THƯ NGỎ V/v Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo Tượng Đài Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Kính thưa quý Phật tử,
Nam Mô U Minh Giáo Chủ Cứu Khổ Bổn Tôn Cứu Bạt Minh Đồ Đại Thánh Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Kính Bạch chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni
Kính Thưa quý Phật tử thiện nam tín nữ gần xa,
Nhân ngày Vía Bồ Tát Quán Thế Âm 19/09 vừa qua, Chùa Phước Viên H’Bông đã tổ chức Khóa Tu Mùa Thu và đặt đá kiến lập tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát. Vừa rồi, sau Khóa Tu An Lạc Một Ngày 14/10 hoàn mãn, đến Rằm tháng 10, Bổn tự Chùa Phước Viên đã chính thức khởi công giải phóng mặt bằng và múc móng Kiến lập Tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát.
Thời gian qua, Bổn tự đã nhận được những tấm lòng phát tâm Bồ đề cúng dường kiến lập Tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát: TT. Thích Giác Nhàn cúng 100 triệu, quý Phật tử tham dự Khóa Tu An Lạc vừa qua 75 triệu đồng, (đệ tử TT. Giác Nhàn phát tâm 100 triệu, sẽ chuyển cúng vào đầu tháng tới). Gia đình cô Hảo và quý Phật tử Hà Nội cúng sắt và một phần công thợ trị giá 250 triệu, quý Phật tử Chùa Mỹ Thạch, Chùa Phước Viên, và Pleiku… cúng chung khoảng 110 triệu…….
Tổng số tịnh tài Bổn tự đã nhận được là 550 triệu. Dự kiến Công trình Tượng Đài Địa Tạng gần 2 tỉ đồng.
Hiện tại công trình đang thi công và rất cần Xi Măng (tổng công trình khoảng 100 tấn xi măng), xi măng đang làm là xi măng Hoàng Thạch, một bao là 100 ngàn (một tấn là 2 triệu).
Tượng Đài Địa Tạng Bồ Tát là Công trình tâm linh đặc biệt hồi hướng báo hiếu Ông Bà, Cha Mẹ, Cửu huyền Thất tổ, pháp giới chúng sanh: Chúng Sanh Độ Tận Phương Chứng Bồ Đề, Địa Ngục Vị Không Thệ Bất Thành Phật, Đại Từ Đại Bi, Đại Thánh Đại Nguyện, Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát…
Bổn tự rất mong được đón nhận sự phát tâm cúng xi măng từ quý Tôn đức và quý nam nữ Phật tử gần xa. Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát.
H’Bông ngày 19/10/Quý MãoTrụ Trì Chùa Phước Viên Đại Đức Thích Quảng Phước
Quý Phật tử phát tâm cúng dường có thể gửi trực tiếp tại bàn trực khách, văn phòng Ban liên lạc hoặc thông qua số tài khoản của chùa: Tiếp nhận thông qua số tài khoản:
Ngân hàng: Vietinbank
Tên chủ tài khoản: NGUYEN TAN LOI (Đại Đức Thích Quảng Phước)
Số tài khoản VNĐ: 1008 6212 8777
SWIFF: ICBVVNVX182
Nội dung chuyển khoản: PTXMHPKT (Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo)
Xin cảm niệm công đức mọi sự quan tâm và đóng góp về vật chất lẫn tinh thần quý phật tử dành cho Phật Giáo Chư Sê. Mọi sự phát tâm cúng dường sẽ được nhà chùa phương danh sau khi khóa tu kết thúc. Nguyện cầu mười phương chư Phật gia hộ cho quý Phật tử thân an tâm lạc, vạn sự kiết tường, sở cầu sở nguyện đều được như ý.
Đức Thế Tôn trong kinh Niệm Phật Ba La Mật thuyết: “Tam bảo là chỗ về nương tựa của muôn loài, là ngọn đèn phá tan mọi hắc ám, là con thuyền đưa chúng sinh qua thấu bờ bên kia.”
Tam bảo là gì?
Nhân loại thường cho vàng bạc, ngọc ngà châu báu hay quyền cao chức trọng là quý. Nhưng thử hỏi khi gặp chuyện mất mát đau thương, quyến thuộc xa lìa hoặc bị giặc cướp, bệnh tật trầm kha… thì các thứ ấy có thể làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau cho ta được hay không?
Phật là con người đã hoàn toàn tự tại, giải thoát nhờ phước huệ song tu với tinh thần vô ngã vị tha. Pháp là những lời dạy chân chính của Phật qua sự trải nghiệm trong tu chứng nên thấy rõ chúng sinh sống chết luân hồi đều do mình tạo lấy. Tăng là những người truyền thừa thay Phật hoằng dương Chánh pháp, sống trong tinh thần Lục hòa, đoàn kết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần chia vui sớt khổ, phục vụ vì lợi ích chúng sinh.
Tăng là những người hiến trọn đời mình cho mục đích trên cầu thành Phật, dưới hoằng hóa độ sanh vì lợi ích con người. Nhờ có chư Tăng, Ni thay Phật hoằng truyền những lời dạy của Ngài khiến cho Chánh pháp được mở mang rộng rãi đến với tất cả mọi người. Những ai hấp thu được tinh ba của Phật pháp sẽ ngày càng được an vui, hạnh phúc hơn và sẵn sàng an ủi, sẻ chia, giúp đỡ tha nhân vì tình người trong cuộc sống.
Nhưng Tăng cũng có nhiều loại, đại khái lược có ba là Bồ Tát Tăng, Thanh Văn Tăng và Phàm Phu Tăng. Đây là Tăng bảo chân chánh xứng đáng được mọi người y chỉ tu học và tôn kính cúng dường.
Chúng ta nên hiểu đúng về Tam Bảo
Phật tùy duyên giáo hóa và đã nhập Niết bàn, nay chỉ còn lại những lời vàng ngọc của Ngài. Chư Tăng thay Phật truyền trì Chánh pháp, hiến trọn đời mình cho sự nghiệp vì lợi ích chúng sinh.
Tăng phàm phu là những người chân thật nguyện hiến đời mình cho lý tưởng giác ngộ và giải thoát, đang kế thừa con đường Phật đạo, tuyên dương Chánh pháp giúp cho mọi người bớt khổ thêm vui, luôn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Phàm phu Tăng tuy chưa thành tựu đạo quả nhưng vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn mọi người biết cách dứt ác làm lành nhờ tin sâu nhân quả nên chính vì vậy ai phát tâm cúng dường phàm phu Tăng vẫn được phước báo không thể nghĩ bàn.
Thực tế trong cuộc đời này phàm phu Tăng là số đông gần gũi với chúng ta nhất. Phàm phu Tăng chân thật tu hành thuyết pháp độ sanh mang tinh thần của các vị thánh Tăng Bồ Tát và thánh Tăng Thanh Văn.
Phàm phu Tăng là số đông nên quý Phật tử dễ gần gũi và tiếp cận hơn, chúng ta vẫn học hỏi được những điều hay lẽ phải để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày.
Nói tóm lại, tin sâu Tam Bảo là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Khi chúng ta tin thì không nên thần tượng hóa vì thần tượng hóa dễ sụp đổ và mất tín tâm. Ta chỉ thấy thầy mình hay, thầy mình giỏi nên dễ dẫn đến tư tưởng phê bình, chỉ trích người khác, do đó làm mất đi sự hoà hợp trong Tăng đoàn gây sự chia rẽ.
Tăng là đoàn thể sống trong an vui, hòa hợp. Vì lợi ích số đông mà nhiều người cùng sống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết với tinh thần vô ngã vị tha.
Quy y Tam Bảo, ý nghĩa và tầm quan trọng
Trong cõi đời vô thường này mới thấy đó nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh mà nay đã tán gia bại sản, cửa nát nhà tan, con cái chia lìa. Duy chỉ có Tam bảo Phật-Pháp-Tăng mới giúp chúng ta vượt qua biển khổ sông mê, vươn lên vượt qua số phận tối tăm để làm mới lại chính mình bằng cách dứt ác làm lành, giữ tâm ý trong sạch nên mới gọi là ba ngôi báu.
Tam bảo là ngọn đèn sáng giúp cho con người vượt qua si mê, tối tăm, mờ mịt. Tam bảo có khả năng chuyển hóa phiền não, khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Nhờ Tam Bảo ta biết được điều hay lẽ phải, biết rõ sự thật cuộc sống con người và muôn loài vật đều phải nương nhờ vào nhau mới bảo tồn mạng sống.
Chính vì vậy, người Phật tử chân chính cần phát triển lòng từ bi thương yêu bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Do đó, Tam bảo Phật-Pháp-Tăng như ba viên ngọc quý không gì có thể so sánh được. Và Tam bảo có sáu ý nghĩa không thể nghĩ bàn:
Một là nghĩa hy hữu, tức là hiếm có, khó được như vàng bạc, kim cương, ngọc quý… người nghèo không thể có được. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, dù người ở sát bên chùa nhưng thiếu phước cũng khó gặp, không thể thân cận với Tam bảo để tu học nên gọi là hy hữu.
Hai là nghĩa ly cấu, tức lìa xa những việc xấu ác mà hay làm những việc thiện lành, tốt đẹp như ngọc ma ni trong sáng, sạch đẹp không tỳ vết, khó vấy bẩn. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, giúp cho chúng ta xa lìa phiền não tham-sân-si nên gọi là ly cấu.
Ba là nghĩa thế lực, như châu báu ở thế gian có thế lực lớn giúp con người vượt qua nghèo khó, còn có thể dùng để trị bệnh trúng độc. Tam Bảo cũng lại như thế, có đủ Tam minh Lục thông tùy cơ ứng biến dứt kiếp nghèo khổ, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi nên gọi là thế lực.
Bốn là nghĩa trang nghiêm, như châu báu ở thế gian làm đồ trang sức cho thân thể trở nên xinh đẹp, lộng lẫy, ai cũng muốn ngắm nhìn. Tam Bảo cũng lại như vậy, lấy nhân quả, nghiệp báo, nhân duyên làm nền tảng để giúp con người làm chủ bản thân, tâm trí trở nên sáng suốt, thanh tịnh, làm việc chân chính nên gọi là trang nghiêm.
Năm là nghĩa tối thắng, như châu báu ở thế gian quý hơn tất cả mọi vật nhưng xét cho cùng không quý bằng mạng sống con người. Tam Bảo cũng lại như vậy, là pháp thù thắng hơn hết có khả năng giúp đỡ mọi người vượt qua biển khổ sông mê, sống an vui, bình yên và hạnh phúc nên gọi là tối thắng.
Sáu là nghĩa bất biến (không thay đổi), như vàng ròng ở thế gian dù đập, nấu, mài, dũa vẫn không thay đổi bản chất. Tam Bảo cũng lại như vậy, người thân cận Tam Bảo tất được an vui, bình yên, hạnh phúc nhờ sống trở lại Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý nên không bị vô thường chi phối, nước không thể cuốn trôi, lửa không thể thiêu đốt, do đó gọi là bất biến.
Hằng năm cứ mỗi độ xuân qua hạ về, ngàn muôn đóa bạch liên khoa sắc, vạn ức hồng liên tỏa hương thơm ngát là hàng trăm triệu người con Phật khắp mọi nơi trên thế giới hân hoan đón mừng một sự kiện vô cùng quan trọng trong Phật giáo, sự kiện đức Phật đản sanh kéo dài hàng tuần lễ gọi là tuần lễ Phật đản (từ mùng 08 đến 15 tháng tư âm lịch).
Vào những ngày này khắp mọi quốc gia Phật giáo trên thế giới: Từ cao nguyên thanh tạng nóc nhà thế giới ngàn năm tuyết phủ của Tây Tạng huyền bí, cho đến hải đảo phù tang rợp bóng anh đào của quốc gia Nhật Bản; từ đại lục Trung Hoa mênh mông cho đến quốc đảo sư tử giọt lệ đài trang của nước Tích Lan yên bình; từ đại ngàn đầy nắng gió của quốc gia Miến Điện cho đến đất kinh kì triệu voi nước Lào; từ đại lục xứ Ấn trầm hùng quê hương Phật giáo cho đến quốc gia duyên hải hình chữ S thân yêu nước Việt mến thương… trong các tự viện, chùa chiền, tịnh xá… đều long trọng tổ chức đại lễ Phật Đản cờ hoa muôn phương, phướng lọng rợp trời… cho đến nhiều nhà dân Phật tử cũng treo đèn kết hoa, biểu ngữ, trên các nẻo đường nhiều khi còn có cả xe hoa, kiệu hoa, thuyền hoa… tạo nguồn sinh khí an lành, mang nguồn an vui hạnh phúc đến cho nhân loại.
Sự hình thành xe hoa, kiệu hoa rước Phật trong ngày Phật đản
Nguồn gốc ý nghĩa về đại lễ Phật Đản phần lớn mọi người đều biết đến, nhưng ý nghĩa sự hình thành xe hoa, kiệu hoa rước Phật trong ngày Phật đản lại ít người được tri tường.
Ngược dòng thời gian xuôi về quá khứ với gần ba ngàn năm về trước, tại một vùng bình nguyên rộng lớn của dãy Hy mã lạp sơn có một quốc gia hùng cường thanh bình thịnh trị mang tên Ca-tỳ-la-vệ, dưới sự trị vì của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma-ya. Lịch sử Phật giáo ghi rằng: Vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-ya tuổi ngoài bốn mươi vẫn chưa có con nối dỗi…
Vua và hoàng hậu hằng ao ước, cầu nguyện, làm bao điều phước thiện hằng mong có một người con tiếp nối điện ngọc, ngai vàng… Một đêm nọ hoàng hậu Ma-ya nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà khai hông bên hữu đi vào trong bụng, chợt mình tỉnh giấc thấy người khoan khoái an lạc vô cùng biết mình có mang thánh thai. Các nhà tiên tri, đạo sĩ đều cho biết rằng Hoàng hậu sẽ sớm sanh một hoàng thái tử tài trí siêu việt, lớn lên sẽ trở thành một bậc đế vương cai trị cùng khắp bốn châu thiên hạ…
Gần đến ngày sanh hạ, theo phong tục bấy giờ, Hoàng hậu đã xin phép vua Tịnh Phạn và hoàng gia về lại quê hương mình đợi ngày sinh hạ. Trên đường về lại quê hương vua Thiện Giác (Vua cha của mình), giữa đường đến một hoa viên tú lệ tên Lâm-tỳ-ni, muôn hoa khoe sắc, muôn chim ca hót, hương thơm ngạt ngào… Hoàng hậu cho đoàn tùy tùng dừng bước thưởng ngoạn cảnh sắc tuyệt vời của hoa viên, lúc dạo chơi đến gốc cây tên gọi Vô-ưu, hoa thơm lạ thường, sắc đẹp huyền ảo, Hoàng hậu vừa đưa cánh tay phải lên hái đóa hoa Vô-ưu, ngay lúc ấy Thái tử Đản sanh, bước đi bảy bước, có bảy đóa hoa sen đỡ chân …
Thái tử đưa một tay lên chỉ trời, một tay chỉ xuống đất tuyên bố cùng nhân loại: Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn…. Có chín rồng phun nước, chư thiên trỗi nhạc tung hoa cúng dường Thái tử… Sau đó Thái tử nằm trong hoa sen như bao em bé bình thường… Hoàng hậu lập tức cho người báo về hoàng cung, vua Tịnh Phạn liền cho đoàn tùy tùng cùng với những kiệu hoa, xe hoa được kéo bởi đoàn voi ngựa trang nghiêm trọng thể rời hoàng cung đi rước Thái tử và Hoàng hậu từ Hoa viên Lâm-tỳ-ni trở về hoàng cung Ca-tỳ-la-vệ.
Sự kiện này là một sự kiện lịch sử trọng đại đã trở thành hình tượng và ý nghĩa để hàng triệu người con Phật thời sau khắp nơi trên thế giới trang hoàng xe hoađể tái hiện lại hình, kiệu hoa ảnh thiêng liêng: Lễ Rước Phật Đản Sanh.
Lịch sử lễ rước Phật Đản Sanh bằng xe hoa, kiệu hoa có nguồn gốc từ Ấn Độ xa xưa. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, những người con Phật xuất gia và tại gia muốn tái hiện lại hình ảnh rước Phật Đản Sanh từ vườn Lâm-tỳ-ni về thành Ca-tỳ-la-vệ; đặc biệt dưới sự phát tâm hộ pháp của những vị vua Phật tử thuần thành, lễ rước Phật được diễn ra vô cùng trang nghiêm và trọng thể.
Vua A Dục Vương (273-233 BC), sau khi quy ngưỡng về Phật pháp, đã trở thành Hộ Pháp A Dục ủng hộ Phật pháp tuyệt vời, hằng năm không những nhà Vua tổ chức lễ Rước Phật long trọng trang nghiêm, còn ra Chiếu chỉ khắc vào bia đá nhắc nhở thần dân phải tổ chức lễ Rước Phật… Chỉ dụ số 4 của vua A Dục được các nhà Khảo cổ học phát hiện tại Kandaha ghi rằng: “Vào ngày lễ Đản Sanh mỗi năm phải tổ chức trọng thể thiết lập lễ Rước Phật.”
Ngài Pháp Hiển (319-414) người Trung Hoa, gần 16 năm Tây du Ấn Độ đã kể lại lễ Rước Phật tại nước Vu Điền (Khotan, một quốc gia thuộc Ấn Độ cổ) trong tác phẩm Phật Quốc Kí của mình như sau: “Lễ rước Phật từ mùng 01 đến hết tháng tư, lễ rước rất long trọng, xe kiệu nâng Phật cao hơn ba trượng, trang hoàng lộng lẫy…” Ngài Huyền Trang (596-664), gần 17 năm tu học nghiên cứu tại Ấn Độ cũng kể lại lễ Rước Phật tại Ấn Độ xưa trong tác phẩm Đại Đường Tây Vực Kí: “Tại nước Dao Tần (Kucha) lễ Rước Phật được tổ chức cực kì hoành tráng có đến 100 xe hoa nghinh Phật sơ sinh diễu hành trên khắp phố để toàn thể dân chúng được chiêm ngưỡng và lễ bái Phật.”
Lễ rước Phật nhân ngày Phật Đản tại các nước trên thế giới
Tại Trung Quốc và một số quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Nhật Bản…. lễ rước Phật được gọi là lễ Hành Tượng, có nghĩa là dùng các loại xe kiệu trang hoàng lộng lẫy bằng bảy báu, hoa hương, cờ phướng, lồng đèn… chở tượng Phật đi xung quanh khắp phố phường, cung thành… vào dịp lễ Phật Đản. Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm: Thời Đông Tấn (318-420) đã đúc năm tượng Phật Sơ Sinh để rước trong lễ rước Phật. Thời Nam Bắc Triều, Thái Võ Đế nhà Ngụy (408-452) đã có chiếu chỉ thiết lễ rước kiệu Phật, chính vua và hoàng hậu rải hoa cúng dường đoàn xe kiệu rước Phật Sơ Sinh.
Theo sách Phật Tổ Thống Kí, Hiếu Võ Đế nhà Tây Ngụy (467-499) hạ chỉ: “Vào ngày Đản Sanh, các ngôi chùa lớn ở tại Lạc Dương phải trần thiết xe kiệu rước Phật vào cung đình; đồng thời chiếu chỉ quy định mỗi năm phải thiết lễ Phật Đản long trọng như thế, không khí lễ Phật thật hùng vĩ và tưng bừng.” Đặc biệt thời nhà Đường (618-907), thời đại hoàng kim của Trung Hoa, quốc gia hùng cường Phật giáo rất Phát triển, lễ rước Phật được diễn ra càng trọng thể to lớn và linh đình hơn…
Tại xứ sở hoa Anh đào, quốc gia Nhật Bản, từ thời Thánh Đức (574-622), lễ Phật Đản đã được phát triển và thịnh hành, ngoài việc trần thiết xe hoa, kiệu hoa rước Phật đản sanh, các ngôi chùa còn tổ chức phát chẩn, tế bần… đặc biệt là việc phát tâm kết hoa cúng Phật… Ngày nay, ngày Đản sanh đã trở thành ngày cắm hoa, còn gọi là lễ Hội hoa tại quốc gia này.
Tại các nước Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia… ngày lễ Phật Đản, lễ Rước Phật còn tổ chức trọng thể hơn; vì các quốc gia này, ngày Đản sanh còn được kết hợp với ngày lễ đức Phật thành đạo và Niết bàn còn gọi là lễ Tam Hợp, lễ Vesak. Ngày Lễ này đã được cả nhân loại tôn vinh là ngày lễ vô cùng thiêng liêng, lễ Hòa bình, lễ quốc tế Vesak Liên hợp Quốc… và được gần như các nước trên thế giới vinh danh tổ chức tại các trụ sở Liên Hợp Quốc của quốc gia mình từ năm 2000 đến nay.
Chính vì thế, ngày nay vào tuần lễ Phật Đản sanh (khoảng từ mùng tám đến 15 tháng tư âm lịch), tại các nước như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào… lễ Rước Phật được tổ chức trang nghiêm và hoành tráng, từng đoàn người kéo dài hàng vài km với kiệu hoa, xe hoa chở tượng Phật được kéo bởi những thớt voi, trang hoàng lộng lẫy, hương hoa, cờ hoa, phướng lọng, trống chiêng vang vọng khắp phố phường…
Lễ rước Phật nhân ngày Phật Đản tại Việt Nam từ xưa tới nay
Tại Việt Nam, lễ rước Phật cũng có lịch sử gần hai ngàn năm; Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỉ thứ nhất, và còn lưu dấu lại những ngôi chùa cổ kính thăng trầm cùng dân tộc như cùa Dâu, chùa Keo… Sách Ngô Chí có đoạn chép: “…Ở Giao Châu, khi ra đường người ta thường nghe tiếng kiểng, lẫn tiếng trống kèn những người rợ Hồ (chỉ các vị Tăng và Phật tử người Ấn) đi theo thắp hương hai bên có từng đoàn xe có mười người…” Đến triều đại nhà Lý (1009-1225) và nhà Trần (1225-1400), hai triều đại thịnh trị quốc gia thái bình phát triển, Phật giáo đã trở thành Quốc giáo, Phật giáo phát triển hy hoàng các nghi thức Phật Đản, rước Phật cũng đã được tổ chức trang nghiêm trọng thể.
Đại Việt Sử Kí Toàn Thư III, tờ 15A, tr.37: “Vua Lý Nhân Tông sau khi cho xây dựng trùng tu chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), hàng tháng cứ đến ngày Rằm, mùng một và mùng tám tháng tư Phật Đản, xa giá ngự đến đặt lễ Cầu an và nghi thức tắm Phật hàng năm làm lệ thường. Ngoài ra thời bấy giờ có tục nghinh rước Phật Pháp Vân, Pháp Vũ rất linh đình…” Đại Việt Sử Kí Toàn Thư IV, tờ 20B, tr.92 chép: “Đích thân vua Lý Cao Tông đến chùa Pháp Vân nghinh rước Phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên để làm lễ cầu mưa, tục này còn duy trì đến thời Hậu Lê.”
Sách Thơ Văn Lý Trần dịch văn bia Tháp Sùng Thiện Diên Linh đã miêu tả rất chi tiết không khí lễ hội: “Nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an, bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng; tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa…. Sai phụng thường chỉnh đốn kiệu xe, khiến phong bá quét sạch bụi bặm. Khói trầm đàn như mây toả khắp sơn khê, bóng cờ phướng như ráng phô đầy các ngả. Chuông trống vang ầm, khánh tiêu rộn rã. Phía trước xe mây Tam bảo, đằng sau kiệu báu thánh hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung, về hết trẻ già muôn nước. Điện hoa vắt ngang phía trước, chùa Phật mở rộng bên trong. Hội Tăng Ni trai khiết, diễn Giác Đế chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang, đọc kệ đoạn cúi đầu tạ lễ. Cung nga khép nép, nghe kinh xong dâng sữa múa ca…”
Theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo luôn thăng trầm đồng hành cùng dân tộc; từ thuở các vị vua Hùng dựng nước và giữ nước đã có hình ảnh của ông Bụt (Buddha – Phật) truyền dạy tâm ấn giúp Tiên Dung và Chữ Đồng Tử vượt qua những khó khăn thử thách giữa cuộc đời, lập nghiệp giúp dân… cho đến thời Việt Nam thể hiện chủ quyền dân tộc gần như các vị vua anh minh là những Phật tử anh dũng kiên cường tỏa rạng vinh quang dòng giống con Hồng cháu Lạc: Từ Lý Nam Đế (503-548, Vị vua lập nên nhà Tiền Lý, với khai quốc Vạn Xuân) cho đến Ngô Quyền (898-944, vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam, với chiến thắng Bạch Đằng nổi tiếng, kết thúc gần một thiên niên kỷ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam). Từ Đinh Bộ Lĩnh (968-979, dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc, với Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập), đến Lý Công Uẩn (974-1028) khai sinh nhà Lý dời Đô từ Hoa Lư về Thăng Long, mở ra một thời đại vàng son thái bình thịnh trị của dân tộc Việt. Từ Trần Thái Tông, Phật Hoàng Trần Nhân Tông… khai sinh một nền quốc giáo, Phật giáo với danh lam Yên Tử thiêng liêng… một triều đại huy hoàng uy danh của Đại Việt ba lần đại thắng Mông Nguyên… đến các đời chúa Nguyễn tiếp nối chí nguyện Phật hoàng Trần Nhân Tông (mở đất: Châu Ô, Châu Rí – mở mang đất Việt – phụng thờ Phật pháp), với Nguyễn Hoàng được mệnh danh là Chúa Tiên, với Nguyễn Phúc Nguyên mệnh danh là Chúa Sãi, Nguyễn Phúc Lan mỹ danh là chúa Hiền, Nguyễn Phúc Tần danh xưng chúa Nghĩa, Nguyễn Phúc Chu – vị vua Phật tử mỹ hiệu là Chúa Phật….. tất cả đều là những người con anh dũng và uy danh của dân tộc Việt, là đệ tử của đức Phật, cho nên họ phát tâm làm phúc thiện, hộ trì chánh pháp cũng như cung kính, long trọng tổ chức các đại Lễ Phật giáo như Phật Đản, Vu Lan… cầu nguyện quốc gia thái bình nhân dân an lạc đúng theo truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Phật Giáo như gắn chặt, có mặt hầu hết trên các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, triết học, nghệ thuật, âm nhạc, đạo đức, v.v… đâu đâu cũng lưu lại hình ảnh của Phật Giáo. Đến khi Chúa Nguyễn Hoàng phát nguyện vào Nam khai hoang mở cõi kiến lập chùa Thiên Mụ…. một dãi trời Nam lại hiện bóng từ bi, Phật Giáo lại cùng với dân tộc vào miền đất mới, trong quá trình mở cõi tạo tác sơn hà, Phật Giáo lại chứng minh truyền thống đồng hành cùng dân tộc của mình, và chính nơi miền đất mới, dãi đất miền Trung mến yêu đã hình thành hai trung tâm Phật Giáo mới của Phật Giáo Việt Nam đó là: Trung tâm Phật Giáo thần kinh Thuận Hóa và Phật giáo Bình Định đất võ uy linh.
Việt Nam trong những thập niên trở lại đây, lễ Rước Phật tại đất thần kinh xứ Huế được xem là trang nghiêm ý nghĩa và long trọng nhất. Hình ảnh bảy đóa hồng liên nở rạng tỏa sáng trên dòng hương giang núi ngự, bên chùa Thiên Mụ cổ kính trầm hùng có thể được xem là biểu tượng thiêng liêng cho dân tộc Việt.
Hình ảnh của từng đoàn xe hoa, kiệu hoa rước Phật, cờ phướng rợp trời, có cả ngàn vạn chư Tăng cùng Phật tử thành kính trang nghiêm đưa rước từ chùa Diệu Đế đi khắp phố phường sông Hương qua Tràng Tiền, Đông Ba… về chùa Từ Đàm kéo dài hàng vài cây số quả thật là thiêng liêng và trọng thể biết dường nào. Ngày nay, với sự quan tâm của Chính phủ, của hầu hết người dân Việt, Phật giáo đã thật sự hưng thịnh, lễ rước Phật xe hoa, kiệu hoa… được tổ chức long trọng trang nghiêm cả ba miền Nam Trung Bắc.
Đặc biệt năm nay, PL. 2563 – DL. 2019, Đại lễ Phật Đản Vesak Liên Hợp Quốc lại được long trọng tổ chức ngay trên quê hương Việt Nam, có hơn 100 quốc gia trên thế giới về tham dự, hàng trăm triệu người con Phật trên khắp thế giới đang hân hoan đón mừng ngày Đản Sanh của đức Từ Phụ, và chắc chắn hình ảnh ý nghĩa của lễ Rước Phật bằng xe hoa, kiệu hoa sẽ có mặt khắp mọi tỉnh thành, phố phường trên cả nước.
Trong đó xe hoa, kiệu hoa đặc biệt long trọng và hoành tráng nhất chắc chắn sẽ là trung tâm văn hóa Phật giáo chùa Tam Chúc, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam.
Có vị Thiên nhân nghĩ đến nỗi khổ của thế gian nên đến thỉnh vấn Đức Thế Tôn về nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của con người sống ở trên đời.
Với lòng thương tưởng chúng sinh, Phật(1) lần lượt đưa ra những lời giải đáp, nêu rõ các nguyên nhân khiến con người rơi vào cửa bại vong. Bao giờ cũng thế, lời Phật giản dị nhưng rất thực tế và bổ ích, rất đáng cho chúng ta suy nghĩ và học tập:
Lời Phật dạy – Những lời vàng ngọc của Đức Phật truyền dạy, chúng ta hãy cùng chiêm nghiệm để giác ngộ cuộc sống và hành xử có văn hóa.
Lời Phật dạy
[ssredlist]
Kinh Đại Thừa Nghĩa: “Quay về nương dựa nên gọi là quy y. Hành tướng quy y như con theo cha mẹ, nương dựa phục tùng; như dân nương nhờ vua, như người yếu nương nhờ kẻ mạnh. Nương Phật như thầy, nên gọi là quy y Phật. Nhờ pháp như thuốc, nên gọi là quy y Pháp. Nương Tăng là bạn, nên gọi là quy y Tăng.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Như người có tay, vào trong núi báu, tự do lấy ngọc; người có lòng tin cũng vậy, vào trong Phật pháp, tự do lấy của báu vô lậu.”
Kinh Tâm Địa Quán: “Như người không tay tuy đến núi báu, không lấy được gì. Người không lòng tin, dầu gặp Tam bảo cũng không ích gì.”
Luận Đại Trí Độ: “Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được.”
Kinh Tiểu Địa Quán: “Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền.”
Kinh Trung A Hàm: “Ví như nhà vua, tạo lâu đài nơi bên thành, xây đắp chắc chắn, khiến không thể hư nát; bề trong quốc gia yên ổn, bề ngoài ngự phòng oán địch. Phật tử cũng vậy, phải kiên cố lòng tin tưởng đức Như Lai, khi lòng tin đã vững vàng thì quyết không theo những kẻ sa môn ngoại đạo phạm chí ác ma và ác thế gian. Ấy là đã xây dựng được lòng tin như lâu đài bền chắc. Là Phật tử phải bỏ điều ác, điều xấu mà tu các pháp lành.
Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh mờ ám, người hiểu giáo lý mà không lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải cùng đủ mới làm cội gốc tu hành.”
[/ssredlist]
[ssredlist]
Kinh Lăng Nghiêm: “Tin chơn lý thường trú gọi là lòng tin.”
Kinh Tăng Nhứt A Hàm (văn Ba lị): “Vì muốn đến niết bàn, nên tin Phật pháp, cần phải nghe mới được trí huệ, chẳng phải buông lung mà thông suốt; được như vậy thì lo gì đời nầy không vào được cảnh giới cao tột.”
Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Lòng tin làm nhơn cho nghe pháp, nghe pháp làm nhơn cho lòng tin.”
Kinh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội: “Đến bạn lành, được nghe pháp mầu nhiệm là được pháp các bậc thánh tôn yêu quí. Đức Như Lai trí tuệ hơn hết, trùm khắp hư không, nói ra giáo pháp, duy có Phật mới có thể hiểu thấu được. Vậy nên các ngươi cần phải nghe nhiều hiểu rộng chánh pháp, mới tin nổi lý chơn thiệt chánh pháp của Ta. Được làm thân người trong cõi người rất khó, mà được gặp giáo pháp Như Lai lại càng khó hơn. Vậy nên nghe được giáo pháp phải tinh tấn tu trì.”
Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nhơn duyên được nghe chánh pháp, là gần gũi bạn lành; nhơn duyên gần gũi bạn lành đó là lòng tin vậy. Phát được lòng tin có hai nhơn duyên là: nghe pháp và suy nghĩ nghĩa lý của pháp.”
Luận Khởi Tín: “Nói lòng tin có 4 món: một là lòng tin cội gốc, nghĩa là ưa nghĩ pháp chơn như; hai là tin đức Phật có vô lượng công đức, thường nhớ gần gũi, cúng dường, cung kính phát khởi căn lành để cầu xin nhất thế trí; ba là tin Pháp có nhiều lợi ích, thường nhớ tu hành cho rốt ráo; bốn là tin Tăng hay tu hành hạnh lợi mình và người, thường ưa gần gũi các vị Bồ tát cầu học hạnh như thật.”
Kinh Niết Bàn: “Lòng tin lại có 2 món: một là từ nghe mà sanh, hai là từ nghĩ mà sanh. Những người từ nghe sanh mà chẳng từ nghĩ sanh, thì gọi là lòng tin chẳng đầy đủ. Còn có 2 món nữa: một là tin có Đạo, hai là tin có chứng Đạo. Lòng tin người nào chỉ tin có Đạo mà chẳng tin có các người chứng Đạo, ấy gọi là lòng tin chẳng đầy đủ.”
Kinh Vô Lượng Thọ: “Nếu có chúng sanh rõ tin Phật trí cho đến thắng trí, rồi tu các công đức để hồi hướng lòng tin. Những chúng sanh này ở trong hoa bảy báu, tự nhiên hóa sanh: xếp bằng mà ngồi trong chừng giây lát, thân thể sáng rực, trí tuệ công đức như các Bồ tát đầy đủ trọn vẹn.”
Kinh Đại Bảo Tích: “Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin.”
Kinh Xuất Sanh Bồ Đề Tâm: “Nếu cầu Bồ đề để làm lợi ích chúng sanh, ấy là những kẻ vì chúng sanh hơn hết vậy; hạng nầy còn không thể so sánh huống là bậc trên nữa. Vậy nên đã được nghe các pháp này, kẻ trí thường sanh tâm vui pháp sẽ được đại phước không lường và mau được chứng đạo vô thượng.”
Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Hoặc có người nói: Quả vô thượng chánh đẳng chánh giác, do lòng tin làm nhơn. Thật ra chánh nhơn của bồ đề (tức chánh đẳng giác) tuy còn nhiều vô lượng, nhưng nếu nói lòng tin, tức đã bao quát hết rồi vậy.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Bồ đề Tâm là con đường lớn, vì có thể đưa người được vào cõi Nhất thế trí. Bồ đề Tâm là con mắt sáng, vì có thể xem thấy hết thảy đường chánh nẻo tà. Bồ đề Tâm là mặt trăng sáng, vì soi rõ các tịnh pháp đều viên mãn. Bồ đề Tâm là nước sạch, vì rửa sạch tất cả dơ bẩn phiền não. Bồ đề Tâm là ruộng tốt, vì nuôi dưỡng chúng sanh trong sạch.Bồ đề Tâm là hạt giống tất cả đức Phật, vì có thể sanh tất cả pháp các đức Phật.”
Kinh Đại Bát Niết Bàn: ” Đại tín tâm tức là Phật tánh, Phật tánh tức là Như Lai.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Trăng Bồ đề trong mát, soi rốt ráo hư không, chúng sanh tâm nước sạch, bóng Bồ đề hiện ngay.”
[/ssredlist]
[ssredlist]
Kinh Tăng Nhứt A Hàm (Văn Ba-lị): Đức Phật biết mở giây sanh tử cho tất cả chúng sanh: Ngài đích thân đối với thần nhơn, chỉ rõ pháp hiểu biết, khiến họ thấy hoặc nghe, đều được an tâm. Đức Phật thật là bậc Đạo nhơn, là Thiện nhơn, là Quyết định nhơn, là Vô lậu nhơn, vì Ngài thấu suốt thân mệnh, chính là bậc Đại nhơn trí tuệ cao cả vậy.
(Cũng kinh này) Tỳ kheo nương Phật pháp mà sanh lòng tin: tin Đức Như Lai là: Thế Tôn, đẳng Chánh giác, Minh hạnh Túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng Phu, Thiên nhơn sư. Ngài chứng quả an lành không bệnh; tu nhẫn nại và tinh tấn mức trung đạo, chứng quả chẳng hư ngụy, chẳng mê hoặc. Đúng như thật đối trước các bậc sư chủ: Chỉ rõ đạo nghĩa, an trụ tinh tấn, bỏ pháp bất thiện, phát khởi thiện pháp, nương thiện pháp mà quyết định gắng gỗ bền chắc. Thế mới thành tựu bậc trí huệ chứng Vô thượng trí vậy.
Kinh Tiểu A Hàm: “(Văn Ba lị) Ta, tuy trong một nháy mắt, cũng chẳng rời trí lực sâu sắc của Phật Đà mà tỏ rõ nói pháp; nói pháp không ái và không phiền não của Phật Đà; với kẻ khác không còn so sánh. Ta chẳng phân biệt ngày, đêm, lấy con mắt tâm xem thấy hết. Ta tự tin rằng thoạt qua là hết đêm, cho nên trong giây lát chẳng bỏ rời. Ta tin và thích, tâm và niệm, khiến ta quy y Phật giáo vậy. Những người trí huệ cao cả như thế chẳng luận là nơi chỗ nào ta cũng vẫn đến quy y. Dầu cho thân ta già, sức ta yếu, không thể đi đến chỗ ấy được, nhưng tâm ta quyết định thường đi đến chỗ ấy. Thế thì tâm ta và tâm kẻ ấy phù hợp vậy.”
Kinh Pháp Hoa: “Hết lòng muốn thấy Phật, chẳng tiếc gì thân mạng, khi Ta và chúng Tăng, đồng đến núi Linh Thứu.”
Kinh Đại Bửu Tích: “Phật dạy: Nếu có Bồ Tát đem vui thắng ý, đến chỗ Ta phát khởi ý nghĩ như gặp cha, người kia sẽ được vào trong hàng ngũ Như Lai, như Ta không khác gì.”
Kinh Trung A Hàm: “(Văn Ba lị) Thưa Thế Tôn: Nếu pháp này chỉ có Thế Tôn thành tựu, mà Tỳ kheo chẳng đặng thành tựu, hay Tỳ kheo đặng thành tựu mà Tỳ kheo ni chẳng đặng thành tựu; hoặc Tỳ kheo ni đặng thành tựu mà các người tại gia Ưu bà tắc, Ưu bà di và các người còn dục lạc chẳng đặng thành tựu, thời pháp ấy chẳng được hoàn toàn. Nhưng pháp này đức Thế Tôn được thành tựu, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đều được thành tựu. Hơn nữa, những người tại gia nam nữ và các kẻ còn dục lạc thảy đều được thành tựu, cho nên ta tin pháp này là hoàn toàn.”
[/ssredlist]
[ssredlist]
Kinh Tạp A Hàm: “(Văn Ba lị) Vì muốn đến Niết Bàn, tin, vâng các Thánh pháp, nghe, cầu được trí huệ, tinh tấn hay thông suốt.”
Kinh Phạm Võng: “Đứng đầu tất cả hạnh là đức tin, vì cội gốc các đức vậy.”
Kinh Đại Trang Nghiêm: “Tất cả các công đức, đức tin là sứ mạng; trong các của báu, của đức tin đứng đầu.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Tin là nguồn Đạo, mẹ công đức, nuôi lớn tất cả các pháp lành, dứt trừ lưới nghi, thoát dòng ái, mở chỉ Niết Bàn, đạo Vô thượng; tin lòng trong sạch không dơ bẩn, dứt trừ kiêu mạn gốc cung kính, là của thứ nhất trong kho Pháp, là tay trong sạch lãnh các hạnh; tin hay huệ thí tâm không tham; tin hay vui mừng vào Phật pháp; tin hay thêm lớn trí công đức; tin hay quyết đến cõi Như Lai; tin khiến các căn lành sáng suốt; tin sức bền chắc không thể hư; tin hay dứt hẳn gốc phiền não; tin hay hướng về Phật công đức; tin đối cảnh giới không tham lam, xa lìa các nạn, được không nạn; tin hay vượt khỏi các đường ma, thị hiện đạo Vô thượng giải thoát; tin chẳng phá hư giống công đức; tin hay nuôi lớn cây Bồ đề; tin hay thêm ích trí tối thượng; tin hay thị hiện tất cả Phật.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu có chúng sanh nào, chưa phát tâm Bồ đề, một khi nghe tên Phật, quyết định thành Bồ đề.”
Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa: “Nếu người trồng căn lành, nghi thời hoa chẳng nở; lòng tin được trong sạch, hoa nở liền thấy Phật.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Bồ tát đối sanh tử, khi đầu tiên phát tâm, một bề cầu Giác đạo, bền chắc chẳng khá lay. Kia một niệm công đức, sâu rộng không ngằn mé, Như Lai phân biệt nói, trọn kiếp không thể hết.
Tất cả tâm chúng sanh đều phân biệt hết, tất cả cõi vi trần hãy còn tính được số; mười phương cõi hư không, mảy lông cũng lường được, Bồ Tát sơ phát tâm, rốt ráo chẳng lường được.
Kinh Xuất Sanh Bồ Đề Tâm: “Như đấng Đại Phước rất cao kia, chẳng bằng phần mười sáu Đạo tâm; nếu muốn cầu phước như Tu Di, như cát sông Hằng ở cõi Phật, thảy đều tạo chúa, xây các tháp chẳng bằng Đạo tâm mười sáu phần.”
Kinh Đại Bảo Tích: “Công đức Bồ Đề tâm, nếu có chất hẳn hỏi, khắp cả cõi hư không, không thể dung chứa hết.”
[/ssredlist]
[ssredlist]
Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới.”
Kinh Vô Lượng Thọ: “Đức Phật bảo Ngài Di Lặc rằng: Nghe danh hiệu Đức Phật kia, vui mừng nhảy nhót, cho đến một niệm. Phải biết người ấy ắt được lợi lớn. Ấy là đủ công đức cao tột.”
Đức Phật dạy: Nghe pháp hay chẳng quên, thấy kinh được rất mừng, ấy bạn lành ta vậy.
Kinh Hoa Nghiêm: “Ví như vàng Diêm phù đàn, chỉ thua ngọc Như ý, hơn tất cả các ngọc. Bồ Đề tâm như vàng Diêm phù đàn, cũng như vậy, chỉ thua Nhất thế trí, hơn tất cả các công đức.”
Ví như chim Ca lăng tần già, khi còn nằm trong trứng, đã có thế lực mạnh, các loài chim chẳng bằng. Vị Đại Bồ tát cũng như vậy. Còn ở trứng sanh tử, đã phát tâm bồ đề, công đức rất thế lực, hàng Thanh văn Duyên giác làm gì so sánh kịp.
Ví như hoa cây Ba Lợi Chất Đa, xông áo một ngày, hoa Chiêm Bồ, hoa Bà Sư, tuy xông ngàn năm, chẳng hay sánh nổi. Hoa Bồ đề tâm cũng lại như vậy, đem công đức xông một ngày, mùi thơm thấu mười phương cõi Phật, hàng Thanh văn Duyên giác, dùng trí vô lậu xông các công đức đến trăm ngàn kiếp cũng chẳng làm sao kịp được.
Nghe Pháp khởi lòng tin, vui mừng không nghi ngại, chóng thành Đạo vô thượng; ngang hàng các Như Lai. Tâm trong sạch như đồ đựng nước, hình bóng thường hiển hiện. Nhưng tâm chúng sanh nhơ bẩn như đồ bị nứt, thì chẳng thấy hình bóng Như Lai Pháp Thân. Nếu hay tin, biết trừ kiêu mạn, phát tâm liền được thấy Như Lai, nếu còn dua vậy tâm chẳng sạch, ức kiếp tìm cầu khó gặp thay.
Kinh Vô Lượng Thọ: “Kiêu mạn, si tệ, biếng nhác, khó tin nổi pháp này, nhờ đời trước thấy Phật, như vậy ưa nghe Pháp.”
Phật Dược Sư(1) Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não vè thân và tâm của chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ đau. Vì Dược Sư Như Lai có bổn nguyện thanh tịnh như vậy nên ánh sáng trong suốt hoàn toàn thanh tịnh như lưu ly vô ngại hiển hiện trên thân của Ngài.
Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử. Vì chúng sinh vô lượng vô biên nên chư Phật cũng thị hiện vô số, tùy theo nghiệp lực, căn tánh của chúng sinh mà các Ngài kiến tạo quốc độ và lập đại nguyện để giáo hóa, đưa chúng sinh thoát khỏi phiền não khổ đau, có đời sống an lạc tự tại. Đức Phật Dược Sư là 1 trong vô số chư Phật có quốc độ và hạnh nguyện riêng của mình.
Dược Sư Như Lai tiếng Phạm gọi là: Bhaisajya-guru Vaidurya-prabharajyah, gọi đủ là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, người ta thường gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, gọi tắt là Dược Sư Phật. Theo Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Kinh chép: “về phương Đông cách thế giới Ta Bà khoảng 10 hằng hà sa Phật độ có cõi Phật tên là Tịnh Lưu Ly, tên của Đức Phật đó là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”.
Vì sao có tên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai?
Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, nhờ trong khi tu hành Bồ tát đạo phát 12 đại nguyện giải trừ hết thảy bệnh khổ cho chúng sinh, khiến họ đầy đủ căn lành và hướng về giải thoát nên khi thành Phật, Ngài trụ ở thế giới Tịnh lưu ly, trang nghiêm như thế giới Cực lạc, cùng với 2 vị Đại Bồ tát là Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu làm quyến thuộc để giáo hóa chúng sinh.
Bổn nguyện của Dược Sư Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não vè thân và tâm của chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ đau. Vì Dược Sư Như Lai có bổn nguyện thanh tịnh như vậy nên ánh sáng trong suốt hoàn toàn thanh tịnh (Lưu Ly Quang) như lưu ly vô ngại hiển hiện trên thân của Ngài, và quốc độ của Ngài cũng như vậy nên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang.
Cũng như các Đức Phật trong mười phương, Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.
12 đại nguyện của Đức Dược Sư Như Lai
Nguyện khi Ta thành đạo Bồ-đề, thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, hào quang sáng khắp vô lượng thế giới, khiến các chúng sinh cũng được như Ta.
Nguyện khi Ta thành Phật, trong ngoài sáng chói hơn ánh sáng mặt trời, tự tại làm Phật, khiến các chúng sinh ở chỗ tối tăm đều nhờ ơn khai thị.
Nguyện khi Ta thành Phật, đầy đủ vô lượng phương tiện trí tuệ, làm cho chúng sinh đầy đủ các món thọ dụng nơi thân tâm.
Nguyện khi Ta thành Phật, nếu các chúng sinh tu theo tà đạo đều xoay về chánh đạo, hàng Nhị thừa thì đều hướng về Nhất thừa.
Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh theo giáp pháp của Ta mà tu hành, thì đều được hoàn hảo, dù có phạm giới mà nghe đến tên Ta thì cũng trở thành thanh tịnh giới khỏi phải sa vào ác đạo.
Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh nào có thân thể hèn yếu hay xấu sa, đui điếc hay câm ngọng, một phen nghe tên Ta, niệm tên Ta thì được khỏi bệnh, lại được tốt đẹp khôn ngoan
Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh không bà con thân thuộc, nghèo thiếu ốm đau, không ai giúp đỡ, mà nghe được tên Ta thì thân tâm yên lành quyến thuộc giúp đỡ cho, đến chứng đạo Bồ-đề.
Nguyện khi Ta thành Phật, các nữ nhân thường bị khinh dể thấp kém, nếu nghe được tên Ta thì bỏ thân nữ nhân, thành tướng trượng phu cho đến chứng quả.
Nguyện khi Ta thành Phật, thì các chúng sinh thoát vòng ma đạo ác kiến, về nơi chánh đạo, tu Bồ-tát hạnh mau chứng đạo Bồ-đề.
Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh bị pháp vua trừng trị, trói buộc đánh đập, giam vào ngục tối, cắt xẻ v.v. mà nghe tên Ta thì đều thoát khỏi.
Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh bị đói khát, cầu ăn mà tạo nghiệp dữ, nếu nghe tên Ta, chuyên niệm thọ trì, thì Ta trước hết cấp cho món ăn được no đủ, sau nói pháp khiến họ tu hành được hoàn toàn an vui.
Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh nghèo không có áo mặc, muỗi mòng chích đốt, nóng lạnh, ngày đêm khổ sở, nếu nghe tên Ta chuyên niệm thọ trì, thì Ta theo tâm mong cầu ấy khiến được đầy đủ y phục hoa hương.
Tranh tượng của Phật Dược Sư hay được vẽ với tay trái cầm thuốc chữa bệnh và tay phải giữ Ấn thí nguyện. Phật Dược Sư thường được thờ chung với Phật Thích Ca Mâu Ni và A Di Đà, trong đó Phật Dược Sư đứng bên trái còn Phật A Di Đà đứng bên phải Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong kinh Dược Sư, hiện nay chỉ còn bản chữ Hán và chữ Tây Tạng, người ta đọc thấy 12 lời nguyện của Ngài, thệ cứu độ chúng sinh, với sự giúp đỡ của chư Phật, Bồ Tát và 12 vị Hộ Pháp và Thiên vương.
Tại Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản và Việt Nam, Phật Dược Sư được thờ cúng rộng rãi.
Về công phu trì niệm hồng danh Đức Phật Dược Sư, mặc dù Ngài có nhiều danh hiệu nhưng trì niệm hồng danh thường là Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật hay Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Theo sách Dược Sư kinh sám (HT.Trí Quang dịch), phần Niệm Phật ghi rõ niệm Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật. Các hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh và niệm đến nhất tâm. Cũng vậy, khi tu tập pháp môn Dược Sư, hành giả niệm danh hiệu Phật Dược Sư cũng phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh. Có thể niệm thầm, niệm ra tiếng, lần tràng hạt v.v… và niệm cho đến nhất tâm giống như các phương thức niệm Phật A Di Đà.
Về ý nghĩa Thánh hiệu
Dược Sư, nghĩa đen là thầy thuốc chữa bệnh. Lưu ly là một loại ngọc màu xanh trong suốt. Quang là ánh sáng. Lưu ly quang là ánh sáng ngọc lưu ly. Dược Sư Lưu Ly Quang Phật là vị Phật có danh hiệu Thầy thuốc chữa bịnh, ánh sáng như ngọc lưu ly. Phật Dược Sư hiểu biết và thông suốt tất cả y dược của thế gian và xuất thế gian, Ngài có thể chữa trị hết tất cả những thứ bệnh khổ của chúng sinh, những điên đảo vọng tưởng do tham, sân, si phiền não gây ra. Ánh sáng của Phật Dược Sư thật không nghĩ bàn “Trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn, không có chút nhơ bợn, ánh quang minh chói lọi khắp nơi”. Ánh sáng ấy chiếu đến đâu đều phá hết tăm tối vô minh của chúng sinh, đem lợi lạc và diệt tất cả những bệnh khổ thân tâm của chúng sinh, khiến cho họ xa lìa mê vọng mà hướng đến giác ngộ, giải thoát.
Về công năng của việc trì niệm danh hiệu Phật Dược Sư, có thể nói là không thể nghĩ bàn. Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, đại dụng của danh hiệu Phật Dược Sư, điển hình có năm vấn đề sau:
Diệt sự tham lam mà phát tâm bố thí: Nhờ trì niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà mở rộng tấm lòng, không còn tham lam, ích kỷ chỉ lo tích cóp cho riêng mình đồng thời luôn chia sẻ, ca ngợi và thực hành bố thí.
Diệt sự phạm tội mà được sự giữ giới: Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.
Diệt sự ganh ghét mà được sự giải thoát: Do nghiệp lực ganh ghét, đố kỵ người khác nên chịu quả báo hèn hạ, thống khổ. Niệm Phật Dược Sư sẽ khiến cho hành giả phát tâm tu học, diệt trừ khổ não, thành tựu giải thoát.
Diệt sự hại nhau mà được sự thương nhau: Những ý niệm oán kết, thù hận dẫn đến hành động tiêu diệt lẫn nhau, nhờ niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà được hóa giải. Không những không còn làm hại nhau mà còn hiểu biết, thương yêu và tôn trọng lẫn nhau.
Được sinh Cực lạc hay các sự chuyển sinh khác: Đối với những hành giả phát tâm niệm Phật A Di Đà, cầu vãng sinh Cực lạc thì niệm Phật Dược Sư là một sự trợ duyên rất quan trọng. Chư Phật, các Đại Bồ tát trong pháp hội Dược Sư luôn trợ hóa cùng Phật A Di Đà, tiếp dẫn chúng sinh về Cực lạc. Ngoài ra, nhờ công đức tu tập Thánh hiệu Phật Dược Sư mà hành giả được đầy đủ phước báo, sinh về các thế giới an lành.
Ngoài ra, nhờ năng lực bổn nguyện của Phật Dược Sư, những chúng sinh thọ trì danh hiệu Ngài được tiêu trừ tất cả bệnh khổ và thành tựu mọi sở nguyện, sở cầu.
Bảy tôn tướng của Đức Dược Sư Như Lai
Đức Phật Dược Sư là một đấng giác ngộ có lòng bi mẫn vô biên đối với hết thảy chúng sinh. Ngài hộ trì chúng sinh tránh khỏi những đớn đau về tâm hồn và thể xác, khỏi những hiểm nguy và chướng ngại, và giúp họ trừ diệt ba độc tố – tham trước, sân hận và si mê – cội nguồn của mọi bệnh tật và nguy hại. Ngài là đấng Y vương Toàn giác.
Theo các Kinh điển Phật Giáo thì Đức Dược Sư Như Lai có 7 tôn tượng. Có thuyết cho là mỗi vị có mỗi đại nguyện và ứng thân riêng từng vị. Có thuyết cho là các Ngài từ nhất thể là Đức Dược Sư Như Lai mà phân thân ứng hiện (ứng thân), danh hiệu của các Ngài là: Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai; Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai; Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai; Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai; Pháp Hải Lôi Âm Như Lai; Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai; Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Bài viết này được trích dịch từ một tập sách nhỏ có tựa đề “101 điều về Giáo lý” (Dharma 101) – là những câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình tu học của người Tây Phương.
Những câu hỏi như Đức Phật là ai? Đức Phật ở đâu?Niềm tin quan trọng ra sao?tại sao chúng ta phải cúi chào? Bạn là ai? Nghiệp là gì? ….có thể nghe quen thuộc đối với nhiều người nhưng câu trả lời có thể không quen thuộc. Điều này có thể do có sự khác biệt về quan điểm hay về sự hiểu biết giữa các vị Thầy, hoặc sự khác biệt giữa các truyền thống. Ba Thừa chính yếu (Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa) của Phật giáo tại Á Châu có sự khác nhau về lý tưởng, pháp tu và cách trình bày. Ví dụ những câu hỏi về sự giác ngộ có thể có câu trả lời của một vị Thầy Đại Thừa ở Đông Á khác với câu trả lời của một đạo sư Kim Cang Thừa của Tây Tạng.
Một câu hỏi về ý niệm của tánh không Phật giáo sẽ có hai câu giải đáp khác nhau bởi một vị Sư Nam Tông ở Đông Nam Á và một vi Thầy bên Đại Thừa. Nhưng ở Tây Phương, nơi các tông phái của ba truyền thống này đang phân phát bên cạnh nhau, chúng ta nhận cả ba thừa đều gợi lên những câu hỏi chung và những giáo lý căn bản cũng ứng dụng cho tất cả. Bản dịch này được thực hiện để tưởng nhớ 10 năm sau ngày mất của người bạn đạo, đó là đạo hữu Rick Fields (1942-1999) vốn là một biên tập viên của tạp chí Tricycle (Tam Thừa) và tạp chí Yoga Journal.
Dịch giả liên lạc với ông Rick Fields từ năm 1996 đến lúc ông qua đời vào năm 1999 vì bệnh ung thư phổi. Ông Rick Fields đã gởi tặng cho người dịch nhiều tài liệu về Phật giáo thế giới, trong đó có tập sách mà chính ông là tác giả, đó là quyển “Lịch sử Phật giáo Hoa Kỳ” (How the Swans came to the Lake, A Narrative History of Buddhism in America) (Shambhala, 1981), trong đó “Đức Phật là ai ?” cũng được trích dịch từ tập sách dày 450 trang này.
Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm
Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm(1) (sau này là Đức Phật) ra đời năm 624 trước Tây Lịch tại một vương quốc nhỏ ngay dưới chân rặng núi Hy Mã Lạp Sơn. Cha của Ngài là vua của bộ tộc Thích Ca (Skakya). Mười hai năm trước khi ra đời, các tu sĩ Ấn Giáo đã tiên tri rằng Ngài sẽ là một vị vua vĩ đại hoặc sẽ trở thành một nhà hiền triết lừng danh của thế giới loài người. Vì không muốn Ngài trở thành tu sĩ, cha của Ngài đã giữ Ngài bên trong cung điện.
Thái tử Tất Đạt Đa lớn lên trong sự xa hoa của một bậc vua chúa, không được phép nhìn thấy thế giới bên ngoài, được các vũ nữ giúp vui, và được các tu sĩ Bà La Môn dạy học. Thái tử còn học cưỡi ngựa, bắn cung, đánh kiếm, đánh vật, bơi lội… Khi đến tuổi trưởng thành, Thái tử thành hôn với công chúa Gia Du Đà La và có một con trai.
Ngày nay chúng ta có thể nói là Ngài là người có tất cả mọi thứ trên đời, nhưng Ngài cảm thấy mình thiếu một cái gì đó, và chính điều đó đã lôi kéo Ngài ra khỏi những bức tường của cung điện. Ở ngoài đó, trên những đường phố của kinh thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài đã trông thấy ba cảnh tượng thông thường nhất đối với mọi người khác: một người bị bệnh, một người già yếu, và một xác chết đang được người ta đưa đi hỏa thiêu. Ngài chưa bao giờ được sửa soạn để chứng kiến những cảnh bi thảm như thế này, cho đến khi người đánh xe nói với Ngài rằng tất cả mọi người đều phải chịu sự già yếu, bệnh tật và chết chóc, Ngài cảm thấy mình không thể nào an tâm sống trong sự xa hoa như trước nữa. Trên đường trở về cung điện, Ngài trông thấy một tu sĩ đang bước đi một cách thong dong trên đường phố, và Ngài đã quyết định rời khỏi cung điện để đi tìm giải pháp cho vấn đề đau khổ của cuộc đời.
Trong đêm khuya Ngài lặng lẽ từ giã vợ con mà không đánh thức họ, rồi phi ngựa đến một khu rừng, nơi đó Ngài đã dùng gươm cắt tóc và thay bộ trang phục vua chúa bằng một chiếc áo tu sĩ đơn sơ. Đó là năm Ngài 29 tuổi, (595 BC).
Với hành vi này Thái tử Tất Đạt Đa đã gia nhập vào hạng người từ bỏ xã hội Ấn Độ để tìm giải thoát. Thái tử đã tìm đến học hỏi với nhiều vị thầy khác nhau, từ những vị theo chủ nghĩa duy vật, cho đếnnhững người theo chủ nghĩa lý tưởng và phái ngụy biện. Từ rừng núi đến thị thành, đâu đâu cũng sôi nổi với những cuộc tranh luận và triết lý. Sau cùng Thái tử đã theo học hai vị Thầy nổi tiếng, vị thứ nhất là Đạo Sư Alara-Kalama, thuộc phái Samkhya (phái Số luận), đang có ba trăm đệ tử theo tu học.
Với vị này, Thái tử đã học và đắc ngũ thần thông, đạt đến bậc thiền Vô Sở Hữu Xứ. Nhưng sau đó dù Đạo SưArada Kalama mời Ngài ở lại để dạy đạo như một người đồng đẳng với ông, nhưng Ngài thấy đây không phải là pháp giải thoát tối hậu, nên Ngài đã ra đi. Ngài đến học với vị thầy thứ hai là Đạo SưUddaka Ramaputta (Uất-đầu-lam-phất), người đang có 700 đệ-tử theo học. Sau vài ngày tu học, Ngài đã chứng được tầng thiền Phi-tưởng phi-phi-tưởng. Nhưng đây không phải là con đường giải thoát sinh tử khổ đau, và Tất Đạt Đa cũng đã quyết định từ giả vị thầy này.
Trong sáu năm, Thái tử Tất Đạt Đa cùng với năm người bạn Kiều Trần Như cùng tu khổ hạnh và thiền định, chỉ ăn một hạt cơm mỗi ngày, lấy tâm trí thi đua với thể xác, và chỉ còn da bọc xương. Khi Ngài quyết định dùng nhiều thực phẩm hơn và không áp dụng pháp tu khổ hạnh nữa, năm người bạn kia đã từ bỏ Ngài.
Ngài đến một ngôi làng để khất thực, ở đó một cô gái tên là Sujata mời Ngài dùng một bát cháo sữa với mật ong. Khi sức khỏe phục hồi, Ngài xuống tắm dưới sông Nairanjana (Ni Liên Thiền) rồi ngồi thiền dưới cội Bồ Đề, trên một tấm tọa cụ làm bằng cỏ kusha. Ngài ngồi đó sau khi đã nghe tất cả các vị thầy, học tất cả những kinh sách và thực hành tất cả pháp môn, bây giờ không có gì vướng bận, không có ai để nương tựa, không có nơi nào để đi nữa. Ngài thiền tọa bất động và cương quyết như một quả núi, cho đến bảy ngày sau, Ngài mở mắt ra, trông thấy sao mai vừa mọc trên bầu trời và Ngài hiểu ra rằng mình đã tìm ra cái chưa bao giờ mất, dù là đối với Ngài hay bất cứ một người nào khác trên thế gian này. Vì vậy không có gì để chứng đắc, không có gì để tìm kiếm nữa.
Ngài nói: “Điều kỳ diệu nhất là sự giác ngộ này vốn là chân tánh của chúng sanh, nhưng họ lại không an lạc vì thiếu nó”. Vậy Thái Tử Tất Đạt Đa đã giác ngộ vào năm ba mươi lăm tuổi (589 BC) và trở thành một vị Phật, tức đấng giác ngộ, được tôn vinh là Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), tức là nhà hiền triết thuộc bộ tộc Thích Ca.
Trong bảy tuần lễ sau đó, Đức Phật thọ hưởng pháp lạc tự tại giải thoát của chính mình. Lúc đầu Ngài không có ý định nói về sự chứng ngộ của mình, vì Ngài thấy đây là điều khó hiểu đối với phần lớn loài người, nhưng khi Phạm Thiên (Brahma), vị vua của ba ngàn thế giới, thỉnh cầu Ngài thuyết pháp, vì cũng có những người :’’mắt chỉ bị mờ một chút mà thôi”. Đức Thế Tôn đã chấp thuận.
Hai vị thầy của Đức Phật, Udaka và Ramaputra đều đã qua đời trước đó mấy ngày, vì vậy Ngài đi tìm năm người bạn đồng tu khổ hạnh mà trước kia đã rời bỏ mình. Khi thấy Ngài đi tới Vườn Nai ở thành Ba La Nại (Benares), họ làm lơ với Ngài, vì Ngài đã không tiếp tục thực hành khổ hạnh với họ. Nhưng rồi họ thấy có một cái gì tỏa sáng trong sự hiện diện của Ngài, họ đứng lên, sửa soạn chỗ ngồi và lấy nước cho Ngài rửa chân, rồi ngồi xuống nghe Ngài thuyết pháp. Đó là bài pháp đầu tiên của Đức Phật. Đức Phật đã nói bài pháp Tứ Diệu Đế cho các vị này.
Trong Tứ Diệu Đế của Đức Phật, chân lý thứ nhất, Khổ đế, nói rằng bản chất của cuộc đời này là đau khổ và không thỏa mãn, ngay cả những lúc hạnh phúc cũng có mầm móng của khổ đau nếu chúng ta bám giữ vào chúng, hay khi chúng đã đi vào ký ức, chúng vẫn bóp méo hiện tại vì tâm trí của chúng tacố gắng dựng lại quá khứ một cách tuyệt vọng. Giáo lý của Đức Phật dựa trên sự quan sát trực tiếp đời sống, và là lời phê bình cấp tiến đối với lối suy nghĩ mơ mộng cũng như vô số những lối thoát ly, như chủ nghĩa không tưởng chính trị, môn tâm lý trị liệu, chủ nghĩa hưởng lạc, hay thuyết cứu rỗi hữu thầncủa thần bí học, đây là điểm chính yếu phân biệt giữa Phật giáo với đa số những tôn giáo khác trên thế giới.
Khổ là chân lý thứ nhất và là nền móng để hiểu một cách trọn vẹn chứ không phải để trốn tránh hay để giải thích. Kinh nghiêm về sự khổ, về sự hoạt động của tâm trí, đưa đến chân lý thứ hai là nguyên nhân của Khổ (Tập Đế), thường được mô tả là tham muốn lạc thú, nhưng cũng được giải thích một cách căn bản hơn là bám giữ vào sự sống hoặc sự không hiện hữu, tức chấp có và chấp không.
Việc nghiên cứu tính chất của sự tham muốn này dẫn đến tâm điểm của chân lý thứ hai, đó là ý tưởng tự ngã hay cái ta, với tất cả những điều mong cầu và những điều lo sợ của nó, và chỉ khi nào hiểu đúng về tự ngã này và thấy nó không có tự tính, không có thật một cách vĩnh cữu), thì mới có thể hiểu chân lý thứ ba, sự diệt khổ (Diệt Đế).
Năm tu sĩ nghe bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật ở Vườn Nai trở thành hạt nhân của cộng đồng các tu sĩ Phật giáo, tức là Tăng đoàn (Sangha), là những người đi theo con đường mà Đức Phật đã trình bày trong chân lý thứ tư, con đường đưa đến sự diệt khổ (Đạo Đế), đó là Bát Chánh Đạo, chân chánh trong tám phương diện: ý kiến, ý nghĩ, lời nói, hành vi, nghề nghiệp, nỗ lực, ý thức và thiền định.
Các tu sĩ Phật giáo, tức Tỳ kheo (Bikkhu), sống rất đơn giản, chỉ có một bình bát, một cái áo, một cây kim, một cái lọc nước, một con dao cạo đầu, đó là dấu hiệu của sự ly gia cắt ái. Họ đi khắp miền đông bắc Ấn Độ, hành thiền một mình hay trong những nhóm nhỏ và khất thực.
Tuy nhiên giáo lý của Đức Phật không chỉ dành cho đoàn thể các tu sĩ, Ngài đã dạy họ truyền bá giáo lýcho mọi người “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường, đi khắp nơi vì lợi lạc, vì hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người”.
Trong bốn mươi lăm năm, Đức Phật đã đi qua những thôn làng và những thành phố của Ấn Độ, nói bằng ngôn ngữ phổ thông, dùng những lối nói giản dị mà ai cũng có thể hiểu. Ngài dạy dân làng thực hành chánh niệm trong khi kéo nước giếng, và khi một bà mẹ đau khổ ôm xác một đứa con đến xin Ngài cứu cho nó sống lại, Ngài đã không làm một phép lạ mà bảo bà ta mang về cho Ngài một nắm hạt cải của một nhà nào đó không có ai chết trước đó. Sau khi đi tìm, bà ta trở về tay không, nhưng hiểu ra một sự thật rằng cái chết đến với tất cả mọi người.
Khi được nghe nói đến Đức Phật, từ phú gia đến các bậc vua chúa đều phát tâm cúng dường những khu vườn ngự uyển để xây dựng tinh xá. Đức Phật tiếp nhận những khu vườn này, nhưng Ngài vẫn tiếp tục sống như mình đã từng sống từ năm hai mươi chín tuổi: một tu sĩ khất thực và thiền định dưới gốc cây. Bây giờ chỉ có một điều khác là gần như mỗi ngày sau khi thọ trai vào giữa trưa Ngài thuyết pháp. Không có một bài pháp nào được ghi chép lại trong khi Ngài còn tại thế.
Năm 544 (Trước Tây lịch), Đức Phật nhập Niết Bàn tại thành Câu Thi Na (Kusinagar) ở tuổi tám mươi sau khi ăn một bữa ăn có nấm. Trong số những người tu tập bên cạnh Đức Phật có những người đau buồn. Đức Phật nằm giữa hai cây Sala, đầu hướng về phương bắc, mình nghiêng về bên phải, bàn tay phải để ngửa lót dưới mặt, tay trái để xuôi trên hông trái, chân trái nằm dài trên chân phải, hơi thở nhẹ nhàng đều đặn.
Ngài nhắc với các đệ tử rằng mọi vật đều vô thường và khuyên họ hãy nương tựa vào chính mình và vào giáo pháp. Ngài hỏi có ai muốn hỏi điều gì lần cuối cùng thì hỏi. Sau đó Ngài nói lời di chúc cuối cùng: “Này các đệ tử, hãy nghe Như Lai nói đây: Vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt. Các thầy hãy tinh tấn lên để đạt tới giải thoát”.
Vào mùa mưa đầu tiên sau khi Đức Phật nhập diệt, năm trăm đệ tử Tỳ kheo hội họp tại một hang núigần thành Vương Xá để ôn tụng lại những lời dạy của Ngài. Tại cuộc kiết tập Kinh Điển lần thứ nhất này, Tôn giả A Nan, vốn là thị giả của Đức Phật, được mời nói lại tất cả những bài thuyết pháp của Phật mà mình đã nghe.
Tôn giả Ưu Ba Ly ôn tụng lại các giới điều của tu sĩ, còn Ngài Đại Ca Diếp thì nhắc lại Luận Tạng, gồm những điều nói về tâm lý và siêu hình học Phật Giáo. Ba loại sưu tập này được viết trên lá bối vài thế kỷ sau đó và được gọi là “Tripitaka” tức là Tam Tạng Kinh Điển, đã trở thành những giáo lý cốt lõi cho tất cả những giáo điển nhà Phật ngày nay.
Dịch giả Thích Nguyên Tạng
Nói thêm về Đức Phật
Đức Phật trong lịch sử, tức Phật Thích Ca Mâu Ni, hay Đức Phật Cồ Đàm (Gautama), sống cách đây khoảng 2.500 năm tại Ấn Độ. Tuy nhiên, Ngài không phải là đức Phật đầu tiên, và sẽ không phải là đức Phật cuối cùng. Ngài thuyết giảng rằng trong thời đại này (eon – một khoảng thời gian rất dài, có thể so sánh với thời gian từ lúc hình thành của vũ trụ mà chúng ta biết), sẽ có 1.000 vị Phật toàn giác thuyết giảng về Phật giáo (sau khi Phật giáo đã bị hoàn toàn lãng quên). Theo các kinh sách Phật giáo, Đức Phật thứ nhất, thứ hai, thứ ba là Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda), Câu Na Hàm Mâu Ni Phật (Kanakamuni), Ca Diếp Phật (Kashyapa), sau đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), Đức Phật trong lịch sử sống cách đây khoảng 2.500 năm, và Đức Phật tiếp theo sẽ là Đức Phật Di Lặc (Maitreya).
Một vị Phật khác với “Chúa trời”, “thần linh” hay “đấng tối cao”… theo cách hiểu của các tôn giáo Ki tô, Do Thái, Hồi giáo và nhiều tôn giáo khác ở chỗ, Đức Phật không phải là đấng sáng tạo ra vũ trụ, không phải là đấng toàn năng có thể ban phúc giáng họa cho con người. Trái lại, Phật là người đã giác ngộ, thấu đạt được sự thật – chân lý – và mang chân lý đó truyền giảng lại cho những người khác, giúp chúng sinh nhờ thực hành tu tập, trưởng dưỡng tâm linh mà cũng thành tựu giác ngộ được như vậy. Nhờ năng lực giác ngộ, một vị Phật có hiểu biết toàn tri, thấu đạt vạn pháp và có thể bằng cách đó đem lại lợi ích to lớn cho các chúng sinh khác. Như vậy, mọi chúng sinh đều tự chủ về cuộc sống cũng như khả năng thành tựu giác ngộ của bản thân, đều có thể đạt đến trạng thái Phật quả (mặc dù có thể phải mất nhiều kiếp). Đức Phật đã chỉ ra con đường đến với chân lý, nhưng không ai khác ngoài mỗi người phải tự mình tiến bước trên hành trình tâm linh của chính mình.
Hãy là một người đơn giản với trái tim có chủ kiến riêng. Không cô phụ mỗi tấm chân tình trong cuộc đời, cũng không nuông chìu những kẻ lợi dụng, vô nghĩa.
Thông thường, người ta thường thích kiểu tính cách nhiệt tình sôi nổi, nhưng đôi lúc cũng rất cần sự lặng lẽ thâm trầm.
Tùy theo tính cách mỗi người mà có sự thể hiện khác nhau, miễn không o ép bản thân phải nói cười qua loa hay đu theo thị hiếu cho giống với thiên hạ là được.
Chúng ta đều thích những người thùy mị ấm áp, bên cạnh họ không lo bị chọc đến nổi giận lôi đình. Dù vậy, đừng quên họ cũng có cảm nhận riêng, đừng bắt người ta sống theo sở thích của mình. Chúng ta thường ngưỡng mộ những người biết sống theo mỗi loại hoàn cảnh, nhưng không phải ai cũng có năng lực đó.
Hãy sống cởi mở, tự nhiên, tâm ta sẽ dễ chịu!
Đâu ai quy định mình phải có cuộc sống phong phú, rực rỡ? Chúng ta là những người bình thường, không cần có quá nhiều màu sắc màu, chỉ mong một đời bình an. Đừng bao giờ chỉ vì làm vừa lòng người khác mà o ép bản thân, trên đời này người thật sự xứng đáng để bạn cúi đầu vốn không nhiều.
Nhường nhịn lâu ngày dễ khiến người được đà lấn lướt, tấm lòng nên biết trao cho kẻ hiểu mình, tình cảm cũng cần dành cho người biết thương mình, bằng không nó sẽ thành vũ khí quay lại tổn thương bạn.
Hãy là một người đơn giản với trái tim có chủ kiến riêng. Không cô phụ mỗi tấm chân tình trong cuộc đời, cũng không nuông chìu những kẻ lợi dụng, vô nghĩa.
Sống – không gây phiền phức cho người khác, và nhắc mình phải biết cách tự vệ, cầu tiến trong mọi hoàn cảnh. Năng lượng tích cực đó lan tỏa ra chung quanh, những điều tốt đẹp sẽ từ từ tìm đến…
Không phải đến tận ngày nay nhân loại mới báo động đỏ, tấn công không khoan nhượng với các loại tội phạm kinh tế, mà ngay từ thời Thế Tôn, Ngài đã lên án, tuyên chiến và khai tử đối với loại tội phạm cực kỳ nguy hiểm này.
Kinh doanh, buôn bán là một trong những nghề nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao, có nhiều cơ hội để thành công trở nên giàu có nhưng đồng thời cũng dễ dàng chuốc lấy thất bại.
Vì lẽ, sự biến động về thị trường, giá cả và cạnh tranh rất dữ dội, trong khi quyết định đầu tư đôi lúc chỉ xảy ra trong tích tắc. Dù thương trường luôn là chiến trường nhưng từ xưa cho đến nay, kinh doanh buôn bán vẫn là một nghề hấp dẫn vì “phi thương bất phú”, không lao vào kinh doanh thì khó mà giàu lên được.
Tuy nhiên, không phải ai cũng dùng công sức và trí tuệ của mình để làm ăn chân chính, kinh doanh hợp pháp với hoài bão đem lại hạnh phúc cho tự thân và góp phần cải thiện, nâng cao đời sống xã hội.
Hiểu đúng về nghề chánh mạng và nghề tà mạng
Để kiếm tiền nhanh chóng, chạy theo siêu lợi nhuận, không ít người đã táng tận lương tâm, làm ăn phi pháp, gây ra biết bao tai họa. Những phi vụ đen về vũ khí, hạt nhân; các đường dây buôn bán phụ nữ; những hoạt động buôn bán ma tuý, rửa tiền có tính đa quốc gia của các tập đoàn, băng nhóm tội phạm đã trở thành mối hiểm hoạ, đe dọa an ninh và sức khoẻ của nhân loại trên toàn cầu.
Không phải đến tận ngày nay nhân loại mới báo động đỏ, tấn công không khoan nhượng với các loại tội phạm kinh tế, mà ngay từ thời Thế Tôn, Ngài đã lên án, tuyên chiến và khai tử đối với loại tội phạm cực kỳ nguy hiểm này. Người Phật tử, vâng lời răn dạy của Thế Tôn không nên và không được buôn bán đao kiếm, buôn bán người, buôn bán thịt, buôn bán rượu và buôn bán thuốc độc.
Ngày nay, nhân loại đang sống trong thời đại văn minh và tiến bộ, song những thủ đoạn làm ăn bất chính của các tập đoàn, băng đảng tội phạm lại càng tinh vi hơn, đặc biệt cực kỳ nguy hiểm vì mang tính toàn cầu.
Hơn ai hết, người con Phật luôn ý thức sâu sắc về sự nguy hại của những hoạt động kinh doanh phi pháp, chạy theo lợi nhuận mà không màng đến hậu quả để làm ăn lương thiện nhằm xây dựng hạnh phúc, an vui bền vững cho bản thân và xã hội.
Kiên quyết đấu tranh với các hình thức kinh doanh bất chính, phi nhân và phi nghĩa là hành động thiết thực của người Phật tử, sống theo lời Phật dạy.
Phật giáo không phải là một con đường siêu hình, cũng không phải là một con đường nghi thức. Phật giáo không phải là một chủ nghĩa hoài nghi, cũng không độc đoán.
Phật giáo không chủ trương rằng đời sống là trường tồn vĩnh cửu, vô thủy vô chung, (thường kiến), cũng không chủ trương rằng sau kiếp sống này không còn gì nữa, chết là hết (đoạn kiến).
Phật giáo không dạy lối sống khổ hạnh, cũng không giáo truyền lối sống lợi dưỡng.
Phật giáo không bi quan, không lạc quan, nhưng thực tiễn.
Phật giáo không tuyệt đối tại thế, cũng không hoàn toàn siêu thế.
Phật giáo là con đường giác ngộ duy nhất.
Danh từ Phạn Ngữ gọi Phật pháp là Dhamma. Đúng căn nguyên, Dhamma có nghĩa là nâng đỡ, hay giữ lại (nâng đỡ người hành động đúng theo quy tắc, hay giữ lại, không để cho người hành động đúng theo quy tắc phải rơi vào những trạng thái đau khổ).
Dhamma, Giáo pháp, là cái gì thật sự là vậy, là thực tướng, Dhamma là giáo lý của thực tế. Dhamma là phương tiện để giải thoát ra khỏi mọi hình thức khổ đau. Dhamma chính là sự giải thoát.
Dầu chư Phật có ra đời hay không, Dhamma (Giáo Pháp) vẫn tồn tại vĩnh cửu. Dhamma (Giáo pháp) luôn luôn bị che lấp trước cặp mắt vô minh của con người, cho đến lúc có một vị Phật ra đời, chứng ngộ và truyền bá lại cho thế gian.
“Dầu chư Phật có thị hiện trên thế gian hay không, này các Tỳ Kheo, có một sự kiện, một nguyên tắc nhất định, một định luật thiên nhiên, là tất cả các vật cấu tạo đều Vô thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và tất cả đều không có linh hồn trường cửu (Vô ngã, Anatta). Như Lai đã chứng ngộ và thấu triệt điều ấy. Như Lai quảng bá, truyền dạy, tuyên bố, xác định, phân tách và chỉ dẫn rành mạch rằng tất cả các vật cấu tạo (hữu lậu) đều vô thường, khổ và vô ngã [1]”.
Trong bộ Majjhima Nikaya (Trung A Hàm), Đức Phật dạy:
“Như Lai chỉ dạy một điều: đau khổ và sự chấm dứt mọi đau khổ [2] “.
Đó là giáo lý của thực tế.
Kinh Udana dạy:
“Này hỡi Tỳ Kheo, cũng như nước của đại dương hùng dũng chỉ có một vị là vị mặn của muối, Giáo pháp chỉ có một vị là Giải Thoát (Vimutti) [3]”.
Đó là phương tiện giải thoát.
Giáo pháp cao thượng không phải là cái gì ở ngoài ta, mà hoàn toàn tùy thuộc nơi ta và chỉ do ta chứng ngộ. Do đó Đức Phật dạy:
“Attadipa viharatha attapatisarana”.
“Hãy ẩn náu nơi chính ta như một hải đảo, xem chính ta là chỗ nương tựa”. [4]
Chú thích:
1. Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, phần 1, trang 286.
2. Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, tập I, trang 140, số 22.
3. Trang 67.
4. Maha Parinibbana Sutta, Kinh Đại Niết Bàn, Trường A-hàm, Kinh 16.
Về cuối đời, khi trưởng giả Cấp Cô Độc biết mình sắp ra đi, ông hướng tâm về Tam bảo. Vì sức cùng lực kiệt, ông không thể đến tinh xá Kỳ Viên như mọi lần, chỉ nhờ một gia nhân tâm phúc đến viếng thăm, kính lễ và vấn an sức khỏe Đức Phật.
“Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ trưởng giả Cấp Cô Độc mang bệnh hiểm nghèo. Lúc ấy trưởng giả Cấp Cô Độc bảo sứ giả rằng:
– Ngươi hãy đi đến chỗ Đức Phật, vì ta mà đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn hỏi thăm sức khỏe, xem Thánh thể có được an khang, khỏe mạnh, không bệnh tật, đi đứng thoải mái, khí lực có được bình thường không? Rồi nói như vầy: ‘Trưởng giả Cấp Cô Độc cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, thăm hỏi Đức Thế Tôn Thánh thể có được an khang, khỏe mạnh, không bệnh tật, đi đứng thoải mái, khí lực có được bình thường không?’.
Sau khi ngươi đã vì ta mà thăm hỏi Đức Thế Tôn rồi hãy đi đến chỗ Tôn giả Xá-lê Tử, hãy vì ta mà đảnh lễ dưới chân ngài rồi hỏi thăm Tôn giả xem Thánh thể có được an khang, khỏe mạnh, không bệnh tật, đi đứng thoải mái, khí lực có được bình thường không? Rồi nói như vầy: ‘Trưởng giả Cấp Cô Độc cúi đầu đảnh lễ dưới chân Tôn giả Xá-lê Tử, thăm hỏi Thánh thể có được an khang, khỏe mạnh, không bệnh tật, đi đứng thoải mái, khí lực có được bình thường không?’.
Bạch Tôn giả Xá-lê Tử, trưởng giả Cấp Cô Độc đang mang bệnh tật rất hiểm nghèo, nay đã đến hồi nguy kịch. Trưởng giả Cấp Cô Độc với tâm chí thiết rất muốn được gặp Tôn giả Xá-lê Tử, nhưng cơ thể quá yếu đuối không còn chút khí lực để đi đến chỗ Tôn giả Xá-lê Tử được. Lành thay, Tôn giả Xá-lê Tử, xin ngài hãy vì lòng từ, mong ngài đến nhà trưởng giả Cấp Cô Độc”.
…
Tôn giả Xá-lê Tử liền im lặng nhận lời. Bấy giờ sứ giả biết Tôn giả Xá-lê Tử đã im lặng nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh ba vòng rồi ra về.
(Kinh Trung A-hàm, phẩm Xá-lê Tử tương ưng, kinh Giáo hóa bệnh, số 28 [trích])
Cư sĩ Cấp Cô Độc: Người đã vẽ nên một bức tranh nhân đạo sinh động
Lời bàn:
Chúng ta đều biết trưởng giả Cấp Cô Độc là vị cư sĩ đại hộ pháp cho Đức Phật và Tăng đoàn. Dấu ấn sâu đậm nhất trong sự nghiệp hộ pháp của ông là cúng dường tinh xá Kỳ Viên; công trình rất quy mô và đắt đỏ hiện nay nền móng vẫn còn, rất nhiều kinh văn quan trọng được Đức Phật thuyết ở đây. Bên cạnh đó, ông còn thường xuyên chu cấp lương thực cho những người nghèo đói, cô độc ở Xá-vệ. Như vậy, phước báo bố thí và cúng dường của Cấp Cô Độc rất là to lớn.
Về cuối đời, khi trưởng giả Cấp Cô Độc biết mình sắp ra đi, ông hướng tâm về Tam bảo. Vì sức cùng lực kiệt, ông không thể đến tinh xá Kỳ Viên như mọi lần, chỉ nhờ một gia nhân tâm phúc đến viếng thăm, kính lễ và vấn an sức khỏe Đức Phật. Cấp Cô Độc chỉ nằm ở nhà vọng tâm kính lễ bái biệt Thế Tôn với tất cả lòng thành.
Riêng đối với Tôn giả Xá-lợi-phất (Xá-lê Tử), trưởng giả cũng cho người hỏi thăm, kính lễ và vấn an sức khỏe. Quan trọng nhất là thỉnh Tôn giả Xá-lợi-phất đến tư gia để cho Cấp Cô Độc được diện kiến lần cuối cùng. Hẳn là Cấp Cô Độc rất cần sự hộ niệm hay có duyên sự gì đặc biệt ở đây. Một vị đại cư sĩ đắc Sơ quả Tu-đà-hoàn, đã nhập lưu dự vào dòng Thánh, làm được phước đức vô lượng tuy đã biết đường đi nhưng cũng vẫn cần sự hộ niệm và khai thị, nhất là sự yểm trợ của những bậc Thánh tăng thượng thủ như Tôn giả Xá-lợi-phất.
Như thấu cảm được tấm chân tình của Cấp Cô Độc, Tôn giả Xá-lợi-phất đã nhận lời. Thật phước đức khi cuối đời trưởng giả Cấp Cô Độc vẫn một lòng hướng về Tam bảo, lại được Thánh tăng quang lâm hộ niệm. Đây chính là một phúc phần, là biểu hiện của công đức hộ trì Tam bảo mà không phải ai cũng có được.
Lúc nọ Phật đang thuyết pháp, có một người nữ vào lạy Phật rồi ngồi qua một bên. Ðức Thế Tôn biết mà cố ý hỏi rằng: “Có phải nàng vì quá thương con, mà mớm cho con ăn nhiều chất bơ, rồi không biết có tiêu hoá hay không tiêu hoá?”.
Người nữ liền bạch Phật: “Lạ lùng thay! Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của con. Bạch Thế Tôn! Sớm mai này tiện nữ cho con ăn nhiều chất bơ, lòng tiện nữ sợ rằng không tiêu hoá được, nó sẽ phải bệnh. Ngưỡng mong đức Như Lai chỉ dạy cho”.
Phật dạy: “Con nàng ăn thức ấy đã tiêu hoá tốt, nó sẽ được khoẻ mạnh”. Người nữ nghe đức Phật nói, thời vui mừng hớn hở và thốt lời rằng: “Vì đức Như Lai nói đúng như thật nên con vui mừng”.
Ðức Thế Tôn vì muốn điều phục các chúng sinh, mà khéo phân biệt nói tiêu hay chẳng tiêu, cũng nói các pháp vô ngã, vô thường. Nếu Phật nói “thường” trước, các đệ tử sẽ cho rằng pháp này đồng với ngoại đạo mà không chịu tin theo, vì hàng Thanh văn đệ tử sẽ chẳng tiêu được pháp thường trụ, nên Như Lai trước dạy pháp “khổ”, “vô thường”. Khi mà hàng Thanh văn đệ tử đã đầy đủ công đức, đủ sức tu tập kinh pháp Đại thừa, Như Lai ở kinh này nói sáu vị: Một là “khổ”, vị chua; hai là “vô thường”, vị mặn; ba là “vô ngã”, vị đắng; bốn là “lạc”, vị ngọt; năm là “ngã”, vị cay; sáu là “thường”, vị lạt.
Trong thế gian kia có ba vị: vô thường, vô ngã, và khổ, phiền não làm củi, trí huệ làm lửa, do các nhân duyên đó mà thành cơm Niết bàn tức là “thường, lạc và ngã”, làm cho các đệ tử đều được nếm mùi ngọt ngon.
Phật lại bảo người nữ rằng: “Nếu nàng có sự duyên muốn đến xứ khác, thời phải đuổi đứa con trai hung ác ra khỏi nhà, rồi đem gia nghiệp giao cho đứa con trai hiền lành”.
Người nữ bạch Phật rằng: “Thật đúng như lời đức Thế Tôn dạy, gia nghiệp nên giao cho đứa con hiền, chứ chẳng nên giao cho đứa con dữ”. Phật nói: “Như Lai cũng vậy, lúc nhập Niết bàn, đem tạng pháp vô thượng phó chúc cho các vị Bồ Tát, chứ không giao cho hàng Thanh văn, vì hàng Thanh văn tưởng là Như Lai thật diệt độ. Còn các vị Bồ Tát thời nhận rằng Như Lai thường trụ không biến đổi. Mà quả thật Như Lai không có diệt độ. Như lúc nàng xa nhà chưa trở về, đứa con ác kia bèn nói là nàng đã chết mất rồi, còn đứa con hiền vẫn tin tưởng là nàng còn sống. Mà chính thật thời nàng còn sống.
Nếu có chúng sinh nào nhận rằng Phật là thường trụ không biến đổi, phải biết nhà kẻ ấy thời là có Phật. Ðây gọi là Chính Tha.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: “Nếu có người nói thế này: Như Lai vô thường. Biết là vô thường, vì như lời Phật dạy diệt các phiền não gọi là Niết bàn, cũng như lửa tắt thời không chỗ có, dứt các phiền não gọi là Niết bàn cũng lại như vậy, thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư? Lại như Phật dạy, rời các cõi hữu lậu, bèn gọi là Niết bàn, trong Niết bàn đây không có các cõi hữu lậu, thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư? Như cái áo hư rách hết, chẳng còn gọi là món vật. Cũng vậy, Niết bàn dứt các phiền não chẳng gọi là vật gì. Thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư? Ðức Phật cũng dạy: ly dục tịch diệt gọi là Niết bàn, như người bị chém đứt đầu thời không còn có đầu, cũng vậy, ly dục tịch diệt rỗng trống, không chỗ có nên gọi là Niết bàn. Thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư? Phật từng dạy rằng:
Như sắt nướng đỏ
Ðập văng mạt lửa
Văng ra liền tắt,
Chẳng biết ở đâu!
Ðược chính giải thoát.
Cũng lại như vậy.
Ðã lìa dâm dục,
Các cõi hữu lậu.
Ðược quả vô động,
Không rõ đến đâu!
Thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi?
Này Ca Diếp! Nếu ai hỏi gạn như vậy, gọi là lời gạn tà. Ông cũng chẳng nên suy nghĩ rằng tính Như Lai là diệt tận.
Này Ca Diếp! Dứt hết phiền não không còn gọi là vật, vì đã trọn rốt ráo hẳn, thế nên gọi là “Thường”. Câu này tịch tịnh không có gì hơn. Dứt hết các tướng không có thừa sót. Câu đây trắng sạch thường trụ không thối chuyển. Thế nên Niết bàn gọi là thường trụ. Như Lai thường trụ không biến đổi cũng lại như vậy.
Mạt lửa để dụ phiền não, văng ra liền tắt không biết ở đâu, để chỉ Như Lai đã dứt phiền não, chẳng ở trong năm loài. Thế nên Như Lai là pháp thường trụ không có biến đổi.
Này Ca Diếp! Chính pháp là chỗ tôn thờ của chư Phật, nên Như Lai cung kính cúng dường. Vì pháp là thường trụ nên chư Phật cũng thường trụ”.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: “Nếu lửa phiền não tắt, Như Lai cũng tắt, thế thời Như Lai không có chỗ thường trụ, như mạt sắt kia, mất ánh lửa đỏ rồi chẳng biết văng đến đâu. Như Lai phiền não cũng vậy, diệt rồi thời vô thường. Lại như trên thanh sắt kia, hơi nóng và màu đỏ tắt rồi thời không còn có, Như Lai cũng vậy diệt rồi thời vô thường. Diệt lửa phiền não bèn nhập Niết bàn, nên biết Như Lai tức là vô thường”.
Phật nói: “Này Ca Diếp! Thanh sắt là nói các phàm phu. Người phàm dầu diệt phiền não, diệt rồi sinh lại, nên gọi là vô thường. Như Lai chẳng phải như vậy, diệt rồi không còn sinh lại nên gọi là thường”.
Ca Diếp Bồ Tát lại bạch: “Như nơi thanh sắt, màu lửa đỏ đã tắt, đem thanh sắt để lại trong lửa, thời màu đỏ sẽ sinh lại. Nếu như vậy, Như Lai lẽ ra sinh phiền não lại, nếu phiền não sinh trở lại bèn là vô thường”.
Phật nói: “Này Ca Diếp! Ông không nên nói Như Lai vô thường, vì Như Lai là thường trụ.
Như đốt gỗ, khi gỗ hết lửa tắt thời còn tro, phiền não diệt rồi bèn có Niết bàn. Các điều dụ như áo hư, chém đầu, lọ vỡ cũng như vậy.
Này Ca Diếp! Như sắt nguội có thể làm nóng lại. Như Lai không phải như vậy, dứt phiền não rồi rốt ráo thanh lương, lửa phiền não chẳng còn sinh trở lại.
Vô lượng chúng sinh như thanh sắt kia Như Lai dùng lửa mạnh trí tuệ đốt sắt kiết sử phiền não của chúng sinh”.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: “Lành thay! Lành thay! Con nay thật biết rõ chư Phật là thường trụ”.
Phật nói: “Này Ca Diếp! Ví như Thánh Vương vốn ở trong cung, hoặc có lúc dạo chơi nơi vườn; dầu lúc ấy vua không có ở giữa đám cung phi, cũng chẳng được nói là vua đã chết. Cũng vậy, Như Lai dầu nhập vào trong Niết bàn không hiện nơi cõi Diêm Phù, chẳng gọi là vô thường. Như Lai ra khỏi vô lượng phiền não vào nơi Niết bàn an vui, dạo chơi vui vẻ nơi các vườn hoa chính giác”.
Đối với người Phật tử, Đức Phật có đủ uy quyền nhất để thuyết minh vấn đề tái sinh. Chính trong đêm Ngài đắc quả chính đẳng chính giác, lúc canh một, Đức Phật chứng ngộ Túc Mạng Minh là tuệ biết rỏ những kiếp quá khứ.
Ngài nói: “Như Lai đã nhớ lại nhiều kiếp sống trong quá khứ như thế này: trước hết một kiếp, rồi hai kiếp, rồi ba, bốn, năm, mười, hai mươi, đến năm mươi, rồi một trăm, một ngàn, một trăm ngàn kiếp v.v… ” [1]
Vào canh hai, Đức Phật chứng đắc Thiên Nhãn Minh, nhận thấy chúng sinh chết từ kiếp sống này tái sinh vào một kiếp sống khác. Ngài chứng kiến cảnh tượng “kẻ sang người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người khốn khổ, chúng sinh hoại diệt và tái sinh, tùy hành vi tạo tác của mỗi người”.
Đó là những Phật ngôn đề cập đến vấn đề tái sinh. Những đoạn kinh tham khảo trong kinh điển liên quan đến thuyết tái sinh chứng tỏ rằng Đức Phật không dựa vào một nguồn hiểu biết nào sẳn có để giải thích chân lý hiển nhiên này. Ngài chỉ dựa trên kinh nghiệm bản thân và nhận thức cá nhân của chính Ngài, một nhận thức tuy siêu phàm nhưng mỗi chúng ta đều có thể thành đạt nếu trau dồi rèn luyện đúng mức.
Trong bài kệ hoan hỷ (Udana) đầu tiên, Đức Phật tuyên ngôn:
“Xuyên qua kiếp sống này (anekajati), Như Lai lang thang đi, đi mãi, để tìm người thợ cất cái nhà này. Phiền muộn thay những kiếp sống triền miên lặp đi lặp lại (dukkha jati punappunam)”. [2]
Trong bài kinh Pháp đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka sutta) [3] Đức Phật đề cập đến chân lý thâm diệu thứ nhì như sau: “Chính Ái Dục dẫn dắt chúng sinh đi tái sinh” (yayam tanha ponobhavika). Và Đức Phật kết luận bài Pháp: “Đây là kiếp sống cuối cùng của Như Lai. Từ đây Như Lai không còn tái sinh nữa (ayam anyima jati natthi dani punabbhavo).”
Trong bộ Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, có ghi rằng, sau khi thành tựu Đạo Quả Phật, vì lòng thương chúng sinh, Ngài dùng tuệ nhãn quan sát chúng sinh trước khi quyết định hoằng dương Giáo Pháp. Ngài nhận thấy rằng có những chúng sinh biết tội lỗi, sợ tái sinh, sợ mãi mãi sinh-tử, tử-sinh trong vòng luân hồi (paralokavajjabhaya-dassavino). [4]
Trong nhiều đoạn kinh khác nhau, Đức Phật dạy rõ ràng rằng có những kẻ phải bị sinh vào cảnh khổ vì đã sống cuộc đời tội lỗi ô trược và có người, nhờ hành thiện, tạo nghiệp lành, được tái sinh vào nhàn cảnh.
Ngoài những tích truyện thú vị trong Túc Sinh Truyện (Jataka), một bộ truyện có giá trị luân lý quan trọng ghi lại các tiền kiếp của Đức Phật, hai bộ Majjhima Nikaya (Trung A Hàm) và Anguttara Nikaya (Tăng Nhất A Hàm) thỉnh thoảng cũng đề cập đến những kiếp sống quá khứ của Đức Phật.
Trong kinh Ghatikara sutta [5], Đức Phật cũng thuật lại cho Đại Đức Ananda rằng trong một tiền kiếp, vào thời Đức Phật Kassapa, ngài là Jotipala. Kinh Anathapindikovada sutta [6] cũng ghi rằng liền sau khi tái sinh vào cảnh trời, nhà triệu phú Anathapindika (Cấp Cô Độc) trở về viếng Đức Phật đêm sau. Trong bộ Anguttara Nikaya [7], Tăng Nhất A Hàm, Đức Phật nhắc đến một kiếp sống quá khứ Ngài có tên Pacetana. Trong bộ Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, Đức Phật kể tên vài vị Phật đã thị hiện trên thế gian trước Ngài.
Maha-Parinibbana sutta (Kinh Đại Niết Bàn) [8] ghi rằng một hôm Đại Đức Ananda đến bạch với Đức Phật, hỏi thăm về số phận của một số người chết trong làng nọ. Đức Phật nhẫn nại diễn tả trường hợp từng người, từng hoàn cảnh.
Những trường hợp tương tự rất nhiều trong Tam Tạng Kinh, chứng tỏ Đức Phật giảng giải giáo thuyết tái sinh như một chân lý có thể kiểm chứng. [9]
Theo lời chỉ dạy của Đức Phật, trong hàng đệ tử của Ngài có nhiều vị tu hành đúng đắn, trau giồi và phát triển trí tuệ đúng mức, đã được biết ít nhiều về tiền kiếp của mình trong vô lượng kiếp sống. Tuệ giác của Đức Phật vô hạn định.
Trước thời Đức Phật, một vị nọ người Ấn Độ Rishis, cũng nổi tiếng nhờ những phép thần thông như thiên nhãn, thiên nhĩ, thần giao cánh cảm, viễn giác, viễn cảm v.v…
Mặc dầu khoa học chưa tiến đến mức am hiểu những pháp siêu thường, theo Phật Giáo, người trau giồi thiền tập và phát triển tâm lực đầy đủ có thể nhớ những việc xảy ra trong các kiếp quá khứ cũng như một việc đã xảy diễn vào lúc nào trong kiếp sống này. Xuyên qua những người ấy, ta có thể giao cảm trực tiếp với những cảnh giới khác bằng tư tưởng và tri giác, không phải bằng năm giác quan thường.
Cũng có một vài người khác thường, nhất là các em bé, do luật phối hợp tư tưởng bất ngờ, sực nhớ lại đoạn nào hoặc một vài chi tiết trong những kiếp sống quá khứ [10]. Sách có chép rằng Pythagoras đã nhớ lại tường tận cái nhẫn mà ông đã dùng trong một tiền kiếp, lúc ấy ông vây hãm thành Troy. Trong kiếp tái sinh làm Pythagoras, cái nhẫn ấy vẫn còn để trong một đền thờ Hy Lạp. [11]
Có một em bé, nhờ cách nọ hay cách kia, nhớ lại kiếp trước. Nhưng đến khi lớn lên thì em không còn nhớ nữa. Do những thí nghiệm của các nhà tâm linh học trứ danh, những hiện tượng ma quỷ, những sự giao cảm giữa hai cảnh âm dương, những sự kiện mà ta thường gọi là có một số âm linh nhập v.v… cũng đem lại một vài tia sáng cho vấn đề tái sinh. [12]
Trong trạng thái thôi miên, có vài người đã thuật lại những kinh nghiệm của mình ở kiếp quá khứ. Cũng có một ít người khác, như trường hợp Edgar Casey ở Mỹ Quốc, chẳng những thấy được kiếp trước của người khác nhờ đó mà còn có thể chữa bệnh cho họ.
Ta có thể giải thích những hiện tượng ấy rằng đó là nhờ người kia nhớ lại những kinh nghiệm ở kiếp trước, hoặc có một âm linh nhập. Cách giải thích thứ nhất có vẻ hợp lý hơn nhưng ta cũng không hoàn toàn bác bỏ cách giải thích thứ nhì. [13]
Bao nhiêu lần tình cờ mà ta gặp một người trước kia chưa từng gặp, nhưng trong trí vẫn nhớ hình như đã quen biết đâu đây? Bao nhiêu lần ta mục kích một cảnh lạ chưa từng đến, nhưng tự nhiên có cảm giác đã quen thuộc một lúc nào [14].
Trong chú giải Kinh Pháp Cú có ghi lại câu truyện hai vợ chồng người kia, khi gặp Đức Phật thì quỳ dưới chân Ngài, bạch rằng:
“Này con yêu dấu, có phải chăng phận sự con là phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già? Tại sao bấy lâu nay con không đến thăm viếng cha mẹ? Đây là lần đầu tiên mà cha mẹ gặp lại con.”
Đức Phật giải thích rằng sở dĩ có sự bộc khởi mối thâm tình một cách đột ngột và bất ngờ như vậy là vì trong nhiều kiếp sống quá khứ hai ông bà đã làm cha mẹ Ngài, và Đức Phật dạy:
“Do hoàn cảnh thân cận trong quá khứ hay thuận lợi trong hiện tại.
Tình thâm ở thời xa xôi ấy mọc lên trở lại như hoa sen mọc trong nước. [15]”
Trên thế gian có những nhân vật cao siêu xuất chúng, những bậc toàn giác như Đức Phật. Có thể nào chỉ trong một thời gian của một kiếp sống mà có thể trau giồi trí tuệ đến mức cao siêu toàn thiện như vậy chăng? Có thể nào có tình trạng tiến hóa đột ngột như vậy chăng?
Ta giải thích thế nào về trường hợp của những nhân vật như Đức Khổng Tử, Homer, Panini, Buddhaghosa, và Plato, những bậc thiên tài xuất chúng như Kalidasa, Shakespeare, và những hạng thần đồng như Ramanujan, Pascal, Mozart, Beethoven…?
Các bậc cao siêu xuất chúng như vậy, dĩ nhiên đã trãi qua nhiều kiếp sống cao thượng trong quá khứ và đã từng thu thập những kinh nghiệm tương tự. Phải chăng là sự ngẫu nhiên hay hoàn cảnh thuận lợi đã đưa các vị ấy vào trong gia đình họ?
Trong trường hợp các thần đồng hình như cũng tạo nên những thắc mắc cho các nhà khoa học. Vài nhân vật trong ngành y học giải thích rằng những hiện tượng như thần đồng, phát sinh do sự phát triển khác thường của những hạch tuyến như hạch màn mũi, tùng quả tuyến và hạch thận tuyến. Nguyên nhân sự phát triển khác thường của các hạch tuyến ấy bên trong vài cá nhân nhất định cũng có thể là do nghiệp quá khứ. Tuy nhiên, nếu chỉ một vài hạch tuyến phát triển khác thường, làm sao Christian Heineken có thể nói chuyện ngay vài tiếng đồng hồ sau khi được sinh ra, đọc lại nhiều đoạn trong thánh kinh lúc lên một, trả lời những câu hỏi về địa dư lúc lên hai, nói được tiếng Pháp và tiếng La Tinh lúc lên ba, và khi lên bốn đã theo học các lớp triết? Nếu chỉ vì có một vài hạch tuyến phát triển khác thường thì làm sao John Stuart Mill có thể đọc chữ Hy Lạp lúc mới ba tuổi, làm sao Macaulay có thể viết Thế Giới Sử lúc vừa sáu tuổi, làm sao William James Sidis đọc và viết rành chữ mẹ đẻ (Hoa Kỳ) lúc mới lên hai, đã đọc và viết những tiếng Pháp, Nga, Anh, Đức và chút ít La Tinh và Hy Lạp khi lên tám, làm sao Charles Bennet ở Manchester có thể nói được nhiều thứ tiếng lúc mới ba tuổi? Những người không phải trong giới khoa học có giải thích được chăng các sự kiện lạ lùng ấy? [16] Các nhà khoa học có giải thích được chăng vì sao các hạch tuyến ấy lại phát triển khác thường trong một vài người mà không phát triển trong người khác, hay tất cả mọi người? Vấn đề thực sự còn chưa được giải quyết.
Thuyết truyền thống riêng rẽ không đủ để giải thích các trường hợp thần đồng.
“Phải chi trong ông bà cha mẹ hay trong hàng con cháu các vị ấy cũng có những thần đồng, dầu kém hơn, thì cũng là những sự kiện để chứng minh thuyết truyền thống.”
Để giải thích vấn đề phức tạp ấy một cách thỏa đáng ta phải thêm vào thuyết truyền thống lý Nghiệp Báo và Tái Sinh.
Có lý do nào để tin rằng chỉ vỏn vẹn kiếp sống hiện tại này mà đủ có thể quyết định hạnh phúc vĩnh cửu hay cảnh khốn cùng vô tận trong tương lai không? Bao nhiêu cố gắng trong kiếp sống ngắn ngủi nhiều lắm là một trăm năm có thể là sự chuẩn bị thích nghi cho cuộc sống vĩnh cửu không?
Nếu chúng ta tin có hiện tại và tương lai, tất nhiên chúng ta tin có quá khứ.
Nếu có những lý do để tin rằng có những kiếp sống trong quá khứ thì cố nhiên chúng ta không có lý do nào để không tin rằng sau khi kiếp hiện tại tạm thời chấm dứt chúng ta vẫn tiếp tục sống. [17]
Chính những kiếp sống quá khứ và vị lai giải thích vì sao trong đời, lắm khi người hiền lương đạo đức phải chịu gian lao khốn khổ và có những người gian ác tàn bạo lại được giàu sang may mắn. [18]
Chúng ta sinh ra trong trạng thái mà chính hành động của ta trong quá khứ đã tạo nên. Nếu trong kiếp hiện tại, mặc dầu sống trong sạch, mà ta gặp phải những điều bất hạnh thì nên biết rằng đó là do nghiệp xấu của ta trong quá khứ. Trái lại, nếu đời sống nhơ bẩn tội lỗi mà ta vẫn được an vui hạnh phúc, giàu sang, may mắn, thì đó cũng do nghiệp tốt của ta đã tạo trong quá khứ. Hành động tốt và xấu của ta trong hiện tại cũng sẽ tạo quả ngay khi cơ duyên hội đủ.
Một văn hào Tây Phương nói:
“Dầu tin có những kiếp sống quá khứ hay không, niềm tin này là giả thuyết hợp lý duy nhất khả dĩ bắt nhịp cầu để vượt qua những cái hố trong sự hiểu biết của chúng ta về các sự kiện trong đời sống hằng ngày. Lý trí cho ta biết rằng ý niệm về đời sống quá khứ và lý nghiệp báo có thể giải thích chẳng hạn như mức độ khác biệt giữa hai đứa trẻ sinh đôi, như làm thế nào có người như Shakespeare, với kinh nghiệm ít ỏi, giới hạn trong một kiếp sống, có thể mô tả chính xác một cách kỳ diệu bao nhiêu nhân vật, thuộc nhiều loại rất khác nhau, những cảnh tượng v.v… mà thực ra ông không thể biết được. Nó giải thích tại sao các tác phẩm của các bậc vĩ nhân vượt lên khỏi rất xa kinh nghiệm mà các vị ấy có thể có. Nó giải thích hiện tượng thần đồng và sự khác biệt sâu xa giữa người này và người khác, trên phương diện tâm trí, đạo đức, tinh thần và vật chất, điều kiện, hoàn cảnh v.v… mà ta có thể quan sát ở khắp nơi trên thế gian.”
Nghiệp báo và tái sinh giải thích những gì?
Thuyết nghiệp báo và tái sinh giải thích:
1- Vấn đề đau khổ mà chính ta phải chịu trách nhiệm;
2- Tình trạng chênh lệch tựa hồ như bất công giữa người và người;
3- Sự hiện hữu của những bậc vĩ nhân và những thần đồng;
4- Tại sao hai trẻ sinh đôi giống nhau y hệt về mặt vật chất, được nuôi dưỡng y như nhau, mà lại có những đặc tính hoàn toàn khác biệt về mặt tinh thần, đạo đức và trí tuệ;
5- Tại sao trong một gia đình, nếu theo định luật truyền thống thì con cái phải giống nhau hết, mà trong thực tế thì lại khác;
6- Tại sao có những người có khiếu đặc biệt:
7- Tại sao cha mẹ và con cái lại có những đặc tính khác nhau về mặt đạo đức và trí tuệ;
8- Tại sao trẻ con lại có những tật xấu như tham lam, sân hận, ganh tỵ
9- Tại sao khi gặp một người nào lần đầu tiên, ta đã có thiện cảm hay ác cảm;
10- Tại sao trong mỗi người lại có tiềm tàng ngủ thầm “một kho tàng đức hạnh và một hầm tật xấu”;
11- Tại sao có sự thay đổi bất ngờ, bậc thiện trí thức trở thành tầm thường hay kẻ sát nhân bỗng nhiên đổi tính, sống như bậc thánh;
12- Tại sao có trường hợp cha mẹ hiền lương mà sinh con hung ác, trái lại cha mẹ hung dữ lại sinh con nhân từ;
13- Tại sao, một mặt, ta như thế nào trong hiện tại là do ta đã như thế nào trong quá khứ, và ta sẽ như thế nào trong tương lai là do ta như thế nào trong hiện tại; mặt khác, trong hiện tại ta như thế nào không hoàn toàn bởi vì trong quá khứ ta đã như thế nào và trong tương lai ta sẽ như thế nào cũng không hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng ta như thế nào trong hiện tại;
14- Tại sao có những cái chết đột ngột và có sự thay đổi bất ngờ về tài sản sự nghiệp;
15- Và trên tất cả, thuyết Nghiệp Báo và Tái Sinh giải thích vì sao có bậc toàn giác, những bậc giáo chủ toàn thiện như chư Phật, với đầy đủ đức tính vật lý, tinh thần và trí tuệ.
Chú thích:
[1] Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, Mahasaccaka Sutta, kinh số 36, i, 248
[4] Majjhama Nikaya, Trung A Hàm, phần i, trang 169.
[5] Majjhama Nikaya, Trung A Hàm, phần ii, trang 45 (kinh số 81).
[6] Majjhama Nikaya, Trung A Hàm, phần iii, trang 258 (kinh số 143).
[7] Majjhama Nikaya, Trung A Hàm, phần i, trang 111
[8] Digha Nikaya, phần ii, trang 91 (kinh số 16).
[9] Xem J. G. Jennings, “The Vedantic Buddhism of the Buddha”
[10] Trường hợp của Shanti Devi, xứ Ấn Độ, là một thí dụ hiển nhiên. Xem tạp chí “The Bosat”, tập xiii, số 2, trang 27.
[11] William Q. Atkinson và E. D. Walyer, trong quyển “Reincarnation and the Law of Kamma”.
[12] Kinh Theregatha, Trưởng lão Tăng Kệ, ghi rằng có một vị Bà La Mô kia “được tín đồ khâm phục nhờ mỗi lần gõ móng tay lên trên một đầu lâu khi biết được người chủ của cái đầu lâu ấy đã tái sinh ở nơi nào.”
Có những người biểu hiện các nhân cách khác nhau trong các thời điểm khác nhau trong đời của họ. Giáo sư James cũng có nêu lên một vài trường hợp đặc biệt và thú vị trong quyển “Principles của Psychology”. (Xem F. W. H. Myers, “Human Personality and its Survival of Bodily Death”). Sách Thanh Tịnh Đạo có ghi một chuyện một vị trời nhập vào một người cư sĩ (Xem The Path of Purity, phần i, trang 48).
Chính tác giả (Đ.Đ. Narada) cũng có gặp những người ngồi đồng, làm trung gian cho giới vô hình chuyển đạt tư tưởng và những người khác bị âm linh không tốt nhập vào. Khi ở trong trạng thái mê thì những người ấy làm và nói những điều mà thường họ không hề biết, và sau khi tỉnh lại họ cũng không còn nhớ gì hết.
[13] Xem “Many Mansions”, đã có dịch ra Việt ngữ dưói tựa đề “Những bí ẩn của cuộc đời” do dịch giả Nguyễn Hữu Kiệt, và “The World Within” của Gina Cerminara.
[14] Chính những kinh nghiệm tương tự làm cho Sir Walter Scott ý thức được thuyết luân hồi. Khi viết lại tiểu sử của Sir Walter Scott trong quyển “Life of Scott”, tác giả Lockhart có trích một đoạn trong quyển nhật ký của ông, ngày 17-2-1828 như sau: “Chắc chắn tôi không thể nói rõ có nên viết ra đây hay không, rằng ngày hôm qua vào giờ cơm chiều, tôi bị cái mà tôi gọi là ý thức có những tiền kiếp ám ảnh một cách kỳ lạ, thí dụ như một ý nghĩ mơ hồ rằng không có việc gì xảy ra mà ta có thể nói là lần thứ nhất. Cũng những vấn đề ấy được đem ra thảo luận và có những người phát biểu những ý kiến y hệt. Sự xúc động mạnh mẽ đến độ có thể tả như cái mà người ta gọi là một ảo ảnh ở sa mạc và cơn sốt trên biển cả.”
“Bulwer Lytton diễn tả những kinh nghiệm bí ẩn khó hiểu ấy như một loại kỳ lạ thuộc về tinh thần làm cho ta nhớ lại những nơi và những người chưa từng gặp trước kia. Những người theo học thuyết của Platon giải thích rằng đó là những tâm tranh đấu và bất thỏa mãn từ kiếp sống trước, bây giờ trỗi lên.” — H.M. Kitchener, “The Theory of Reincarnation”, trang 7.
Chính tác giả (Đ.Đ. Narada) đã gặp vài người nhớ lại từng đoạn, đời sống của họ trong kiếp trước. Tác giả cũng có gặp một vài bác sĩ trứ danh ở Âu Châu có thể thôi miên người khác và làm cho họ nhớ lại tiền kiếp.
[15] Xem “Buddhist Legends”, tập 3, trang 108.
[16] “Ceylon Observer”, 21-11-1948.
[17] “Chúng ta phải đến chỗ nhìn hiện tại như con đẻ của quá khứ và là cha mẹ của tương lai” — T.H. Huxley.
Hiểu rõ chữ “tức” có công hiệu rất lớn trong việc tu hành. A tức là B, thì A không thật A, B tức là A thì B không thật B. Muôn vật tùy duyên thay hình đổi dạng, có cái gì cố định mà chấp. Bệnh lớn của con người là cố chấp, chấp càng nặng thì khổ càng nhiều.
Mỗi người chấp theo cái thấy, cái nghe, cái sở học, cái suy nghĩ, cái tưởng tượng của mình hoặc của nhóm người thân mình, nếu người khác thấy đồng cái thấy của mình, nhóm mình thì thân; thấy khác cái thấy cái chấp của mình, nhóm mình thì thù.
Ðây là gốc đấu tranh gây ra đau khổ cho nhân loại.
Sự vật là một dòng biến thiên, mà mình nhìn theo cái chấp cố định thì làm sao thấy được lẽ thật, làm sao đem lại sự an bình.
Bàn về: “Phật tức tâm, tâm tức Phật”
Con người khủng khiếp hãi hùng khi nghe tin mình sắp chết.
Sợ chết vì chấp thân là chắc thật lâu dài, bỗng dưng nó sắp tan hoại nên hoảng sợ.
Sự nghiệp tài sản cũng chấp cố định bền lâu, xảy ra tai nạn hỏa hoạn, binh đao, trộm cướp… khiến phải tan hoại, người ta sẽ đau khổ vô hạn.
Tình cảm bạn bè, thân hữu…, chấp mãi mãi không đổi thay; một khi gặp cảnh đổi thay, người ta sẽ thảm sầu vô kể.
Người nắm vững nguyên tắc “các pháp không cố định”, mọi cố chấp trên từ từ tan rã, khổ đau, sầu thảm, hoảng sợ, hãi hùng dần dần tan biến theo mây khói.
Thân sắp chết, sự nghiệp tan vỡ, bạn bè chia lìa…cũng là lẽ đương nhiên trong dòng biến thiên của vạn vật.
Chúng ta chưa can đảm cười trước cảnh ấy, song cũng can đảm nhìn chúng trôi qua với tâm niệm an bình.
Bởi người tu hành là huân tập phát minh những lẽ thật ấy.
Sở dĩ hiện nay có lắm người tu khi gặp hoàn cảnh tang thương biến cố liền hoảng sợ bất an, do họ không phát minh những lẽ thật này.
Tu bằng cách nhắm ra ngoài, chạy theo hình thức làm sao đạt được lẽ thật, mà làm suy giảm khổ đau.
Họ càng tu thì chấp càng nặng, chấp nặng thì đau khổ càng nhiều.
Thế là, tu chỉ tăng khổ, chớ không hết khổ.
A tức là B, thì A không thật là A,
B tức là A, thì B không thật là B,
hai bên đều không cố định.
Ðã không cố định thì làm sao dám bảo là thật.
Hai bên đều không thật thì không thể thành hai.
Bởi không thể thành hai là tiến thẳng vào “Pháp môn bất nhị”.
Thấy vạn vật đối đãi không thật, còn gì để lý giải luận bàn.
Vừa phát ra ngôn ngữ là nằm trong đối đãi, đối đãi thuộc hai bên.
Muốn chỉ chỗ cứu kính của “Pháp môn bất nhị”, ngài Duy-ma-cật chỉ còn cách lên tòa ngồi lặng thinh.
Chính thế mà Bồ-tát Văn-thù tán thán không tiếc lời.
Sở thích và túc căn của chúng sanh vẫn thường sai biệt cho nên tuy cùng tu hạnh Niệm Phật, sự hành trì chẳng khỏi có điểm không giống nhau. Vì thế, trên đường Tịnh Độ, cổ nhân đã tạm chia thành bốn hạnh là: Thiền Tịnh, Giáo Tịnh, Mật Tịnh và Thuần Tịnh.
1. Những vị lấy niệm Phật làm chánh, tham thiền làm phụ, thuộc về hạnh Thiền Tịnh. Đây cũng là lối Thiền Tịnh song tu, nhưng lại lấy sự vãng sanh Tịnh Độ làm yếu điểm chung cuộc, còn việc thấy tánh ngộ đạo chỉ thuộc phần tùy duyên.
2. Những vị lấy niệm Phật làm chính, tụng kinh làm phụ, gọi là tu hạnh Giáo Tịnh. Về phần kinh giáo, có người thích tụng Kinh Kim Cang hay A Di Đà; có vị thích tụng Kinh Hoa Nghiêm hay Pháp Hoa, hoặc phẩm Phổ Môn hay Phổ Hiền Hạnh Nguyện chẳng hạn.
3. Những vị lấy niệm Phật làm chính, trì chú làm phụ, đó là tu về hạnh Mật Tịnh. Trong sự trì chú, mỗi người lại ưa thích riêng mỗi môn Đà Ra Ni, như: Đại Bi, Chuẩn Đề, Vãng Sanh, Công Đức Bảo Sơn, Văn Thù Ngũ Thanh thần chú, Lục Tự Đại Minh chân ngôn, hoặc các Đà Ra Ni khác.
4. Những vị chỉ chuyên niệm Phật, không xen tạp môn nào khác, thuộc về các hành giả tu hạnh Thuần Tịnh.
Trong đây các vị căn cơ cao thì theo Thập Lục Quán, còn đại đa số chỉ chuyên về hạnh Trì Danh.
Thiện Đạo Hòa thượng và Vĩnh Minh Thiền sư bên Trung Hoa, tương truyền đều là hóa thân của Phật A Di Đà. Nhưng Thiện Đạo Hòa thượng chỉ dạy chuyên niệm Phật; Vĩnh Minh Thiền sư thị hiện mỗi ngày ngoài việc niệm mười muôn câu Phật hiệu, còn tu các hạnh khác, tất cả gồm 108 môn.
Ấn Quang pháp sư đã phê phán: “Đồng dạy về Tịnh Độ, nhưng lối khai thị của ngài Thiện Đạo là để tiếp dẫn hàng trung, hạ căn thuộc về chuyên tu. Còn lối khai thị của ngài Vĩnh Minh để riêng khuyến tấn bậc thượng thượng căn, thuộc về viên tu.” Người đời mạt pháp phần nhiều là bậc trung, hạ căn.
Vì thế, với bốn hạnh trên, nếu muốn chắc chắn được vãng sanh, có lẽ nên tu theo đường lối Thuần Tịnh. Nhưng đã nói sở thích và túc căn của mỗi người đều khác nhau, không thể ép buộc được, thì mặc dù có kiêm tu hạnh khác, hành giả Tịnh Độ cũng cần lưu ý đến hai phần chính và trợ cho phân minh. Mà phần chính phải luôn luôn lớn nhiều hơn phần trợ. Như thế đường tu mới không mất mục tiêu và sự vãng sanh cũng không bị chướng ngại.