng làm sao kịp được.
  • Nghe Pháp khởi lòng tin, vui mừng không nghi ngại, chóng thành Đạo vô thượng; ngang hàng các Như Lai. Tâm trong sạch như đồ đựng nước, hình bóng thường hiển hiện. Nhưng tâm chúng sanh nhơ bẩn như đồ bị nứt, thì chẳng thấy hình bóng Như Lai Pháp Thân. Nếu hay tin, biết trừ kiêu mạn, phát tâm liền được thấy Như Lai, nếu còn dua vậy tâm chẳng sạch, ức kiếp tìm cầu khó gặp thay.
  • Kinh Vô Lượng Thọ: “Kiêu mạn, si tệ, biếng nhác, khó tin nổi pháp này, nhờ đời trước thấy Phật, như vậy ưa nghe Pháp.”
[/ssredlist]

Phật Dược Sư Như Lai là ai?

Phật Dược Sư Như Lai là ai?

Phật Dược Sư(1) Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não vè thân và tâm của chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ đau. Vì Dược Sư Như Lai có bổn nguyện thanh tịnh như vậy nên ánh sáng trong suốt hoàn toàn thanh tịnh như lưu ly vô ngại hiển hiện trên thân của Ngài.

Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử. Vì chúng sinh vô lượng vô biên nên chư Phật cũng thị hiện vô số, tùy theo nghiệp lực, căn tánh của chúng sinh mà các Ngài kiến tạo quốc độ và lập đại nguyện để giáo hóa, đưa chúng sinh thoát khỏi phiền não khổ đau, có đời sống an lạc tự tại. Đức Phật Dược Sư là 1 trong vô số chư Phật có quốc độ và hạnh nguyện riêng của mình.

Dược Sư Như Lai tiếng Phạm gọi là: Bhaisajya-guru Vaidurya-prabharajyah, gọi đủ là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, người ta thường gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, gọi tắt là Dược Sư Phật. Theo Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Kinh chép: “về phương Đông cách thế giới Ta Bà khoảng 10 hằng hà sa Phật độ có cõi Phật tên là Tịnh Lưu Ly, tên của Đức Phật đó là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”.

Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử.
Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử.

Vì sao có tên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai?

Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, nhờ trong khi tu hành Bồ tát đạo phát 12 đại nguyện giải trừ hết thảy bệnh khổ cho chúng sinh, khiến họ đầy đủ căn lành và hướng về giải thoát nên khi thành Phật, Ngài trụ ở thế giới Tịnh lưu ly, trang nghiêm như thế giới Cực lạc, cùng với 2 vị Đại Bồ tát là Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu làm quyến thuộc để giáo hóa chúng sinh.

Bổn nguyện của Dược Sư Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não vè thân và tâm của chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ đau. Vì Dược Sư Như Lai có bổn nguyện thanh tịnh như vậy nên ánh sáng trong suốt hoàn toàn thanh tịnh (Lưu Ly Quang) như lưu ly vô ngại hiển hiện trên thân của Ngài, và quốc độ của Ngài cũng như vậy nên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang.

Cũng như các Đức Phật trong mười phương, Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.

Phật Dược Sư Như Lai là ai? Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là ai?
Phật Dược Sư Như Lai là ai? Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là ai?

12 đại nguyện của Đức Dược Sư Như Lai

Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.
Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.
  1. Nguyện khi Ta thành đạo Bồ-đề, thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, hào quang sáng khắp vô lượng thế giới, khiến các chúng sinh cũng được như Ta.
  2. Nguyện khi Ta thành Phật, trong ngoài sáng chói hơn ánh sáng mặt trời, tự tại làm Phật, khiến các chúng sinh ở chỗ tối tăm đều nhờ ơn khai thị.
  3. Nguyện khi Ta thành Phật, đầy đủ vô lượng phương tiện trí tuệ, làm cho chúng sinh đầy đủ các món thọ dụng nơi thân tâm.
  4. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu các chúng sinh tu theo tà đạo đều xoay về chánh đạo, hàng Nhị thừa thì đều hướng về Nhất thừa.
  5. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh theo giáp pháp của Ta mà tu hành, thì đều được hoàn hảo, dù có phạm giới mà nghe đến tên Ta thì cũng trở thành thanh tịnh giới khỏi phải sa vào ác đạo.
  6. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh nào có thân thể hèn yếu hay xấu sa, đui điếc hay câm ngọng, một phen nghe tên Ta, niệm tên Ta thì được khỏi bệnh, lại được tốt đẹp khôn ngoan
  7. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh không bà con thân thuộc, nghèo thiếu ốm đau, không ai giúp đỡ, mà nghe được tên Ta thì thân tâm yên lành quyến thuộc giúp đỡ cho, đến chứng đạo Bồ-đề.
  8. Nguyện khi Ta thành Phật, các nữ nhân thường bị khinh dể thấp kém, nếu nghe được tên Ta thì bỏ thân nữ nhân, thành tướng trượng phu cho đến chứng quả.
  9. Nguyện khi Ta thành Phật, thì các chúng sinh thoát vòng ma đạo ác kiến, về nơi chánh đạo, tu Bồ-tát hạnh mau chứng đạo Bồ-đề.
  10. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh bị pháp vua trừng trị, trói buộc đánh đập, giam vào ngục tối, cắt xẻ v.v. mà nghe tên Ta thì đều thoát khỏi.
  11. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh bị đói khát, cầu ăn mà tạo nghiệp dữ, nếu nghe tên Ta, chuyên niệm thọ trì, thì Ta trước hết cấp cho món ăn được no đủ, sau nói pháp khiến họ tu hành được hoàn toàn an vui.
  12. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh nghèo không có áo mặc, muỗi mòng chích đốt, nóng lạnh, ngày đêm khổ sở, nếu nghe tên Ta chuyên niệm thọ trì, thì Ta theo tâm mong cầu ấy khiến được đầy đủ y phục hoa hương.

Trì tụng và thờ cúng  Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Tranh tượng của Phật Dược Sư hay được vẽ với tay trái cầm thuốc chữa bệnh và tay phải giữ Ấn thí nguyện. Phật Dược Sư thường được thờ chung với Phật Thích Ca Mâu Ni và A Di Đà, trong đó Phật Dược Sư đứng bên trái còn Phật A Di Đà đứng bên phải Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong kinh Dược Sư, hiện nay chỉ còn bản chữ Hán và chữ Tây Tạng, người ta đọc thấy 12 lời nguyện của Ngài, thệ cứu độ chúng sinh, với sự giúp đỡ của chư Phật, Bồ Tát và 12 vị Hộ Pháp và Thiên vương.

Tại Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản và Việt Nam, Phật Dược Sư được thờ cúng rộng rãi.

Về công phu trì niệm hồng danh Đức Phật Dược Sư, mặc dù Ngài có nhiều danh hiệu nhưng trì niệm hồng danh thường là Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật hay Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Theo sách Dược Sư kinh sám (HT.Trí Quang dịch), phần Niệm Phật ghi rõ niệm Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật. Các hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh và niệm đến nhất tâm. Cũng vậy, khi tu tập pháp môn Dược Sư, hành giả niệm danh hiệu Phật Dược Sư cũng phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh. Có thể niệm thầm, niệm ra tiếng, lần tràng hạt v.v… và niệm cho đến nhất tâm giống như các phương thức niệm Phật A Di Đà.

Về ý nghĩa Thánh hiệu

Dược Sư, nghĩa đen là thầy thuốc chữa bệnh. Lưu ly là một loại ngọc màu xanh trong suốt. Quang là ánh sáng. Lưu ly quang là ánh sáng ngọc lưu ly. Dược Sư Lưu Ly Quang Phật là vị Phật có danh hiệu Thầy thuốc chữa bịnh, ánh sáng như ngọc lưu ly. Phật Dược Sư hiểu biết và thông suốt tất cả y dược của thế gian và xuất thế gian, Ngài có thể chữa trị hết tất cả những thứ bệnh khổ của chúng sinh, những điên đảo vọng tưởng do tham, sân, si phiền não gây ra. Ánh sáng của Phật Dược Sư thật không nghĩ bàn “Trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn, không có chút nhơ bợn, ánh quang minh chói lọi khắp nơi”. Ánh sáng ấy chiếu đến đâu đều phá hết tăm tối vô minh của chúng sinh, đem lợi lạc và diệt tất cả những bệnh khổ thân tâm của chúng sinh, khiến cho họ xa lìa mê vọng mà hướng đến giác ngộ, giải thoát.

Về công năng của việc trì niệm danh hiệu Phật Dược Sư, có thể nói là không thể nghĩ bàn. Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, đại dụng của danh hiệu Phật Dược Sư, điển hình có năm vấn đề sau:

Diệt sự tham lam mà phát tâm bố thí: Nhờ trì niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà mở rộng tấm lòng, không còn tham lam, ích kỷ chỉ lo tích cóp cho riêng mình đồng thời luôn chia sẻ, ca ngợi và thực hành bố thí.

Công năng của việc trì niệm danh hiệu Phật Dược Sư, có thể nói là không thể nghĩ bàn.

Diệt sự phạm tội mà được sự giữ giới: Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.

Diệt sự ganh ghét mà được sự giải thoát: Do nghiệp lực ganh ghét, đố kỵ người khác nên chịu quả báo hèn hạ, thống khổ. Niệm Phật Dược Sư sẽ khiến cho hành giả phát tâm tu học, diệt trừ khổ não, thành tựu giải thoát.

Diệt sự hại nhau mà được sự thương nhau: Những ý niệm oán kết, thù hận dẫn đến hành động tiêu diệt lẫn nhau, nhờ niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà được hóa giải. Không những không còn làm hại nhau mà còn hiểu biết, thương yêu và tôn trọng lẫn nhau.

Được sinh Cực lạc hay các sự chuyển sinh khác: Đối với những hành giả phát tâm niệm Phật A Di Đà, cầu vãng sinh Cực lạc thì niệm Phật Dược Sư là một sự trợ duyên rất quan trọng. Chư Phật, các Đại Bồ tát trong pháp hội Dược Sư luôn trợ hóa cùng Phật A Di Đà, tiếp dẫn chúng sinh về Cực lạc. Ngoài ra, nhờ công đức tu tập Thánh hiệu Phật Dược Sư mà hành giả được đầy đủ phước báo, sinh về các thế giới an lành.

Ngoài ra, nhờ năng lực bổn nguyện của Phật Dược Sư, những chúng sinh thọ trì danh hiệu Ngài được tiêu trừ tất cả bệnh khổ và thành tựu mọi sở nguyện, sở cầu.

Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.
Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.

Bảy tôn tướng của Đức Dược Sư Như Lai

Đức Phật Dược Sư là một đấng giác ngộ có lòng bi mẫn vô biên đối với hết thảy chúng sinh. Ngài hộ trì chúng sinh tránh khỏi những đớn đau về tâm hồn và thể xác, khỏi những hiểm nguy và chướng ngại, và giúp họ trừ diệt ba độc tố – tham trước, sân hận và si mê – cội nguồn của mọi bệnh tật và nguy hại. Ngài là đấng Y vương Toàn giác.

Theo các Kinh điển Phật Giáo thì Đức Dược Sư Như Lai có 7 tôn tượng. Có thuyết cho là mỗi vị có mỗi đại nguyện và ứng thân riêng từng vị. Có thuyết cho là các Ngài từ nhất thể là Đức Dược Sư Như Lai mà phân thân ứng hiện (ứng thân), danh hiệu của các Ngài là: Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai; Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai; Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai; Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai; Pháp Hải Lôi Âm Như Lai; Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai; Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai
Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai
Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai
Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai
Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai
Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai
Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai;
Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai
Pháp Hải Lôi Âm Như Lai
Pháp Hải Lôi Âm Như Lai
Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai
Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai

Lược sử tóm tắt về cuộc đời Đức Phật – Thích Ca Mâu Ni

Đức Phật là aiLời người dịch bài viết

Bài viết này được trích dịch từ một tập sách nhỏ có tựa đề “101 điều về Giáo lý” (Dharma 101) – là những câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình tu học của người Tây Phương.

Những câu hỏi như Đức Phật là ai? Đức Phật ở đâu?Niềm tin quan trọng ra sao?tại sao chúng ta phải cúi chào? Bạn là ai? Nghiệp là gì? ….có thể nghe quen thuộc đối với nhiều người nhưng câu trả lời có thể không quen thuộc. Điều này có thể do có sự khác biệt về quan điểm hay về sự hiểu biết giữa các vị Thầy, hoặc sự khác biệt giữa các truyền thống. Ba Thừa chính yếu (Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa) của Phật giáo tại Á Châu có sự khác nhau về lý tưởng, pháp tu và cách trình bày. Ví dụ những câu hỏi về sự giác ngộ có thể có câu trả lời của một vị Thầy Đại Thừa ở Đông Á khác với câu trả lời của một đạo sư Kim Cang Thừa của Tây Tạng.

Một câu hỏi về ý niệm của tánh không Phật giáo sẽ có hai câu giải đáp khác nhau bởi một vị Sư Nam Tông ở Đông Nam Á và một vi Thầy bên Đại Thừa. Nhưng ở Tây Phương, nơi các tông phái của ba truyền thống này đang phân phát bên cạnh nhau, chúng ta nhận cả ba thừa đều gợi lên những câu hỏi chung và những giáo lý căn bản cũng ứng dụng cho tất cả. Bản dịch này được thực hiện để tưởng nhớ 10 năm sau ngày mất của người bạn đạo, đó là đạo hữu Rick Fields (1942-1999) vốn là một biên tập viên của tạp chí Tricycle (Tam Thừa) và tạp chí Yoga Journal.

Dịch giả liên lạc với ông Rick Fields từ năm 1996 đến lúc ông qua đời vào năm 1999 vì bệnh ung thư phổi. Ông Rick Fields đã gởi tặng cho người dịch nhiều tài liệu về Phật giáo thế giới, trong đó có tập sách mà chính ông là tác giả, đó là quyển “Lịch sử Phật giáo Hoa Kỳ” (How the Swans came to the Lake, A Narrative History of Buddhism in America) (Shambhala, 1981), trong đó “Đức Phật là ai ?” cũng được trích dịch từ tập sách dày 450 trang này.

Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm

Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm(1) (sau này là Đức Phật) ra đời năm 624 trước Tây Lịch tại một vương quốc nhỏ ngay dưới chân rặng núi Hy Mã Lạp Sơn. Cha của Ngài là vua của bộ tộc Thích Ca (Skakya). Mười hai năm trước khi ra đời, các tu sĩ Ấn Giáo đã tiên tri rằng Ngài sẽ là một vị vua vĩ đại hoặc sẽ trở thành một nhà hiền triết lừng danh của thế giới loài người. Vì không muốn Ngài trở thành tu sĩ, cha của Ngài đã giữ Ngài bên trong cung điện. 

Đức Phật là ai - Lược sử tóm tắt về cuộc đời Đức Phật - Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật là ai – Lược sử tóm tắt về cuộc đời Đức Phật – Thích Ca Mâu Ni

Thái tử Tất Đạt Đa lớn lên trong sự xa hoa của một bậc vua chúa, không được phép nhìn thấy thế giới bên ngoài, được các vũ nữ giúp vui, và được các tu sĩ Bà La Môn dạy học. Thái tử còn học cưỡi ngựa, bắn cung, đánh kiếm, đánh vật, bơi lội… Khi đến tuổi trưởng thành, Thái tử thành hôn với công chúa Gia Du Đà La và có một con trai.

Ngày nay chúng ta có thể nói là Ngài là người có tất cả mọi thứ trên đời, nhưng Ngài cảm thấy mình thiếu một cái gì đó, và chính điều đó đã lôi kéo Ngài ra khỏi những bức tường của cung điện. Ở ngoài đó, trên những đường phố của kinh thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài đã trông thấy ba cảnh tượng thông thường nhất đối với mọi người khác: một người bị bệnh, một người già yếu, và một xác chết đang được người ta đưa đi hỏa thiêu. Ngài chưa bao giờ được sửa soạn để chứng kiến những cảnh bi thảm như thế này, cho đến khi người đánh xe nói với Ngài rằng tất cả mọi người đều phải chịu sự già yếu, bệnh tật và chết chóc, Ngài cảm thấy mình không thể nào an tâm sống trong sự xa hoa như trước nữa. Trên đường trở về cung điện, Ngài trông thấy một tu sĩ đang bước đi một cách thong dong trên đường phố, và Ngài đã quyết định rời khỏi cung điện để đi tìm giải pháp cho vấn đề đau khổ của cuộc đời.

Trong đêm khuya Ngài lặng lẽ từ giã vợ con mà không đánh thức họ, rồi phi ngựa đến một khu rừng, nơi đó Ngài đã dùng gươm cắt tóc và thay bộ trang phục vua chúa bằng một chiếc áo tu sĩ đơn sơ. Đó là năm Ngài 29 tuổi, (595 BC).

Với hành vi này Thái tử Tất Đạt Đa đã gia nhập vào hạng người từ bỏ xã hội Ấn Độ để tìm giải thoát. Thái tử đã tìm đến học hỏi với nhiều vị thầy khác nhau, từ những vị theo chủ nghĩa duy vật, cho đếnnhững người theo chủ nghĩa lý tưởng và phái ngụy biện. Từ rừng núi đến thị thành, đâu đâu cũng sôi nổi với những cuộc tranh luận và triết lý. Sau cùng Thái tử đã theo học hai vị Thầy nổi tiếng, vị thứ nhất là Đạo Sư Alara-Kalama, thuộc phái Samkhya (phái Số luận), đang có ba trăm đệ tử theo tu học.

Với vị này, Thái tử đã học và đắc ngũ thần thông, đạt đến bậc thiền Vô Sở Hữu Xứ. Nhưng sau đó dù Đạo SưArada Kalama mời Ngài ở lại để dạy đạo như một người đồng đẳng với ông, nhưng Ngài thấy đây không phải là pháp giải thoát tối hậu, nên Ngài đã ra đi. Ngài đến học với vị thầy thứ hai là Đạo SưUddaka Ramaputta (Uất-đầu-lam-phất), người đang có 700 đệ-tử theo học. Sau vài ngày tu học, Ngài đã chứng được tầng thiền Phi-tưởng phi-phi-tưởng. Nhưng đây không phải là con đường giải thoát sinh tử khổ đau, và Tất Đạt Đa cũng đã quyết định từ giả vị thầy này.

Trong sáu năm, Thái tử Tất Đạt Đa cùng với năm người bạn Kiều Trần Như cùng tu khổ hạnh và thiền định, chỉ ăn một hạt cơm mỗi ngày, lấy tâm trí thi đua với thể xác, và chỉ còn da bọc xương. Khi Ngài quyết định dùng nhiều thực phẩm hơn và không áp dụng pháp tu khổ hạnh nữa, năm người bạn kia đã từ bỏ Ngài.

Ngài đến một ngôi làng để khất thực, ở đó một cô gái tên là Sujata mời Ngài dùng một bát cháo sữa với mật ong. Khi sức khỏe phục hồi, Ngài xuống tắm dưới sông Nairanjana (Ni Liên Thiền) rồi ngồi thiền dưới cội Bồ Đề, trên một tấm tọa cụ làm bằng cỏ kusha. Ngài ngồi đó sau khi đã nghe tất cả các vị thầy, học tất cả những kinh sách và thực hành tất cả pháp môn, bây giờ không có gì vướng bận, không có ai để nương tựa, không có nơi nào để đi nữa. Ngài thiền tọa bất động và cương quyết như một quả núi, cho đến bảy ngày sau, Ngài mở mắt ra, trông thấy sao mai vừa mọc trên bầu trời và Ngài hiểu ra rằng mình đã tìm ra cái chưa bao giờ mất, dù là đối với Ngài hay bất cứ một người nào khác trên thế gian này. Vì vậy không có gì để chứng đắc, không có gì để tìm kiếm nữa.

Ngài nói: “Điều kỳ diệu nhất là sự giác ngộ này vốn là chân tánh của chúng sanh, nhưng họ lại không an lạc vì thiếu nó”. Vậy Thái Tử Tất Đạt Đa đã giác ngộ vào năm ba mươi lăm tuổi (589 BC) và trở thành một vị Phật, tức đấng giác ngộ, được tôn vinh là Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), tức là nhà hiền triết thuộc bộ tộc Thích Ca.

Trong bảy tuần lễ sau đó, Đức Phật thọ hưởng pháp lạc tự tại giải thoát của chính mình. Lúc đầu Ngài không có ý định nói về sự chứng ngộ của mình, vì Ngài thấy đây là điều khó hiểu đối với phần lớn loài người, nhưng khi Phạm Thiên (Brahma), vị vua của ba ngàn thế giới, thỉnh cầu Ngài thuyết pháp, vì cũng có những người :’’mắt chỉ bị mờ một chút mà thôi”. Đức Thế Tôn đã chấp thuận.

Hai vị thầy của Đức Phật, Udaka và Ramaputra đều đã qua đời trước đó mấy ngày, vì vậy Ngài đi tìm năm người bạn đồng tu khổ hạnh mà trước kia đã rời bỏ mình. Khi thấy Ngài đi tới Vườn Nai ở thành Ba La Nại (Benares), họ làm lơ với Ngài, vì Ngài đã không tiếp tục thực hành khổ hạnh với họ. Nhưng rồi họ thấy có một cái gì tỏa sáng trong sự hiện diện của Ngài, họ đứng lên, sửa soạn chỗ ngồi và lấy nước cho Ngài rửa chân, rồi ngồi xuống nghe Ngài thuyết pháp. Đó là bài pháp đầu tiên của Đức Phật. Đức Phật đã nói bài pháp Tứ Diệu Đế cho các vị này.

Trong Tứ Diệu Đế của Đức Phật, chân lý thứ nhất, Khổ đế, nói rằng bản chất của cuộc đời này là đau khổ và không thỏa mãn, ngay cả những lúc hạnh phúc cũng có mầm móng của khổ đau nếu chúng ta bám giữ vào chúng, hay khi chúng đã đi vào ký ức, chúng vẫn bóp méo hiện tại vì tâm trí của chúng tacố gắng dựng lại quá khứ một cách tuyệt vọng. Giáo lý của Đức Phật dựa trên sự quan sát trực tiếp đời sống, và là lời phê bình cấp tiến đối với lối suy nghĩ mơ mộng cũng như vô số những lối thoát ly, như chủ nghĩa không tưởng chính trị, môn tâm lý trị liệu, chủ nghĩa hưởng lạc, hay thuyết cứu rỗi hữu thầncủa thần bí học, đây là điểm chính yếu phân biệt giữa Phật giáo với đa số những tôn giáo khác trên thế giới.

Khổ là chân lý thứ nhất và là nền móng để hiểu một cách trọn vẹn chứ không phải để trốn tránh hay để giải thích. Kinh nghiêm về sự khổ, về sự hoạt động của tâm trí, đưa đến chân lý thứ hai là nguyên nhân của Khổ (Tập Đế), thường được mô tả là tham muốn lạc thú, nhưng cũng được giải thích một cách căn bản hơn là bám giữ vào sự sống hoặc sự không hiện hữu, tức chấp có và chấp không.

Việc nghiên cứu tính chất của sự tham muốn này dẫn đến tâm điểm của chân lý thứ hai, đó là ý tưởng tự ngã hay cái ta, với tất cả những điều mong cầu và những điều lo sợ của nó, và chỉ khi nào hiểu đúng về tự ngã này và thấy nó không có tự tính, không có thật một cách vĩnh cữu), thì mới có thể hiểu chân lý thứ ba, sự diệt khổ (Diệt Đế).

Năm tu sĩ nghe bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật ở Vườn Nai trở thành hạt nhân của cộng đồng các tu sĩ Phật giáo, tức là Tăng đoàn (Sangha), là những người đi theo con đường mà Đức Phật đã trình bày trong chân lý thứ tư, con đường đưa đến sự diệt khổ (Đạo Đế), đó là Bát Chánh Đạo, chân chánh trong tám phương diện: ý kiến, ý nghĩ, lời nói, hành vi, nghề nghiệp, nỗ lực, ý thức và thiền định.

Các tu sĩ Phật giáo, tức Tỳ kheo (Bikkhu), sống rất đơn giản, chỉ có một bình bát, một cái áo, một cây kim, một cái lọc nước, một con dao cạo đầu, đó là dấu hiệu của sự ly gia cắt ái. Họ đi khắp miền đông bắc Ấn Độ, hành thiền một mình hay trong những nhóm nhỏ và khất thực.

Tuy nhiên giáo lý của Đức Phật không chỉ dành cho đoàn thể các tu sĩ, Ngài đã dạy họ truyền bá giáo lýcho mọi người “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường, đi khắp nơi vì lợi lạc, vì hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người”.

Trong bốn mươi lăm năm, Đức Phật đã đi qua những thôn làng và những thành phố của Ấn Độ, nói bằng ngôn ngữ phổ thông, dùng những lối nói giản dị mà ai cũng có thể hiểu. Ngài dạy dân làng thực hành chánh niệm trong khi kéo nước giếng, và khi một bà mẹ đau khổ ôm xác một đứa con đến xin Ngài cứu cho nó sống lại, Ngài đã không làm một phép lạ mà bảo bà ta mang về cho Ngài một nắm hạt cải của một nhà nào đó không có ai chết trước đó. Sau khi đi tìm, bà ta trở về tay không, nhưng hiểu ra một sự thật rằng cái chết đến với tất cả mọi người.

Khi được nghe nói đến Đức Phật, từ phú gia đến các bậc vua chúa đều phát tâm cúng dường những khu vườn ngự uyển để xây dựng tinh xá. Đức Phật tiếp nhận những khu vườn này, nhưng Ngài vẫn tiếp tục sống như mình đã từng sống từ năm hai mươi chín tuổi: một tu sĩ khất thực và thiền định dưới gốc cây. Bây giờ chỉ có một điều khác là gần như mỗi ngày sau khi thọ trai vào giữa trưa Ngài thuyết pháp. Không có một bài pháp nào được ghi chép lại trong khi Ngài còn tại thế.

Năm 544 (Trước Tây lịch), Đức Phật nhập Niết Bàn tại thành Câu Thi Na (Kusinagar) ở tuổi tám mươi sau khi ăn một bữa ăn có nấm. Trong số những người tu tập bên cạnh Đức Phật có những người đau buồn. Đức Phật nằm giữa hai cây Sala, đầu hướng về phương bắc, mình nghiêng về bên phải, bàn tay phải để ngửa lót dưới mặt, tay trái để xuôi trên hông trái, chân trái nằm dài trên chân phải, hơi thở nhẹ nhàng đều đặn.

Ngài nhắc với các đệ tử rằng mọi vật đều vô thường và khuyên họ hãy nương tựa vào chính mình và vào giáo pháp. Ngài hỏi có ai muốn hỏi điều gì lần cuối cùng thì hỏi. Sau đó Ngài nói lời di chúc cuối cùng: “Này các đệ tử, hãy nghe Như Lai nói đây: Vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt. Các thầy hãy tinh tấn lên để đạt tới giải thoát”.

Vào mùa mưa đầu tiên sau khi Đức Phật nhập diệt, năm trăm đệ tử Tỳ kheo hội họp tại một hang núigần thành Vương Xá để ôn tụng lại những lời dạy của Ngài. Tại cuộc kiết tập Kinh Điển lần thứ nhất này, Tôn giả A Nan, vốn là thị giả của Đức Phật, được mời nói lại tất cả những bài thuyết pháp của Phật mà mình đã nghe. 

Tôn giả Ưu Ba Ly ôn tụng lại các giới điều của tu sĩ, còn Ngài Đại Ca Diếp thì nhắc lại Luận Tạng, gồm những điều nói về tâm lý và siêu hình học Phật Giáo. Ba loại sưu tập này được viết trên lá bối vài thế kỷ sau đó và được gọi là “Tripitaka” tức là Tam Tạng Kinh Điển, đã trở thành những giáo lý cốt lõi cho tất cả những giáo điển nhà Phật ngày nay.

Dịch giả Thích Nguyên Tạng

Nói thêm về Đức Phật

Đức Phật trong lịch sử, tức Phật Thích Ca Mâu Ni, hay Đức Phật Cồ Đàm (Gautama), sống cách đây khoảng 2.500 năm tại Ấn Độ. Tuy nhiên, Ngài không phải là đức Phật đầu tiên, và sẽ không phải là đức Phật cuối cùng. Ngài thuyết giảng rằng trong thời đại này (eon – một khoảng thời gian rất dài, có thể so sánh với thời gian từ lúc hình thành của vũ trụ mà chúng ta biết), sẽ có 1.000 vị Phật toàn giác thuyết giảng về Phật giáo (sau khi Phật giáo đã bị hoàn toàn lãng quên). Theo các kinh sách Phật giáo, Đức Phật thứ nhất, thứ hai, thứ ba là Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda), Câu Na Hàm Mâu Ni Phật (Kanakamuni), Ca Diếp Phật (Kashyapa), sau đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), Đức Phật trong lịch sử sống cách đây khoảng 2.500 năm, và Đức Phật tiếp theo sẽ là Đức Phật Di Lặc (Maitreya).

Một vị Phật khác với “Chúa trời”, “thần linh” hay “đấng tối cao”… theo cách hiểu của các tôn giáo Ki tô, Do Thái, Hồi giáo và nhiều tôn giáo khác ở chỗ, Đức Phật không phải là đấng sáng tạo ra vũ trụ, không phải là đấng toàn năng có thể ban phúc giáng họa cho con người. Trái lại, Phật là người đã giác ngộ, thấu đạt được sự thật – chân lý – và mang chân lý đó truyền giảng lại cho những người khác, giúp chúng sinh nhờ thực hành tu tập, trưởng dưỡng tâm linh mà cũng thành tựu giác ngộ được như vậy. Nhờ năng lực giác ngộ, một vị Phật có hiểu biết toàn tri, thấu đạt vạn pháp và có thể bằng cách đó đem lại lợi ích to lớn cho các chúng sinh khác. Như vậy, mọi chúng sinh đều tự chủ về cuộc sống cũng như khả năng thành tựu giác ngộ của bản thân, đều có thể đạt đến trạng thái Phật quả (mặc dù có thể phải mất nhiều kiếp). Đức Phật đã chỉ ra con đường đến với chân lý, nhưng không ai khác ngoài mỗi người phải tự mình tiến bước trên hành trình tâm linh của chính mình.

Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm

Đặc biệt, Xá Lợi Phật được tôn trí lần này là Bảo vật Quốc gia của Ấn Độ, được cung thỉnh về Việt Nam trong khuôn khổ Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2025, do Việt Nam đăng cai tổ chức tại TP.HCM.

Ngay từ sáng sớm, hàng ngàn Phật tử từ khắp nơi đã vân tập về chùa trong không khí trang nghiêm, thanh tịnh. Từng dòng người nối dài trong niềm kính ngưỡng vô biên, đồng tụng niệm, phát nguyện tu tập và cầu nguyện hòa bình, an lạc cho muôn loài. Việc tôn trí Xá Lợi Phật tại chùa Thanh Tâm không chỉ mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc mà còn là biểu tượng cho tình hữu nghị Phật giáo giữa Việt Nam và Ấn Độ, lan tỏa thông điệp hòa bình, từ bi của Đức Thế Tôn đến với mọi người. 

Sự kiện chiêm bái sẽ tiếp tục trong những ngày tới – là cơ hội quý báu để chư Tăng, Ni và quý Phật tử hữu duyên được gieo trồng phước báu, tăng trưởng niềm tin nơi Tam Bảo và vun bồi Bồ-đề tâm kiên cố.

Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm
Hàng ngàn Phật tử đảnh lễ, chiêm bái Xá lợi Phật tại chùa Thanh Tâm

Vesak 2025: Rạng rỡ trên đất Việt

Chủ đề của đại lễ Vesak năm nay: “Đoàn kết và bao dung vì nhân phẩm con người: Tuệ giác Phật giáo vì hòa bình thế giới và phát triển bền vững”, đã khẳng định rõ vai trò của Phật giáo trong việc giải quyết những thách thức toàn cầu hiện nay, từ xung đột đến khủng hoảng nhân đạo, từ biến đổi khí hậu đến bất bình đẳng xã hội.

Tham dự đại lễ có sự hiện diện của hơn 2.700 đại biểu, trong đó có 1.300 khách quốc tế đến từ 85 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đặc biệt, Hòa thượng Phra Brahmapundit – Chủ tịch Ủy ban Tổ chức Quốc tế Vesak (ICDV) – cùng nhiều vị giáo phẩm cao cấp các nước đã cùng tề tựu, biểu trưng cho tinh thần “nhất thể trong đa dạng” của cộng đồng Phật giáo toàn cầu.

Về phía lãnh đạo Việt Nam, lễ khai mạc có sự tham dự của Chủ tịch nước Lương Cường, nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, cùng nhiều vị Ủy viên Bộ Chính trị và lãnh đạo cấp cao khác. Sự hiện diện này khẳng định sự đồng hành và trân trọng của Nhà nước Việt Nam đối với các giá trị tinh thần, nhân văn và hoà bình mà Phật giáo lan toả.

Vesak 2025: Rạng rỡ trên đất Việt
Chủ tịch nước Lương Cường và Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quảng. Ảnh: Nhật Thịnh
Vesak 2025: Rạng rỡ trên đất Việt

Phát biểu khai mạc, Hòa thượng Thích Trí Quảng – Đức Pháp chủ Hội đồng chứng minh Trung ương GHPGVN – cho biết: “Đây là lần thứ tư, Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc được tổ chức tại Việt Nam, và là lần đầu tiên được tổ chức tại TPHCM… Chúng ta vô cùng diễm phúc được cung thỉnh xá lợi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – bảo vật quốc gia Ấn Độ và là bảo vật thiêng liêng vô giá của nhân loại. Đồng thời, chúng ta cũng có đầy đủ nhân duyên đảnh lễ trái tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng Đức; ấn quyết xác lập sự tu chứng mầu nhiệm của Hòa thượng Thích Quảng Đức (1897-1963), vị Bồ tát cả một đời sống vị tha, hiện hữu vì lợi ích lớn lao cho đạo pháp và dân tộc”.

Vesak 2025: Rạng rỡ trên đất Việt
Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Đại lão hòa thượng Thích Trí Quảng phát biểu khai mạc. Ảnh: Đăng Huy 

Theo Hòa thượng Thích Trí Quảng, nhân loại đang sống trong một thế giới đầy biến động khó lường do tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và nghèo đói. Chiến tranh và xung đột làm cho con người phải sống trong nỗi bất an, sợ hãi. Vì thế, “hơn bao giờ hết, chúng ta càng trân kính, nỗ lực thực hành những lời dạy quý báu của Đức Thế tôn và thắp sáng lên tinh thần ngọn lửa thiêng liêng của Bồ tát Thích Quảng Đức trong việc xây dựng một thế giới hòa bình, nhân văn, đạo đức và phát triển bền vững vì hạnh phúc con người”.

Vesak 2025: Rạng rỡ trên đất Việt
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn – Phó Pháp chủ, Chủ tịch Hội đồng trị sự GHPGVN, Chủ tịch Ủy ban tổ chức quốc gia Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2025 phát biểu. Ảnh: Đăng Huy 

Hòa thượng Thích Thiện Nhơn – Phó Pháp chủ, Chủ tịch Hội đồng trị sự GHPGVN, Chủ tịch Ủy ban tổ chức quốc gia Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2025 – nhấn mạnh: “Chủ đề của Vesak năm nay chính là thông điệp cấp thiết hơn bao giờ hết, mang ý nghĩa nhân văn, sâu sắc và đầy tính thời đại mà cộng đồng Phật giáo muốn gửi đến toàn thế giới. Trong một thế giới còn nhiều bất ổn, con người luôn phải đối mặt với nhiều thách thức chưa từng có, chúng ta cần khơi dậy tinh thần đoàn kết và bao dung, lấy con người làm trung tâm của mọi hành động. Đức Phật có dạy rằng ‘Tất cả chúng sinh đều có phật tính’. Đó chính là lời khẳng định về giá trị và phẩm giá bình đẳng của mọi con người, không phân biệt màu da, tôn giáo, quốc tịch hay địa vị xã hội… Ngài cũng đã khẳng định ‘Tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hay hành động với tâm thanh tịnh, an lạc sẽ theo ta như bóng với hình’.

Tinh thần đoàn kết và bao dung không chỉ là lời dạy của Phật giáo, mà còn là nguyên lý cốt lõi của Liên Hợp quốc. Chính vì vậy, từ hội trường này, chúng ta cùng nhau kêu gọi hãy gác lại những khác biệt để xây dựng một cộng đồng toàn cầu đoàn kết. Hãy dùng ánh sáng của trí tuệ để hóa giải vô minh và bạo lực. Hãy lấy con người làm trung tâm, tôn trọng phẩm giá, không ai bị bỏ lại phía sau trên hành trình phát triển bền vững”.

Trước thềm đại lễ, hàng loạt hoạt động văn hóa – nghệ thuật đã được tổ chức, như lễ thượng đại kỳ Phật giáo rộng 500m², lá cờ Phật Giáo lớn nhất thế giới, triển lãm thư tịch cổ, trưng bày bảo vật quốc gia, và các chương trình biểu diễn nghệ thuật đến từ nhiều nền văn hóa: Ấn Độ, Mông Cổ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan…Vesak – ngày Tam hợp linh thiêng (Đản sanh, Thành đạo, Nhập Niết-bàn của Đức Phật) – đã được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc chính thức công nhận từ năm 1999. Từ đó đến nay, ngày Vesak không chỉ là lễ hội tôn giáo mà đã trở thành nhịp cầu giao lưu văn hóa, gắn kết con người trên nền tảng trí tuệ và từ bi.

Vesak 2025: Rạng rỡ trên đất Việt
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 diễn ra từ ngày 6 – 8/5 với sự tham dự của 2.700 đại biểu; trong đó có 1.300 đại biểu quốc tế đến từ 85 quốc gia, vùng lãnh thổ. Ảnh: Đăng Huy 
Vesak 2025: Rạng rỡ trên đất Việt
Vesak 2025: Rạng rỡ trên đất Việt

Trong bối cảnh kỷ niệm 50 năm đất nước thống nhất và 80 năm Quốc khánh nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, việc tổ chức Đại lễ Vesak 2025 không chỉ là niềm tự hào của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, mà còn là dấu ấn lớn trong hành trình hội nhập văn hóa tâm linh của đất nước trên bản đồ thế giới.

Trọng thể khai mạc Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 tại TP.HCM

Chứng minh và tham dự lễ khai mạc có sự hiện diện tôn quý của Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quảng – Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Hòa thượng GS.TS Phra Brahmapundit – Chủ tịch Ủy ban Tổ chức Quốc tế Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc (ICDV); chư Tôn đức Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự GHPGVN và nhiều lãnh đạo các tổ chức Phật giáo toàn cầu.

Trọng thể khai mạc Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 tại TP.HCM
Chủ tịch nước Lương Cường thăm hỏi Đức Pháp chủ tại hội trường. 

Đặc biệt, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Lương Cường đã đến tham dự và phát biểu chào mừng, cùng với sự hiện diện của nhiều vị lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đại diện các đại sứ quán, tổ chức quốc tế, các nhà khoa học, học giả, trí thức và đông đảo Phật tử trên toàn quốc.

Trọng thể khai mạc Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 tại TP.HCM

Buổi lễ diễn ra trong không khí trang nghiêm, trọng thể, với các nghi thức Phật giáo truyền thống kết hợp cùng lời phát biểu chào mừng, tán dương từ các đại diện quốc tế.

Trọng thể khai mạc Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 tại TP.HCM
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 chính thức khai mạc lúc 8 giờ sáng ngày 6.5.

Đại lễ Vesak 2025 là sự kiện thiêng liêng nhằm kỷ niệm ba sự kiện trọng đại trong cuộc đời Đức Phật: Đản sinh – Thành đạo – Nhập Niết-bàn, đồng thời là dịp để cộng đồng Phật giáo toàn cầu cùng nhau lan tỏa thông điệp từ bi, trí tuệ, hòa bình và phụng sự nhân loại.

Trọng thể khai mạc Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 tại TP.HCM

Trong bối cảnh kỷ niệm 50 năm đất nước thống nhất và 80 năm Quốc khánh nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, việc tổ chức Đại lễ Vesak 2025 không chỉ là niềm tự hào của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, mà còn là dấu ấn lớn trong hành trình hội nhập văn hóa tâm linh của đất nước trên bản đồ thế giới.

Thông điệp Đại lễ Phật đản PL.2569 – DL.2025 của Đức Pháp chủ

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

HỘI ĐỒNG CHỨNG MINH

——–

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày mùng Một tháng Tư năm Ất Tỵ – Dương lịch 2025

THÔNG ĐIỆP

ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT LỊCH 2569

CỦA ĐỨC PHÁP CHỦ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính gửi:

– Chư tôn túc Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni;

– Quý Cư sĩ, Phật tử Việt Nam ở trong nước và nước ngoài.

Vào mỗi mùa hoa sen nở rộ trên đất nước Việt Nam thân yêu, là khi không chỉ những người Phật tử Việt Nam mà cả cộng đồng Phật giáo khắp năm châu hân hoan kính mừng Vesak thiêng liêng; sự kiện được Liên hợp quốc tôn vinh bởi thông điệp về tình thương, trí tuệ, bao dung và phụng sự tha nhân mà Đức Phật đã cống hiến cho nhân loại.

Thời gian này, cả thế giới long trọng kỷ niệm sự kiện trọng đại ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sinh thị hiện ở đời vì hạnh phúc cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì lợi ích cho chư Thiên và loài người; ngày Đức Phật thành đạo đem đến chân lý giác ngộ khai mở con đường giải thoát khổ đau cho chúng sinh, mang đến ánh sáng của từ bi và trí tuệ cho nhân loại; ngày Đức Phật nhập Niết bàn để lại di sản vô giá làm kim chỉ nam cho các giải pháp xây dựng nền hòa bình thế giới, hạnh phúc thực sự cho con người, sự phát triển bền vững cho xã hội.

Trong những ngày này Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ cờ hoa tưng bừng kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà (30/4/1975 – 30/4/2025), Giáo hội Phật giáo Việt Nam vô cùng hoan hỷ được chào đón Chư tôn cao tăng, thạc đức; Chư vị Tăng vương, Tăng thống, Chủ tịch, những vị lãnh đạo các Giáo hội Tăng già, tổ chức Phật giáo; Ủy ban Tổ chức Quốc tế Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc ICDV, các tổ chức Phật giáo thế giới; các hệ phái, truyền thống Phật giáo đến từ 85 quốc gia và vùng lãnh thổ đã quang lâm tham dự Đại lễ Phật đản Vesak Liên hợp quốc lần thứ 20.

Thay mặt Hội đồng Chứng minh, Tôi có lời chào mừng Chư tôn Trưởng lão Hội đồng Chứng minh, Chư tôn đức Hội đồng Trị sự; các Ban, Viện Trung ương Giáo hội; Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong cả nước đã vân tập về Thành phố Hồ Chí Minh với niềm hoan hỷ trong ngày lễ lịch sử và thiêng liêng này.

Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2025 được tổ chức tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh vô cùng vinh hạnh được đón tiếp quý vị đại biểu khách quý Lãnh đạo, nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; quý vị nguyên thủ các quốc gia; quan chức Liên hợp quốc và Trưởng các phái đoàn ngoại giao, đại sứ, đại biện các nước tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã tới tham dự và phát biểu. 

Đây là lần thứ Tư, Đại lễ Vesak Liên hợp quốc được tổ chức tại Việt Nam, và là lần đầu tiên được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước. Giáo hội Phật giáo Việt Nam hân hoan chào đón hơn 1200 quý vị đại biểu quốc tế gồm Chư tôn đức Tăng Ni, các nhân sĩ trí thức Phật giáo, các nhà nghiên cứu, các học giả, Giáo sư, Tiến sĩ đến từ các trường đại học, viện nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới. Giáo hội vui mừng chào đón rất đông đồng bào Phật tử, Nhân dân cả nước, và kiều bào ta ở nước ngoài đã về chung vui ngày hội thiêng liêng của non sông đất nước Việt Nam và cộng đồng Phật giáo thế giới.

Trong đại lễ Vesak năm nay, chúng ta vô cùng diễm phúc được cung thỉnh Xá lợi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo vật Quốc gia Ấn Độ và là bảo vật thiêng liêng vô giá của nhân loại, là minh chứng cho khả tính giác ngộ hoàn toàn của con người; Đồng thời, chúng ta cũng có được đầy đủ nhân duyên đảnh lễ Trái tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng Đức, ngọn đuốc sống năm 1963 tại miền Nam Việt Nam để lại xá lợi trái tim là bảo vật vô cùng quý giá. Ngài là biểu tượng cho sự hy sinh cao cả, tinh thần và ý chí đấu tranh cho nền độc lập dân tộc, hòa bình và thống nhất đất nướccủa Tăng Ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam. Đây đồng thời cũng là minh chứng sống động cho truyền thống hàng ngàn năm Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc; ấn quyết xác lập sự tu chứng mầu nhiệm của Hòa thượng Thích Quảng Đức (1897-1963), vị Bồ tát cả một đời sống vị tha, hiện hữu vì lợi ích lớn lao cho đạo pháp và dân tộc.

Kính bạch Chư tôn đức,

Kính thưa Quý vị khách quý.

Nhân loại đang sống trong một thế giới đầy biến động khó lường và phải chịu nhiều khổ đau do tác động của biến đổi khí hậu, khủng hoảng môi trường, thiên tai, động đất, lũ lụt, dịch bệnh và nghèo đói. Chiến tranh và xung đột làm cho nhân loại vốn đã khổ đau càng thêm đau khổ, hận thù tiếp nối hận thù, con người phải sống trong nỗi bất an, sợ hãi và đối diện với nguy cơ hủy diệt sự sống của nhân loại. Hơn bao giờ hết, chúng ta càng trân kính và nỗ lực thực hành những lời dạy quý báu của Đức Thế tôn và thắp sáng lên tinh thần ngọn lửa thiêng liêng của Bồ tát Thích Quảng Đức trong việc xây dựng một thế giới hòa bình, nhân văn, đạo đức và phát triển bền vững vì hạnh phúc con người.

Trong giáo lý của Phật giáo, triết lý đoàn kết và bao dung là hai yếu tố cốt lõi thể hiện tinh thần từ bi, trí tuệ và hướng đến hạnh phúc an lạc chung của cộng đồng, sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc. Đoàn kết – Sammagga được xem là nền tảng trong sự phát triển và tồn tại của cộng đồng nhân loại. Trong kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), Đức Phật dạy rằng một tập thể đoàn kết, không chia rẽ, biết lắng nghe và hành động trên tinh thần đồng thuận thì sẽ trường tồn và thịnh vượng. Giáo hội chúng ta và cộng đồng Phật giáo thế giới được xây dựng trên nguyên tắc sống lục hòa tạo nên một tập thể tăng đoàn thanh tịnh, một cộng đồng sống an vui và vững mạnh.

Bao dung – Ksanti hay Khanti là nhẫn nhục, tha thứ, là một biểu hiện của từ bi và trí tuệ. Phật giáo không cổ súy sự phán xét hay thù hận, mà khuyên răn con người biết tha thứ, cảm thông, thấu hiểu người khác, ngay cả khi họ sai lầm. Kinh Pháp cú số 5 dạy rằng “Lấy hận thù diệt hận thù, đời này không thể có. Lấy tình thương diệt hận thù, là điều muôn thuở đúng”.

Đoàn kết và bao dung không chỉ là học thuyết đạo đức Phật giáo, mà còn mãi là kim chỉ nam cho những suy nghĩ, lời nói, và hành động của con người để xây dựng xã hội an hòa, ít xung đột, tràn ngập thương yêu.

Kính bạch Chư tôn đức,

Kính thưa Quý vị khách quý.

Lịch sử đã khắc sâu những đóng góp to lớn của Phật giáo trong chặng đường lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Phật giáo đã hòa mình với dòng chảy văn hóa dân tộc, luôn đồng hành cùng dân tộc trong mọi hoàn cảnh lịch sử. Triết lý đoàn kết và bao dung của Phật giáo đã góp phần làm nên bản sắc và sức mạnh tinh thần đại đoàn kết dân tộc; Góp phần làm sâu sắc hơn tinh thần yêu nước, thương nòi, lòng khoan dung, trọng nhân, trọng nghĩa, nét văn hóa yêu thương đùm bọc, chia sẻ lẫn nhau, lá lành đùm lá rách… vốn đã thấm sâu trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi người Việt Nam. Đoàn kết là di sản vô giá, truyền thống quý báu của mỗi người Việt Nam; Là sức mạnh đưa Việt Nam trở thành một dân tộc hùng cường, luôn luôn vượt qua mọi khó khăn, thách thức, chiến thắng mọi kẻ thù, giành mọi thắng lợi lập nên những kỳ tích vẻ vang, rạng rỡ trong suốt chiều dài lịch sử.

Kính mừng Đại lễ Phật đản Phật lịch 2569, thay mặt Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi gửi lời chúc mừng đại đoàn kết, đại hoan hỷ tới toàn thể đồng bào Phật tử và Nhân dân trong ngày vui mừng kỷ niệm 50 năm Tết thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025) và hướng tới kỷ niệm 80 năm Tết độc lập (02/9/1945 – 02/9/2025). Tôi kêu gọi chư Tăng Ni và quý Phật tử nhất tâm cầu nguyện cho các nạn nhân bị thiệt mạng trong trận động đất ngày 27/3 tại Myanmar và Thái Lan; cầu nguyện cho chiến tranh, xung đột đây đó trên thế giới mau chấm dứt; cầu nguyện cho thế giới hòa bình, nhân sinh an lạc.

Tôi tha thiết kêu gọi mỗi người Phật tử chúng ta luôn tinh tấn tu tập, thể nhập Từ bi tam muội, lan tỏa tình yêu thương đến chúng sinh vạn loại, thắp sáng thế gian này bằng ánh sáng bao dung và trí tuệ. Với tất cả ý nghĩa thiêng liêng của ngày kỷ niệm Đức Phật đản sinh, tôi mong muốn tất cả những người con Phật trên khắp thế giới đoàn kết, hòa ái và tích cực cùng nhân loại kiến tạo thế giới thái bình, an lạc thực sự. 

Kính chúc Chư tôn đức Tăng Ni, quý đồng bào Phật tử đón mùa Phật đản vô lượng cát tường, thành tựu viên mãn các thiện sự trong ánh hào quang của Đức Thích Ca Từ Phụ.

Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát.

PHÁP CHỦ

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ QUẢNG

Những lưu ý khi ăn hạt điều với người bệnh tiểu đường

Theo Garima Goyal, chuyên gia dinh dưỡng tại Trung tâm Dinh dưỡng Mumbai (Ấn Độ), việc ăn một bát nhỏ hạt điều (khoảng 75 gram) chỉ làm tăng lượng đường huyết ở mức vừa phải. Nguyên nhân là do hàm lượng carbohydrate trong hạt điều tương đối thấp (khoảng 20 gram).

Những lưu ý khi ăn hạt điều với người bệnh tiểu đường

“Trong đó có 3 gram là chất xơ, khiến carbohydrate ròng chỉ còn 17 gram. Với tổng năng lượng 440 kcal, rõ ràng phần lớn lượng calo không đến từ carbohydrate, do đó nguy cơ gây tăng đường huyết đột ngột là không cao”, bà Garima Goyal giải thích.

Ngoài ra, hạt điều có chỉ số đường huyết (GI) rất thấp chỉ 22, trong khi mức GI dưới 55 đã được xem là an toàn. Đồng thời, tải lượng đường huyết (GL) thấp cũng giúp hạt điều trở thành lựa chọn thân thiện cho người tiểu đường trong việc kiểm soát đường huyết.

Không chỉ vậy, hạt điều còn chứa hàm lượng protein và chất béo cao, lần lượt là 14 gram và 34 gram trong 75 gram hạt. Bà Goyal cho biết, những chất này hỗ trợ làm chậm quá trình tiêu hóa và tăng cảm giác no, từ đó hạn chế tình trạng ăn quá nhiều. Đặc biệt, chất béo trong hạt điều giàu axit oleic, là một hợp chất chống viêm tự nhiên.

Hạt điều cũng là nguồn cung cấp magiê dồi dào, là một khoáng chất đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa glucose và cải thiện độ nhạy insulin.

“Magiê giúp tế bào sử dụng insulin hiệu quả hơn, từ đó cân bằng lượng đường trong máu”, Goyal nhấn mạnh.

Dù vậy, chuyên gia dinh dưỡng Garima Goyal cũng cảnh báo rằng bệnh nhân tiểu đường không nên tiêu thụ quá nhiều hạt điều trong một lần. Việc ăn quá mức có thể dẫn đến thừa calo và tăng cân, những yếu tố không có lợi cho người bệnh.

“Nếu ăn với khẩu phần lớn, nên kết hợp cùng thực phẩm giàu chất xơ hoặc protein như rau xanh, sữa chua để giảm thiểu tác động lên đường huyết,” Goyal khuyến nghị.

Như vậy, với khẩu phần hợp lý, hạt điều hoàn toàn có thể là một phần của chế độ ăn lành mạnh, ngay cả đối với người mắc bệnh tiểu đường.

Theo VnExpress

Sám hối là để tâm thanh tịnh và thấy ra sự sai lầm của chính mình

Sám hối là để tâm thanh tịnh và thấy ra sự sai lầm của chính mình

Giới luật là điều học giúp con thấy ra tính chất đạo đức trong hành động của mình, nhờ đó con mới chuyển hóa được thái độ nhận thức và hành vi ngày càng thận trọng, tinh tế và trong lành hơn.

Vậy quan trọng không phải là có sai phạm hay không? và phải sám hối như thế nào? 

Mà quan trọng là qua đó con có học được điều gì để thấy ra bản chất hành động của mình không?

Nếu một người thường sai phạm nhưng nhờ đó mà thấy ra cái ngã vô minh ái dục để giác ngộ giải thoát thì còn hơn một người cố giữ không sai phạm rồi tự mãn với sự trong sạch của mình mà không thấy ra cái ngã vô minh ái dục càng lớn lên thêm.

Sám hối cũng tốt nhưng không phải để chạy tội. Gieo nhân thì phải gặt quả để học ra bản chất cái đúng cái sai, cái tốt cái xấu.

Mục đích của sám hối chỉ là để tâm thanh tịnh trong sáng. Vì vậy sám hối thật sự phải là hành động biểu hiện sự chuyển hóa trong nhận thức bản chất hành vi đạo đức của mình, nhờ đó mà thấy ra được nguyên nhân lầm lỗi, chứ không phải sám hối vì lo sợ hậu quả của lầm lỗi…

Mừng ngày Phật đản Vesak Liên Hiệp Quốc 2025

Phật Đản (佛誕) – nghĩa là ngày sinh của đức Phật hay là Vesak (tiếng Phạn: Vaiśākha, Devanagari là ngày kỷ niệm đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Tất-Đạt-Đa Cồ-Đàm) sinh ra tại vườn Lâm-Tì-Ni năm 624 TCN, diễn ra vào ngày 8 tháng 4 âm lịch đến 15 tháng 4 hàng năm, tùy theo quốc gia.

Theo truyền thống Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Hán truyền, ngày này chỉ là ngày kỷ niệm ngày sinh của đức Phật Thích Ca; còn theo Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Tạng truyền thì ngày này là ngày Tam hợp (kỷ niệm Phật đản, Phật thành đạo và Phật nhập Niết-bàn). Ngày lễ Phật Đản, hay lễ Vesak, Tam Hợp, được kỷ niệm vào các ngày khác nhau tùy theo tín niệm từng vùng.

Năm nay lễ Phật đản Vesak LHQ tổ chức ở Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 5 năm 2025. Đây là sự kiện rất có ý nghĩa với cả đất nước con người Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.

Nếu mùa xuân là nguồn cảm hứng vô biên, nguồn thi liệu bất tận để các tao nhân mặc khách tha hồ tưởng tượng, lặn hụp, bay bổng; mùa thu lắng đọng, dịu êm với trăng thanh gió mát, tiết khí trong lành, làm cho tâm hồn người êm ả yên bình và tĩnh lặng, thì mùa Phật đản sẽ làm cho muôn triệu trái tim của người con Phật trên khắp năm châu bốn biển rung lên theo nhịp thở với mong ước tất cả mọi loài chúng sinh sớm được an vui giải thoát như tâm nguyện thiết tha của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế.

Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì một mục đích duy nhất: giải trừ tất cả những khổ đau, phiền não, vô minh của tất cả chúng sinh, đưa chúng sinh đến miền đất an lành, hạnh phúc, giải thoát chân thật và miên viễn.

Đức Phật là người duy nhất thấy rõ nguồn gốc khổ đau của tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng. Đức Phật cũng là người duy nhất biết được con đường dẫn chúng sinh thoát khỏi biển khổ trầm luân đến bến bờ an vui giải thoát. Trừ đức Phật ra, không một ai thấu rõ được những chân lý này. Người có trí tuệ lớn nhất, thấu rõ bản chất thật của mọi sự vật hiện tượng trên đời này, là đức Phật, người có phước đức lớn nhất trên đời cũng là đức Phật.

Chúng ta phải nên tự hào vì chúng ta là phật tử, là con Phật. Chúng ta luôn hãnh diện vì chúng ta là học trò của bậc Đại giác ngộ. Không những thế, chúng ta còn phải giờ giờ khắc khắc nghĩ nhớ đến Phật, nghĩ đến công ơn cao dày của đức Phật và mong mỏi làm được một việc gì đó thiết thực để báo đáp thâm ân của bậc Thiện Thệ nhân mùa Phật đản sắp về.

Đức Phật đã vì chúng sinh, vì chúng ta trải qua không biết bao nhiêu thử thách chông gai, vượt không biết bao nhiêu chướng nạn hiểm nguy, chịu không biết bao nhiêu khó khăn gian khổ. Ân đức ấy trời cao khó sánh, biển rộng khôn lường, chúng ta dù trải qua trăm kiếp ngàn đời cũng không bao giờ đền đáp được trong muôn một.

Phật đản sanh thời thời khắc khắc

Mừng ngày Phật đản Vesak Liên Hiệp Quốc 2025
Lễ Phật đản Vesak LHQ tổ chức ở Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 5 năm 2025. Đây là sự kiện rất có ý nghĩa với cả đất nước con người Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.

Sự ra đời của đức Phật là một minh chứng vô cùng sinh động và hùng hồn cho một chân lý lớn: con người hoàn toàn có khả năng đoạn trừ hết mọi khổ đau, đạt được an vui hạnh phúc mãi mãi. Đức Phật vốn là một người bình thường, sinh ra trong bào thai nhờ tinh cha huyết mẹ hợp lại mà thành. Ngài cũng có cha có mẹ, có vợ có con, và cũng từng bị những khổ đau bức bách. Nhưng nhờ không ngừng nỗ lực học hỏi, rèn luyện và tu tập thiền định đạt đến đỉnh điểm của giá trị đạo đức, phát huy công năng trí tuệ tới mức tối đa, tức là nhờ khai mở và phát huy hết tiềm năng to lớn của bản thân, thấu rõ thật tính của vạn pháp, bản chất của mọi thứ, đức Phật đã đạt đến an vui và tự tại một cách trọn vẹn.

Ý nghĩa nhân văn cao nhất về giá trị chân thật của con người phải đợi đến khi đức Phật ra đời thì nhân loại mới có cái nhìn thật sự đúng đắn. Với trí tuệ sáng suốt, thấu rõ mọi sự thật, đức Phật chỉ ra, tất cả mọi người đều có đầy đủ đức tướng và trí tuệ của Như Lai, có khả năng phát huy trí tuệ và đạo đức của bản thân đến mức cao nhất, có thể phát huy tiềm năng to lớn của mình, hướng tới cuộc sống tốt đẹp nhất. Tức là đức Phật đã cho chúng ta một niềm tin mạnh mẽ về một tương lai tốt đẹp. Niềm tin này không phải mơ hồ, mà đặt trên nền tảng vững chắc của trí tuệ. Niềm tin và hy vọng là những thứ quan trọng cần có của con người khi đối diện với nghịch cảnh, để tiếp tục sống và vươn lên. Lời xác quyết của Đức Phật như tiếp thêm niềm tin và năng lượng giúp chúng ta thiết lập một cuộc sống tốt đẹp.

Thật sự đức Phật đã thổi một luồng sinh khí vào trong đời sống con người, đem ánh sáng trí tuệ vào nơi vô minh tăm tối, mở ra con đường tươi sáng đến cõi nhân thiên, chỉ hướng vào Niết-bàn tịch tĩnh. Khi Phật còn tại thế, tại Ấn Độ có nhiều tôn giáo, nhiều chủ thuyết khác nhau, nhưng chỉ có Đức Phật mới lấy toàn thể nhân loại làm đối tượng truyền giáo. Niết-bàn, giải thoát mà đức Phật đề cập, không phải đợi sau khi chết mới đạt được, mà có thể chứng nghiệm và cảm nhận ngay trong giây phút hiện tại.

Với 49 năm thuyết pháp độ sinh không mệt mỏi theo Đại thừa (theo Nguyên thủy là 45 năm), hơn 300 hội, hàng vạn bài kinh,  khoảng 84 000 pháp tu được kiết tập trong Tam tạng thánh giáo là gia tài trí tuệ vô giá của chư thiên và nhân loại

Lời dạy của đức Phật, nếu được thực hành đúng đắn, sẽ giúp cho con người cắt đứt những sự trói buộc của tham lam, dục vọng, đạt được thanh thản, thoải mái và tự tại. Ngay đó chính là cảnh giới giải thoát chân thật. Cho nên, nếu nói đến giải thoát theo lời Phật dạy mà không có lợi ích gì cho cuộc sống nhân loại thực tế, không có giá trị gì đối với thế giới hiện thực thì sẽ trái ngược với Chính pháp của Thế Tôn.

Nhờ đức Phật chúng ta mới thấy rõ, giá trị lớn nhất của đời người là trí tuệ và phước đức, không có gì giá trị chân thật, bền vững và miên viễn hơn phước đức và trí tuệ. Hiểu thấu được chân lý này, chúng ta mới thấy hết được ý nghĩa làm người của chúng ta. Từ đó, ta mới ngộ ra, sự nghiệp lớn nhất, cũng là chân thật nhất của đời người cũng chính là sự nghiệp tô bồi, vun đắp phước đức và trí tuệ của bản thân chúng ta. Chúng ta hiểu được điều này một cách sâu sắc và chắc chắn, chúng ta sẽ xác định được mục tiêu, lý tưởng sống của cả cuộc đời chúng ta.

Một trong những nguyên nhân gây nên bất ổn cho con người hiện nay là, dù không nói rõ ra, nhưng vô hình chung xem tiền tài vật chất là thước đo của mọi giá trị, mà hệ quả của nó là phẩm chất con người ngày càng trượt dốc nghiêm trọng. Thế giới này sẽ thật sự văn minh hơn, nếu xem trí tuệ và đạo đức như đức Phật đã nói, là tiêu chí xác định giá trị con người. Đã đến lúc, nhân loại cần xác định lại tiêu chí chân thật mà con người hướng đến để xây dựng một nền văn minh đúng nghĩa trong thời hiện đại, khi những bất ổn trong đời sống xã hội ngày càng lộ rõ.

Nền văn minh mà nhân loại cần xây dựng phải lấy trí tuệ và đạo đức làm giá trị nền tảng, hướng đến phát triển cả đời sống tinh thần lẫn đời sống vật chất cho toàn nhân loại. Chỉ với năm điều (ngũ giới), hay sáu phép hòa kính (lục hòa) do đức Phật dạy cho Phật tử, nếu được áp dụng rộng rãi trong đời sống nhân loại trên toàn thế giới thì chắc chắn sẽ giải quyết được rất nhiều những vấn đề bất ổn, nan giải hiện nay, nhất là vấn đề chiến tranh, bạo động và tâm lý bất an.

Kỷ niệm ngày Đản sinh của đức Phật, ngày Vesak năm 2025 một cách thiết thực và ý nghĩa nhất là, mỗi người con Phật trên khắp hành tinh, không luận là xuất gia hay cư sĩ tại gia, cùng nhau cố gắng nỗ lực thực hành lời dạy của Phật và hết lòng, hết sức đem những lời giáo huấn của đức Phật đến với nhiều người nhất, để có nhiều người nhất hưởng được sự lợi ích từ lời dạy của Phật.

Mong rằng, những ai đã được nghe lời dạy của Phật, thì hãy nhanh chóng thực hành, vận dụng vào trong đời sống của mình, để làm cho cuộc sống của bản thân và gia đình ngày càng tốt đẹp và thăng hoa. Những ai đang sống trong đêm trường khổ đau, mà chưa từng được nghe lời dạy của Phật thì hãy gấp rút tìm đến với Phật pháp, chắc chắn ta sẽ gặt hái được rất nhiều điều bổ ích, giúp chúng ta vượt qua khổ đau, đạt đến an lạc.

Mùa Phật đản – Vesak LHQ năm nay sẽ là mãi mãi trong trái tim chúng ta, khi chúng ta luôn luôn khắc ghi mấy lời Phật nói, như là kim chỉ nam trong đời sống: “Không làm các điều ác, siêng làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, là lời chư Phật dạy”.

Những điều này nghe ra chừng rất đơn giản, nhưng giá trị của nó là không thể đo đếm được cho nhân loại trong hiện tại cũng như tương lai.

Tài liệu tham khảo:

  • 1. Bộ A Hàm
  • 2. Bộ Nikaya
  • 3. Bộ Từ điển Phật học Phật Quang
  • 4. Kinh Đại bát niết bàn
  • 5. Kinh Hoa Nghiêm
  • 6. Đại Phật sử
  • 7. Bộ Đại Bảo tích

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phật học.

Bài phát biểu của Chủ tịch nước Lương Cường tại Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025

Khoảng 7h45, Chủ tịch nước Lương Cường và Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tiến vào Đại giảng đường Minh Châu.

Đoàn đại biểu trong nước cũng có sự hiện diện của Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên, Phó thủ tướng Mai Văn Chính. Về phía đại biểu quốc tế, Ban tổ chức vinh dự đón tiếp Tổng thống Sri Lanka Anura Kumara Dissanayake.

Bài phát biểu của Chủ tịch nước Lương Cường tại Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025
Chủ tịch nước Lương Cường phát biểu khai mạc Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2025

Dưới đây là nội dung bài phát biểu của Chủ tịch nước Lương Cường tại Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025:

– Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam;

– Thưa các vị nguyên thủ các quốc gia, lãnh đạo các Chính phủ, các tổ chức quốc tế; 

– Thưa chư tôn đức giáo phẩm đại diện Phật giáo các nước, các tông phái Phật giáo trên thế giới, cùng quý chư tôn đức giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Việt Nam; 

– Thưa quý vị đại biểu; đồng bào, Phật tử trong và ngoài nước; 

Hôm nay, trong không khí trang nghiêm của Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam, tôi xin nhiệt liệt chào mừng sự có mặt của các vị nguyên thủ các quốc gia, lãnh đạo các Chính phủ, các tổ chức quốc tế và đông đảo quý vị chư tôn đức giáo phẩm đại diện cho Phật giáo trên toàn thế giới, cùng quý vị đại biểu, đồng bào, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở ngoài nước. Sự hiện diện của quý vị là biểu hiện sinh động của tinh thần đoàn kết, từ bi và hòa hợp – những giá trị cốt lõi mà Đức Phật đã để lại cho nhân loại. Trước hết, tôi trân trọng gửi tới tất cả quý vị lời chào thân thiết, lời chúc tốt đẹp nhất trong tình thân ái và đoàn kết; chúc Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 lần thứ 4 được tổ chức tại Việt Nam sẽ thành công tốt đẹp. 

Thưa các quý vị! 

Đức Phật ra đời cách đây hơn 2.600 năm, những giá trị cốt lõi của giáo lý Từ bì – Trí tuệ mà Ngài truyền dạy vẫn vẹn nguyên ý nghĩa đối với nhân loại hôm nay. Tinh thần từ bi, khoan dung, độ lượng, vị tha và sẻ chia mà Đức Phật khai thị đã, đang và sẽ mãi là nguồn cảm hứng trong hành trình kiến tạo một thế giới hòa bình, an lạc và phát triển bền vững. 

Đại lễ Vesak – ngày kỷ niệm ba sự kiện trọng đại trong cuộc đời Đức Phật: Đản sinh, Thành đạo và Nhập Niết-bàn – sự kiện đặc biệt này không chỉ có ý nghĩa đối với hàng triệu tín đồ Phật tử trên toàn thế giới, mà còn là dịp để mọi người cùng chiêm bái và lan tỏa những giá trị cao đẹp của đạo Phật: từ bi, trí tuệ và hòa bình. 

Ở Việt Nam, Đại lễ Vesak là sự kiện tôn giáo quốc tế lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với đồng bào Phật tử và người dân có cảm tình với Phật giáo trên toàn thế giới, trong đó có Giáo hội Phật giáo, đất nước và con người Việt Nam. 

Chúng tôi hoan nghênh và đánh giá cao chủ đề Đại lễ Vesak 2025: “Đoàn kết và bao dung vì nhân phẩm con người: Tuệ giác Phật giáo vì Hòa bình thế giới và Phát triển bền vững”. Đây là một thông điệp có ý nghĩa sâu sắc trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức như xung đột, bất bình đẳng, biến đổi khí hậu và khủng hoảng đạo đức xã hội. Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 rất có ý nghĩa khi được tổ chức đúng dịp Việt Nam vừa long trọng Kỷ niệm 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và hướng tới Kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 

Thưa các quý vị! 

Việt Nam là một đất nước có truyền thống Phật giáo lâu đời, gắn bó sâu sắc với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong suốt hơn 2.000 năm qua, Phật giáo đã trở thành một phần không thể tách rời của đời sống văn hóa, tâm linh người Việt. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, Phật giáo Việt Nam luôn nêu cao tinh thần “hộ quốc an dân”, Đạo pháp luôn đồng hành cùng Dân tộc. Những giá trị như lòng yêu nước, tỉnh thần khoan dung, ý thức hướng thiện của Phật giáo đã thấm sâu vào tâm hồn người Việt và góp phần hun đúc bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. 

Ngày nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đang tiếp nối truyền thống đó, tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hàng vạn Tăng Ni, Phật tử trên mọi miền đất nước không chỉ tinh tấn tu học, hoằng dương Chính pháp, mà còn đi đầu trong nhiều hoạt động ích nước lợi dân, như qua các việc làm từ thiện, an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, cứu trợ đồng bào bị thiên tai, tham gia bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng… đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và phát triển bền vững ở Việt Nam, giúp cho đạo và đời hòa quyện, hướng tới hạnh phúc chung. 

Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn đánh giá cao và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tôn giáo, trong đó có Phật giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và coi đó là nền tảng quan trọng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Hiện nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đại diện cho Tăng Ni, Phật tử cả nước, đã thể hiện tốt vai trò của mình trong việc hướng dẫn tín đồ tu hành, sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp vào sự phát triển của đất nước và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Việc Giáo hội Phật giáo Việt Nam đăng cai Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc năm 2025, cho thấy Phật giáo Việt Nam không chỉ gắn bó với dân tộc, mà còn đang tích cực đóng góp vào các hoạt động Phật giáo quốc tế. Các Tăng Ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục chung tay cùng Tăng Ni, Phật tử thế giới phụng sự Đạo pháp và nhân loại, vì mục tiêu chung là hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Thưa các quý vị!

Tình hình thế giới hiện nay và những năm tới, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; song, đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như chiến tranh, xung đột, biến đổi khí hậu, bất bình đẳng, đói nghèo và những hệ lụy của thiên tai, dịch bệnh toàn cầu. Siêu bão Yagi mà Việt Nam và một số quốc gia trong khu vực phải gánh chịu, hay động đất ở Myanmar, Thái Lan vừa qua, một lần nữa cảnh báo mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của thiên tai và biến đổi khí hậu đối với sự phát triển bền vững của thế giới. Những thách thức ấy kêu gọi chúng ta càng cần tăng cường đoàn kết, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau, chung tay cùng hành động, nỗ lực vì một thế giới hòa bình, phát triển bền vững và vì phẩm giá con người. 

Chủ đề của Đại lễ Vesak năm nay đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Liên Hiệp Quốc đối với hoạt động mang tính xã hội rộng rãi, vì một thế giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Phát huy tinh thần khoan dung, hòa hợp, nhân ái và từ bì mà Đức Phật đã trao truyền, để cùng nhau xây dựng thế giới “hòa bình an lạc”. Đây là nền tảng vững chắc để vươn tới sự ổn định trong xã hội, tìm lại bình yên giữa thiên nhiên, môi trường sống. Chủ đề Vesak 2025 cũng phản ảnh khát vọng và tầm nhìn thời đại, khi liên kết các giá trị Phật giáo với các sáng kiến toàn cầu như mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc. Ý nghĩa của Đại lễ năm nay được tổ chức tại TP.HCM càng trở nên sâu sắc, ngay sau khi Việt Nam tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước – một biểu tượng sống động của khát vọng hòa bình, hòa hiếu, của hành trình dân tộc Việt Nam vượt qua chia cắt và hận thù, gác lại quá khứ để hướng tới một tương lai đoàn kết, hòa hợp, tốt đẹp và thịnh vượng. 

Thưa các quý vị! 

Với vai trò là nước chủ nhà, chúng tôi mong và tin Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 được tổ chức tại Việt Nam lần này sẽ thành công tốt đẹp; các đại biểu sẽ chia sẻ nhiều kinh nghiệm hữu ích, tham gia đóng góp tích cực đối với các nội dung theo chủ đề của Đại lễ; đồng thời, có những trải nghiệm thực tế để hiểu hơn về đất nước và con người Việt Nam. Thông qua trí tuệ Phật giáo để xây dựng tương lai thế giới hòa bình, nhân ái và phát triển bền vững hơn… Đức Phật dạy, hòa bình thật sự đến từ nội tâm thanh tịnh, vì vậy, chỉ có vun đắp hòa bình thông qua sự chuyển hoá niềm tin của từng cá nhân, từ đó dẫn đến chuyển hóa niềm tin của toàn xã hội. 

Tôi đề nghị, chúng ta cần đưa tâm Từ bi vào chính sách, mang Trí tuệ vào định hướng phát triển, đề cao tinh thần Vô ngã – Vị tha, tức là làm việc gì cũng không vì bản thân mình mà luôn nghĩ đến lợi ích của đại chúng. 

Với tinh thần đó, thay mặt cho nước chủ nhà của Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025, một lần nữa, tôi xin chào đón các quý vị trong niềm vui và đoàn kết; chúc các quý vị sức khỏe, có một mùa Vesak an lạc trong ánh từ quang của Đức Phật và trong niềm tin vào một tương lai tươi sáng hòa bình, hạnh phúc cho toàn thể nhân loại. 

Xin trân trọng cảm ơn.

Bốn nỗi khổ tinh thần theo lời Phật dạy

Khổ không phải tự dưng mà có, chính tập đế là những cội gốc của phiền não, là tập nhân tạo thành nên quả khổ. Cội gốc phiền não đó còn được gọi là căn bản phiền não.

Trong đạo Phật đau khổ gây ra bởi tham sân si, mà tham sân si do từ vô minh mà phát triển và lớn lên.

Trong đạo Phật đau khổ gây ra bởi tham sân si, mà tham sân si do từ vô minh mà phát triển và lớn lên.

Yêu thương xa lìa khổ

Kế đến còn bốn thứ khổ về tâm nữa, tổng cộng vừa thân tâm là tám thứ. Nếu kể tiếp theo thì thứ năm là “yêu thương xa lìa khổ”: khổ do thương mến nhau mà phải bị mất mát, xa lìa. Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.

Sanh ly khổ: Một gia đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng bì hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy ra như giặc giã, bão lụt, hỏa hoạn… làm cho kẻ ở đầu này trông đợi, người ở góc kia nhớ chờ. Thật đau lòng xót dạ tiếc thương!

Điều này trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc, ta càng thấy rõ.

Biết bao thanh niên xa gia đình người thân dấn thân nơi chiến trận chết chóc đau thương không ngày gặp mặt. Người ở nhớ thương, kẻ đi sầu khổ não nề … Ái nhiều thì khổ nhiều, nếu không có ái thì khổ không thành. Khổ này gốc từ tham ái mà ra. Do khao khát, mong muốn được sống gần người mình thương yêu mà phải xa lìa cho nên khổ. Ðó là cái khổ của “Sinh ly”.

Chết vĩnh biệt khổ: Nhưng mặc dù xa cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ, chứ chết rồi bao thuở mới được vum vầy! Chính vì vậy, đứng trước cảnh chết chóc đau thương, kẻ ở người đi thương tiếc ngậm ngùi. Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có người đau đớn, khổ sở cho đến tuyệt vọng muốn chết theo người quá cố.

Phật dạy khổ vui trong đời sống ngũ dục

Trong bốn hiện tượng của vô thường; sinh, già, bệnh, chết thì “chết” là cái làm cho mọi người lo lắng sợ hãi nhất. Những người không được may mắn nên bị bịnh nan y như ung thư, bịnh hủi, sida sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống đời mà thôi. 

Chúng ta thấy một người bệnh khi hấp hối bị hành hạ xác thân đau đớn trong khổ sở rồi mới biết cái chết là đáng sợ. Người sắp chết, mệt mỏi thở không ra hơi, méo miệng, uốn mình, giăng tay, bẻ chân… Chúng ta thử rờ vào người chết, thì thấy lạnh ngắt như đồng, thân thể cứng đơ như khúc gỗ.

Con người đang trong cảnh thương yêu mặn nồng, chẳng ai muốn xa lìa nhưng hoàn cảnh trớ trêu kẻ ở người đi trong nỗi nhớ niềm thương! Cái khổ phải biệt ly đối với hai người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổ phải hội ngộ đối với hai người ghét nhau cũng như thế ấy.

Oán ghét gặp nhau khổ

Ai nắm được chiếc chìa khóa của sự yêu thương và ghét bỏ nhờ biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc

Ai nắm được chiếc chìa khóa của sự yêu thương và ghét bỏ nhờ biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc

Thứ sáu là “oán ghét mà gặp nhau hoài cho nên khổ”. Ngược lại với mến thương là oán ghét. Người mình ghét mà cứ hiện diện trước mặt hoài, ta rất bực bội khó chịu, muốn họ đi đâu cho khuất mắt. Nhưng ngặt nỗi, trên đời này người mình thương thì cứ phải chịu xa lìa, còn kẻ mình ghét thường hay gặp gỡ. Cái khổ oán ghét này gốc từ sân hận mà ra. Do sân hận nên chúng ta rất khổ sở khi làm việc chung với người mà mình oán ghét.

Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất hòa với nhau, cũng đã khổ rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau mãi! Quyết không nói chuyện với nhau, mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng khó chịu.

Oán tắng hội khổ, tức là đối với những người mình không ưa thích hay ghét cay ghét đắng, muốn tránh cho khuất mắt mà không thể tránh được, vì phải làm việc và sống chung với nhau. Trong cuộc đời ai cũng có người mến thương ưa thích, nhưng cũng có người thù hằn ghét bỏ vì một lý do nào đó.

Ngược lại với thương yêu là sự thù hằn, ghét bỏ. Không có gì đau khổ bằng thù ghét mà gặp nhau hoài. Thương và ghét là hai vế đối nghịch nhau, đã thương thì không ghét, đã ghét thì không thương; nhưng vì ta hay ích kỷ, hẹp hòi, nên khi thương không được thì sinh ra thù hằn, ghét bỏ, và từ sự ganh ghét đó mà mình có thể hãm hại người kia bằng mọi cách. 

Thù ghét sẽ làm cho ta xấu xí, khổ đau hơn, vì tâm niệm ích kỷ, oán giận, hờn mát trong lòng, nên lúc nào cũng mong muốn người ấy bị hại, bị khổ, bị mất mát, bị đau thương, thậm chí còn muốn người đó mau chết đi càng sớm càng tốt. Khi ta thù ghét ai, trước tiên ta khổ trước, vì thái độ bực tức không bằng lòng với hiện tại.

Người kia chưa khổ, nhưng ta đã tự tàn phá sắc đẹp của mình, thậm chí có khi ta không giằng được cơn nóng giận, nên đánh đập, hành hạ người thân, vì không biết cảm thông và tha thứ. Ta cứ muốn người kia như bản sao của mình, khác đi một chút thì mình không chịu, mình bám víu, chấp trước, thậm chí nhiều khi mình còn ngoan cố, ép buộc người kia phải làm theo.

Ta bây giờ đâu phải như đứa trẻ khi còn tấm bé, ta đang lớn khôn và trưởng thành, nên khi mất mát hay bị tổn thất vấn đề nào đó, ta phải biết bình tĩnh để suy xét, nhận định. Nhờ vậy, mình không bị mê mờ bởi thói quen ích kỷ, hẹp hòi mà sinh ra thù ghét.

Thế giới con người do không có tình thương chân thật, nên lúc nào cũng oán giận, thù hằn, ghét bỏ nhau mà sinh ra chiến tranh, binh đao, tàn sát, giết hại lẫn nhau không thương tiếc. Có khi ta nhân danh đấng thần linh thượng đế để trừng phạt thiên hạ, tạo ra biết bao nỗi khổ niềm đau, làm tổn hại cho nhau.

Vì ta thương yêu trong ích kỷ, hẹp hòi do không có hiểu biết, nên mình dễ dàng hành hạ, đánh đập người thân khi không làm chủ được cơn sân giận. Ai có tâm niệm thù ghét như thế sẽ không bao giờ tìm được sự an lạc nội tâm, vì trong lòng lúc nào cũng chất chứa bao phiền muộn đau khổ.

Khi ta thương yêu, quý trọng lẫn nhau một cách chân tình, tình thương đó có sự bù đắp lâu dài, nên mình tìm cách bảo vệ và gìn giữ chúng, đến khi cảm thấy bị người phụ bạc, ruồng bỏ, tìm đến người bạn khác, mình cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng giữa chợ đời yêu thương, nên tiếc nuối, khóc lóc, hờn giận và cuối cùng dẫn đến thù hằn, ghét bỏ.

Ái dục gây khổ đau

Một khi ai đã ôm cảm xúc đó vào lòng, thì giống như một lưỡi dao bén đang từ từ cứa vào thân thể, làm ta thất vọng, đau khổ đến tột cùng. Ta không còn sáng suốt nữa mà điên cuồng trong vô vọng. Nếu đã dùng hết cách mà không chuyển hóa được cảm xúc thù ghét, ta phải biết rằng, mình đang rơi vào hố sâu của ngục tù tội lỗi.

Ai dại gì phải chịu như thế trong khi ta có trái tim biết yêu thương, hiểu biết, trái tim tha thứ, biết cảm thông. Ta chỉ nhớ, biết mình như thế thì bao nhiêu cảm xúc oán giận, thù hằn, ghét bỏ không có chỗ ẩn núp. Như ta đã biết, mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, mình có trái tim hoàn hảo và đẹp nhất, tại sao phải tự trói buộc lấy nhau vì tâm niệm thù ghét đó, để làm cho gia đình, người thân, bè bạn không có cơ hội gần gũi, sống yêu thương nhau.

Một khi đã thù ghét nhau rồi thì thế giới bao la sẽ trở thành một góc trời đen tối, nhỏ hẹp. Gặp một người mà ta hằng oán ghét bấy lâu nay muốn tránh xa mãi lại cũng không sao tránh được. Hoàn cảnh này nếu nằm trong gia đình người thân thì lại càng thống khổ hơn nữa.

Thương và ghét là hai điều kiện có thể làm cho con người khổ đau hay hạnh phúc, thương quá sinh nhớ nhung bi lụy cũng khổ, ghét quá mà ngày nào cũng gặp càng khổ hơn. Đúng ra ta rất khó thương một người chưa từng thương mình, có khi họ thù ghét mình và đã làm cho mình đau khổ.

Thương yêu là bản chất của con người, nhưng đa số chỉ thương yêu trong sự ích kỷ, hẹp hòi và có điều kiện, nên không bao giờ có lòng khoan dung, độ lượng, cảm thông và tha thứ. Chính vì sự thương yêu hẹp hòi đó mà dẫn đến ghen tuông, ganh ghét rồi làm khổ cho nhau.

Ai nắm được chiếc chìa khóa của sự yêu thương và ghét bỏ nhờ biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, sống thành thật, biết sẻ chia và quý kính, tôn trọng lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống, thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.

Mong cầu không được như ý khổ

Thứ bảy là “mong muốn mà không được như ý khổ”. Những gì mình muốn mà không được thì khổ. Ví dụ đi thi mong muốn được đậu, mà lỡ rớt thì sao? – Khổ quá. Ngoài việc thi cử ra, còn bao nhiêu thứ cầu mong khác nữa. Như trong công việc làm ăn, trong tình cảm… nhiều người muốn tự vận vì cầu mong mà không được toại nguyện. Con người khổ khi không được toại nguyện, như ý do tham muốn, khao khát quá đáng những nhu cầu cần có của bản thân. Chẳng hạn như lúc đói thì muốn có cái ăn cái mặc đầy đủ, lúc no lại muốn giàu sang phú quý có kẻ hầu người hạ.

Ngoài ra còn có những nỗi khổ trong cuộc sống. Ở đời nếu được những việc như ý thì người ta vui, không như ý thì buồn, buồn tức là khổ. Mỗi người chúng ta thử nhìn lại cuộc đời mình xem được nhiều điều như ý hay bất hạnh khổ đau? Người có diễm phúc thì điều bất như ý ít hơn, nhưng tất cả đều có gặp việc bất như ý. Đã bất như ý thì khổ hay vui? Đương nhiên là khổ. Con người chịu khổ khi phải tiếp xúc với những thứ mà không thích hoặc oán ghét.

Người ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề gì, số người được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà kẻ bất như ý, thì không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công. Thế rồi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Dưới đây, xin nêu lên vài thí dụ về những thất vọng mà người đời thường gặp nhiều nhất.  

Thất vọng vì công danh: Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi ngon mà phần đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ giành giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt, nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu danh vọng một cách chánh đáng, bằng năng lực, tài trí, học hỏi của mình. Ðối với những hạng người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng mới được thành công.

Thất vọng vì phú quý: Số người thất vọng vì công danh đã nhiều. Nhưng số người thất vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi mưu gian chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến bị nhục nhã theo, thực là khổ!  

Thất vọng vì tình duyên: Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người phải điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai được toại nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những câu chuyện tình duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật không sao kể xiết. Ðấy là “Cầu không được cho nên khổ”.

Thân năm ấm không hòa hợp nhau khổ
Người biết tiết chế được lòng tham thì cuộc sống an nhàn và thảnh thơi không bị cuộc sống ràng buộc.

Người biết tiết chế được lòng tham thì cuộc sống an nhàn và thảnh thơi không bị cuộc sống ràng buộc.

Điều thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ, tức sự khổ về năm ấm hưng thịnh. Năm ấm là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc ấm thuộc về thân, bốn ấm kia thuộc về tâm hay còn gọi là phần tinh thần.

Điều thứ tám này bao quát bảy món khổ trước: thân thì sanh, già, bịnh, chết, đói, khát, nóng, lạnh, vất vả nhọc nhằn; tâm thì buồn giận, thương ghét, phải quấu, tốt xấu, đúng sai, trăm điều phiền lụy. Khổ do thân năm ấm này chung hợp lại. Vì sự chung hợp này được kết nối bởi các nhân duyên có khuynh hướng trái nghịch, bên trong luôn mâu thuẫn, chống trái nhau. Vì vậy mà khổ. Nhiều người còn trẻ nghe nói thân này khổ không tin, vì họ nghĩ đến tương lai hạnh phúc, làm sao khổ được? Có người nói rằng khi nào xúc chạm phải những điều trái ý mới khổ, nếu xúc chạm những điều như ý thì đâu có khổ. 

Phật nói thân này là gốc của khổ. Tại sao? Tại vì thân này vô thường đổi thay nên rồi ai cũng sẽ già, bệnh và cuối cùng là chết. Quý Phật tử khi ba mươi tuổi ít ai nhớ rằng mình sẽ già chết, mà cứ nhớ hồi còn mười tám, hai mươi. Phật nói thân này biến hoại vô thường cho nên khổ, chớ không có cái vui lâu dài. Thật ra Phật dạy khổ không có nghĩa để chúng ta ôm ấp nỗi khổ đó suốt đời. Phật nói khổ để mình biết rõ nguyên nhân để tìm cách chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Khổ không phải tự dưng mà có, chính tập đế là những cội gốc của phiền não, là tập nhân tạo thành nên quả khổ. Cội gốc phiền não đó còn được gọi là căn bản phiền não. Có sáu thứ: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Sáu thứ này là nhân tạo thành quả khổ cho con người. Nếu ai diệt hết sáu thứ đó sẽ hết quả khổ.

Cho đến ngã mạn tức thấy ta cao, ta quan trọng. Do thấy như thế nên khi sắp mất rất khổ. Bây giờ nếu thấy ta là hư giả, tạm bợ thì có phách lối với ai không, thân này sắp hoại có khổ không? Sở dĩ chúng ta khinh người là vì thấy mình cao quí quá, quan trọng quá. Bây giờ thấy mình là tạm bợ, giả dối thì đâu có gì quan trọng. Không trọng mình nên đâu có khinh người. Rõ ràng chỉ cần chúng ta có một chút trí tuệ thấy đúng như thật, thì khổ về sinh già bệnh chết từ từ sẽ giảm bớt. 

Nếu lý giải bằng trí tuệ thì thật thân này không có gì quan trọng hết. Chẳng qua chỉ là một nhóm nhân duyên tụ hội lại chớ có gì đâu. Nhiều người thường vỗ ngực xưng tôi, nhưng hỏi cái gì là tôi thì trả lời không chạy. Nếu da thịt là tôi thì khi nó bệnh bác sĩ mổ bỏ đi, cái tôi đó thành gì? Chỉ cần da thịt có vết thương hôi thối, lúc đó mình quí hay muốn bỏ? Khi còn lành lặn ta thấy quí, khi nó hư hoại xem không ra gì, bỏ đi không chút thương tiếc. Rõ ràng cái ta không phải những gì mình đang mang đây. 

Lúc nào mình cũng thấy cái ngã là quí là thật nên khổ vì nó. Nếu chúng ta biết cái ngã không thật, không quí thì bỏ nó một cách dễ dàng, không đau khổ tí nào hết. Còn ngã mạn vì thân là còn đau khổ, hết ngã mạn mới hết đau khổ. Đó là năm ấm xí thạnh khổ. Con người vì lòng ham muốn quá mức như giếng sâu không đáy, khi chưa được thì muốn cho bằng được, khi được rồi thì lại sanh nhàm chám muốn tìm thứ khác. Người biết tiết chế được lòng tham thì cuộc sống an nhàn và thảnh thơi không bị cuộc sống ràng buộc.

Kinh bảy cách dứt trừ khổ đau

Từ nghiệp nhân ngu si mê muội, mà nhân loại đã tạo ra từ vô thủy kiếp đến nay nếu chúng ta không có duyên và may mắn gặp được thầy lành bạn tốt thì cuộc đời của ta có thể rơi vào ngõ cụt, đó là một sự thật. Do si mê, tham đắm chấp thân-tâm làm ngã, từ đó muốn chiếm hữu về mình nên suy nghĩ, hành động sai lầm, thấy có ta, người và muôn loài, muôn vật nên bám chấp vào đó. Ý là đầu dây mối nhợ của phiền não, nó thường hay suy tư, nghĩ ngợi nên gọi là ý nghĩ; nó hay nhớ nghĩ về quá khứ hoặc hiện tại gọi là ý niệm; nó hay tưởng tượng, mơ mộng hão huyền nên gọi là ý tưởng và nó có công năng phân biệt, hiểu biết nên gọi là ý thức.

Do phân biệt, hiểu biết sai lầm nên ý thức không rõ được thực tướng của các pháp là vô ngã, không chủ thể cố định, từ đó sinh ra thấy biết sai lầm mà chấp ta, người, chúng sinh. Sự bám víu vào “cái ta” rồi đến “cái của ta” như vợ ta, con ta, nhà ta, tài sản của ta, đất nước của ta. Dưới cái nhìn của người thế gian như thế đâu có gì sai quấy, thế gian này nếu không bám víu vào “cái ta” và “của ta” thì con người sẽ sống ra sao?

Thân này sinh già bệnh chết, mà chúng ta muốn nó không già bệnh chết làm sao được? Chúng ta thường xuyên quán chiếu về thân như thế và luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên, nhờ vậy những tâm niệm tham sân si dần dần rơi rụng bớt theo thời gian cho đến khi, ý không còn suy nghĩ xấu nữa mà hay làm các điều thiện lành và không bám víu vào việc làm tốt đó, thì thành tựu viên mãn công hạnh Bồ tát.