back to top
30 C
Chư Sê
Thứ Ba, 23 Tháng Tư, 2024
Home Blog

Thư Ngỏ – Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo Tượng Đài Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát

THƯ NGỎ
V/v Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo Tượng Đài Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Kính thưa quý Phật tử,

Nam Mô U Minh Giáo Chủ Cứu Khổ Bổn Tôn Cứu Bạt Minh Đồ Đại Thánh Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Kính Bạch chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni

Kính Thưa quý Phật tử thiện nam tín nữ gần xa,

Nhân ngày Vía Bồ Tát Quán Thế Âm 19/09 vừa qua, Chùa Phước Viên H’Bông đã tổ chức Khóa Tu Mùa Thu và đặt đá kiến lập tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát. Vừa rồi, sau Khóa Tu An Lạc Một Ngày 14/10 hoàn mãn, đến Rằm tháng 10, Bổn tự Chùa Phước Viên đã chính thức khởi công giải phóng mặt bằng và múc móng Kiến lập Tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát.

Thời gian qua, Bổn tự đã nhận được những tấm lòng phát tâm Bồ đề cúng dường kiến lập Tượng Ngài Địa Tạng Bồ Tát: TT. Thích Giác Nhàn cúng 100 triệu, quý Phật tử tham dự Khóa Tu An Lạc vừa qua 75 triệu đồng, (đệ tử TT. Giác Nhàn phát tâm 100 triệu, sẽ chuyển cúng vào đầu tháng tới). Gia đình cô Hảo và quý Phật tử Hà Nội cúng sắt và một phần công thợ trị giá 250 triệu, quý Phật tử Chùa Mỹ Thạch, Chùa Phước Viên, và Pleiku… cúng chung khoảng 110 triệu…….

Tổng số tịnh tài Bổn tự đã nhận được là 550 triệu. Dự kiến Công trình Tượng Đài Địa Tạng gần 2 tỉ đồng.

Hiện tại công trình đang thi công và rất cần Xi Măng (tổng công trình khoảng 100 tấn xi măng), xi măng đang làm là xi măng Hoàng Thạch, một bao là 100 ngàn (một tấn là 2 triệu).

Tượng Đài Địa Tạng Bồ Tát là Công trình tâm linh đặc biệt hồi hướng báo hiếu Ông Bà, Cha Mẹ, Cửu huyền Thất tổ, pháp giới chúng sanh: Chúng Sanh Độ Tận Phương Chứng Bồ Đề, Địa Ngục Vị Không Thệ Bất Thành Phật, Đại Từ Đại Bi, Đại Thánh Đại Nguyện, Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát…

Bổn tự rất mong được đón nhận sự phát tâm cúng xi măng từ quý Tôn đức và quý nam nữ Phật tử gần xa. Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát.

H’Bông ngày 19/10/Quý Mão
Trụ Trì Chùa Phước Viên
Đại Đức Thích Quảng Phước

Quý Phật tử phát tâm cúng dường có thể gửi trực tiếp tại bàn trực khách, văn phòng Ban liên lạc hoặc thông qua số tài khoản của chùa:
Tiếp nhận thông qua số tài khoản:

  • Ngân hàng: Vietinbank
  • Tên chủ tài khoản: NGUYEN TAN LOI (Đại Đức Thích Quảng Phước)
  • Số tài khoản VNĐ: 1008 6212 8777
  • SWIFF: ICBVVNVX182
  • Nội dung chuyển khoản: PTXMHPKT (Phát Tâm Xi Măng Hùn Phước Kiến Tạo)

Xin cảm niệm công đức mọi sự quan tâm và đóng góp về vật chất lẫn tinh thần quý phật tử dành cho Phật Giáo Chư Sê. Mọi sự phát tâm cúng dường sẽ được nhà chùa phương danh sau khi khóa tu kết thúc.
Nguyện cầu mười phương chư Phật gia hộ cho quý Phật tử thân an tâm lạc, vạn sự kiết tường, sở cầu sở nguyện đều được như ý.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Vì sao gọi Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi quý báu?

Đức Thế Tôn trong kinh Niệm Phật Ba La Mật thuyết: “Tam bảo là chỗ về nương tựa của muôn loài, là ngọn đèn phá tan mọi hắc ám, là con thuyền đưa chúng sinh qua thấu bờ bên kia.”

Tam bảo là gì?

Nhân loại thường cho vàng bạc, ngọc ngà châu báu hay quyền cao chức trọng là quý. Nhưng thử hỏi khi gặp chuyện mất mát đau thương, quyến thuộc xa lìa hoặc bị giặc cướp, bệnh tật trầm kha… thì các thứ ấy có thể làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau cho ta được hay không?

Phật là con người đã hoàn toàn tự tại, giải thoát nhờ phước huệ song tu với tinh thần vô ngã vị tha. Pháp là những lời dạy chân chính của Phật qua sự trải nghiệm trong tu chứng nên thấy rõ chúng sinh sống chết luân hồi đều do mình tạo lấy. Tăng là những người truyền thừa thay Phật hoằng dương Chánh pháp, sống trong tinh thần Lục hòa, đoàn kết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần chia vui sớt khổ, phục vụ vì lợi ích chúng sinh.

Tam Bảo là ba ngôi quý báu; gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
Tam Bảo là ba ngôi quý báu; gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.

Tăng là những người hiến trọn đời mình cho mục đích trên cầu thành Phật, dưới hoằng hóa độ sanh vì lợi ích con người. Nhờ có chư Tăng, Ni thay Phật hoằng truyền những lời dạy của Ngài khiến cho Chánh pháp được mở mang rộng rãi đến với tất cả mọi người. Những ai hấp thu được tinh ba của Phật pháp sẽ ngày càng được an vui, hạnh phúc hơn và sẵn sàng an ủi, sẻ chia, giúp đỡ tha nhân vì tình người trong cuộc sống.

Nhưng Tăng cũng có nhiều loại, đại khái lược có ba là Bồ Tát Tăng, Thanh Văn Tăng và Phàm Phu Tăng. Đây là Tăng bảo chân chánh xứng đáng được mọi người y chỉ tu học và tôn kính cúng dường.

Chúng ta nên hiểu đúng về Tam Bảo

Phật tùy duyên giáo hóa và đã nhập Niết bàn, nay chỉ còn lại những lời vàng ngọc của Ngài. Chư Tăng thay Phật truyền trì Chánh pháp, hiến trọn đời mình cho sự nghiệp vì lợi ích chúng sinh.

Tăng phàm phu là những người chân thật nguyện hiến đời mình cho lý tưởng giác ngộ và giải thoát, đang kế thừa con đường Phật đạo, tuyên dương Chánh pháp giúp cho mọi người bớt khổ thêm vui, luôn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Phàm phu Tăng tuy chưa thành tựu đạo quả nhưng vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn mọi người biết cách dứt ác làm lành nhờ tin sâu nhân quả nên chính vì vậy ai phát tâm cúng dường phàm phu Tăng vẫn được phước báo không thể nghĩ bàn.

Pháp là những lời dạy của Đức Phật để chúng sinh nương tựa vào giáo Pháp của Ngài
Pháp là những lời dạy của Đức Phật để chúng sinh nương tựa vào giáo Pháp của Ngài

Thực tế trong cuộc đời này phàm phu Tăng là số đông gần gũi với chúng ta nhất. Phàm phu Tăng chân thật tu hành thuyết pháp độ sanh mang tinh thần của các vị thánh Tăng Bồ Tát và thánh Tăng Thanh Văn.

Phàm phu Tăng là số đông nên quý Phật tử dễ gần gũi và tiếp cận hơn, chúng ta vẫn học hỏi được những điều hay lẽ phải để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày.

Nói tóm lại, tin sâu Tam Bảo là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Khi chúng ta tin thì không nên thần tượng hóa vì thần tượng hóa dễ sụp đổ và mất tín tâm. Ta chỉ thấy thầy mình hay, thầy mình giỏi nên dễ dẫn đến tư tưởng phê bình, chỉ trích người khác, do đó làm mất đi sự hoà hợp trong Tăng đoàn gây sự chia rẽ.

Tăng là đoàn thể sống trong an vui, hòa hợp. Vì lợi ích số đông mà nhiều người cùng sống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết với tinh thần vô ngã vị tha.

Quy y Tam Bảo, ý nghĩa và tầm quan trọng

Trong cõi đời vô thường này mới thấy đó nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh mà nay đã tán gia bại sản, cửa nát nhà tan, con cái chia lìa. Duy chỉ có Tam bảo Phật-Pháp-Tăng mới giúp chúng ta vượt qua biển khổ sông mê, vươn lên vượt qua số phận tối tăm để làm mới lại chính mình bằng cách dứt ác làm lành, giữ tâm ý trong sạch nên mới gọi là ba ngôi báu.

Tam bảo là ngọn đèn sáng giúp cho con người vượt qua si mê, tối tăm, mờ mịt. Tam bảo có khả năng chuyển hóa phiền não, khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Nhờ Tam Bảo ta biết được điều hay lẽ phải, biết rõ sự thật cuộc sống con người và muôn loài vật đều phải nương nhờ vào nhau mới bảo tồn mạng sống.

Chính vì vậy, người Phật tử chân chính cần phát triển lòng từ bi thương yêu bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Do đó, Tam bảo Phật-Pháp-Tăng như ba viên ngọc quý không gì có thể so sánh được. Và Tam bảo có sáu ý nghĩa không thể nghĩ bàn:

Một là nghĩa hy hữu, tức là hiếm có, khó được như vàng bạc, kim cương, ngọc quý… người nghèo không thể có được. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, dù người ở sát bên chùa nhưng thiếu phước cũng khó gặp, không thể thân cận với Tam bảo để tu học nên gọi là hy hữu.

Khóa thu mùa hè 2023
Ngôi báu thứ ba chính là Tăng Bảo, là những nhà tu hành dành trọn cuộc đời thực hành theo giáo pháp của Đức Phật, hướng đến sự giải thoát.

Học Phật tại gia như thế nào?

Hai là nghĩa ly cấu, tức lìa xa những việc xấu ác mà hay làm những việc thiện lành, tốt đẹp như ngọc ma ni trong sáng, sạch đẹp không tỳ vết, khó vấy bẩn. Phật-Pháp-Tăng cũng lại như vậy, giúp cho chúng ta xa lìa phiền não tham-sân-si nên gọi là ly cấu.

Ba là nghĩa thế lực, như châu báu ở thế gian có thế lực lớn giúp con người vượt qua nghèo khó, còn có thể dùng để trị bệnh trúng độc. Tam Bảo cũng lại như thế, có đủ Tam minh Lục thông tùy cơ ứng biến dứt kiếp nghèo khổ, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi nên gọi là thế lực.

Bốn là nghĩa trang nghiêm, như châu báu ở thế gian làm đồ trang sức cho thân thể trở nên xinh đẹp, lộng lẫy, ai cũng muốn ngắm nhìn. Tam Bảo cũng lại như vậy, lấy nhân quả, nghiệp báo, nhân duyên làm nền tảng để giúp con người làm chủ bản thân, tâm trí trở nên sáng suốt, thanh tịnh, làm việc chân chính nên gọi là trang nghiêm.

Năm là nghĩa tối thắng, như châu báu ở thế gian quý hơn tất cả mọi vật nhưng xét cho cùng không quý bằng mạng sống con người. Tam Bảo cũng lại như vậy, là pháp thù thắng hơn hết có khả năng giúp đỡ mọi người vượt qua biển khổ sông mê, sống an vui, bình yên và hạnh phúc nên gọi là tối thắng.

Sáu là nghĩa bất biến (không thay đổi), như vàng ròng ở thế gian dù đập, nấu, mài, dũa vẫn không thay đổi bản chất. Tam Bảo cũng lại như vậy, người thân cận Tam Bảo tất được an vui, bình yên, hạnh phúc nhờ sống trở lại Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý nên không bị vô thường chi phối, nước không thể cuốn trôi, lửa không thể thiêu đốt, do đó gọi là bất biến.

Ý nghĩa 3 nén hương trong Phật giáo

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Quý Phật Tử có thể tìm hiểu thêm: Quy Y Tam Bảo – TT. Thích Chân Quang

Lịch Sử Hình Thành Xe Hoa, Kiệu Hoa Phật Đản

Hằng năm cứ mỗi độ xuân qua hạ về, ngàn muôn đóa bạch liên khoa sắc, vạn ức hồng liên tỏa hương thơm ngát là hàng trăm triệu người con Phật khắp mọi nơi trên thế giới hân hoan đón mừng một sự kiện vô cùng quan trọng trong Phật giáo, sự kiện đức Phật đản sanh kéo dài hàng tuần lễ gọi là tuần lễ Phật đản (từ mùng 08 đến 15 tháng tư âm lịch).

uần lễ Phật đản (từ mùng 08 đến 15 tháng tư âm lịch)
uần lễ Phật đản (từ mùng 08 đến 15 tháng tư âm lịch)

Vào những ngày này khắp mọi quốc gia Phật giáo trên thế giới: Từ cao nguyên thanh tạng nóc nhà thế giới ngàn năm tuyết phủ của Tây Tạng huyền bí, cho đến hải đảo phù tang rợp bóng anh đào của quốc gia Nhật Bản; từ đại lục Trung Hoa mênh mông cho đến quốc đảo sư tử giọt lệ đài trang của nước Tích Lan yên bình; từ đại ngàn đầy nắng gió của quốc gia Miến Điện cho đến đất kinh kì triệu voi nước Lào; từ đại lục xứ Ấn trầm hùng quê hương Phật giáo cho đến quốc gia duyên hải hình chữ S thân yêu nước Việt mến thương… trong các tự viện, chùa chiền, tịnh xá… đều long trọng tổ chức đại lễ Phật Đản cờ hoa muôn phương, phướng lọng rợp trời… cho đến nhiều nhà dân Phật tử cũng treo đèn kết hoa, biểu ngữ, trên các nẻo đường nhiều khi còn có cả xe hoa, kiệu hoa, thuyền hoa… tạo nguồn sinh khí an lành, mang nguồn an vui hạnh phúc đến cho nhân loại.

Sự hình thành xe hoa, kiệu hoa rước Phật trong ngày Phật đản

Nguồn gốc ý nghĩa về đại lễ Phật Đản phần lớn mọi người đều biết đến, nhưng ý nghĩa sự hình thành xe hoa, kiệu hoa rước Phật trong ngày Phật đản lại ít người được tri tường.

Ngược dòng thời gian xuôi về quá khứ với gần ba ngàn năm về trước, tại một vùng bình nguyên rộng lớn của dãy Hy mã lạp sơn có một quốc gia hùng cường thanh bình thịnh trị mang tên Ca-tỳ-la-vệ, dưới sự trị vì của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma-ya. Lịch sử Phật giáo ghi rằng: Vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-ya tuổi ngoài bốn mươi vẫn chưa có con nối dỗi…

Vua và hoàng hậu hằng ao ước, cầu nguyện, làm bao điều phước thiện hằng mong có một người con tiếp nối điện ngọc, ngai vàng… Một đêm nọ hoàng hậu Ma-ya nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà khai hông bên hữu đi vào trong bụng, chợt mình tỉnh giấc thấy người khoan khoái an lạc vô cùng biết mình có mang thánh thai. Các nhà tiên tri, đạo sĩ đều cho biết rằng Hoàng hậu sẽ sớm sanh một hoàng thái tử tài trí siêu việt, lớn lên sẽ trở thành một bậc đế vương cai trị cùng khắp bốn châu thiên hạ…

Gần đến ngày sanh hạ, theo phong tục bấy giờ, Hoàng hậu đã xin phép vua Tịnh Phạn và hoàng gia về lại quê hương mình đợi ngày sinh hạ. Trên đường về lại quê hương vua Thiện Giác (Vua cha của mình), giữa đường đến một hoa viên tú lệ tên Lâm-tỳ-ni, muôn hoa khoe sắc, muôn chim ca hót, hương thơm ngạt ngào… Hoàng hậu cho đoàn tùy tùng dừng bước thưởng ngoạn cảnh sắc tuyệt vời của hoa viên, lúc dạo chơi đến gốc cây tên gọi Vô-ưu, hoa thơm lạ thường, sắc đẹp huyền ảo, Hoàng hậu vừa đưa cánh tay phải lên hái đóa hoa Vô-ưu, ngay lúc ấy Thái tử Đản sanh, bước đi bảy bước, có bảy đóa hoa sen đỡ chân …

Thái tử đưa một tay lên chỉ trời, một tay chỉ xuống đất tuyên bố cùng nhân loại: Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn….  Có chín rồng phun nước, chư thiên trỗi nhạc tung hoa cúng dường Thái tử… Sau đó Thái tử nằm trong hoa sen như bao em bé bình thường… Hoàng hậu lập tức cho người báo về hoàng cung, vua Tịnh Phạn liền cho đoàn tùy tùng cùng với những kiệu hoa, xe hoa được kéo bởi đoàn voi ngựa trang nghiêm trọng thể rời hoàng cung đi rước Thái tử và Hoàng hậu từ Hoa viên Lâm-tỳ-ni trở về hoàng cung Ca-tỳ-la-vệ.

Sự kiện này là một sự kiện lịch sử trọng đại đã trở thành hình tượng và ý nghĩa để hàng triệu người con Phật thời sau khắp nơi trên thế giới trang hoàng xe hoađể tái hiện lại hình, kiệu hoa  ảnh thiêng liêng: Lễ Rước Phật Đản Sanh. 

Lịch sử lễ rước Phật Đản Sanh bằng xe hoa, kiệu hoa có nguồn gốc từ Ấn Độ xa xưa. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, những người con Phật xuất gia và tại gia muốn tái hiện lại hình ảnh rước Phật Đản Sanh từ vườn Lâm-tỳ-ni về thành Ca-tỳ-la-vệ; đặc biệt dưới sự phát tâm hộ pháp của những vị vua Phật tử thuần thành, lễ rước Phật được diễn ra vô cùng trang nghiêm và trọng thể.

Vua A Dục Vương (273-233 BC), sau khi quy ngưỡng về Phật pháp, đã trở thành Hộ Pháp A Dục ủng hộ Phật pháp tuyệt vời, hằng năm không những nhà Vua tổ chức lễ Rước Phật long trọng trang nghiêm, còn ra Chiếu chỉ khắc vào bia đá nhắc nhở thần dân phải tổ chức lễ Rước Phật… Chỉ dụ số 4 của vua A Dục được các nhà Khảo cổ học phát hiện tại Kandaha ghi rằng: “Vào ngày lễ Đản Sanh mỗi năm phải tổ chức trọng thể thiết lập lễ Rước Phật.”

Ngài Pháp Hiển (319-414) người Trung Hoa, gần 16 năm Tây du Ấn Độ đã kể lại lễ Rước Phật tại nước Vu Điền (Khotan, một quốc gia thuộc Ấn Độ cổ) trong tác phẩm Phật Quốc Kí của mình như sau: “Lễ rước Phật từ mùng 01 đến hết tháng tư, lễ rước rất long trọng, xe kiệu nâng Phật cao hơn ba trượng, trang hoàng lộng lẫy…” Ngài Huyền Trang (596-664), gần 17 năm tu học nghiên cứu tại Ấn Độ cũng kể lại lễ Rước Phật tại Ấn Độ xưa trong tác phẩm Đại Đường Tây Vực Kí: “Tại nước Dao Tần (Kucha) lễ Rước Phật được tổ chức cực kì hoành tráng có đến 100 xe hoa nghinh Phật sơ sinh diễu hành trên khắp phố để toàn thể dân chúng được chiêm ngưỡng và lễ bái Phật.”

Lễ rước Phật nhân ngày Phật Đản tại các nước trên thế giới

Tại Trung Quốc và một số quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Nhật Bản…. lễ rước Phật được gọi là lễ Hành Tượng, có nghĩa là dùng các loại xe kiệu trang hoàng lộng lẫy bằng bảy báu, hoa hương, cờ phướng, lồng đèn… chở tượng Phật đi xung quanh khắp phố phường, cung thành… vào dịp lễ Phật Đản. Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm: Thời Đông Tấn (318-420) đã đúc năm tượng Phật Sơ Sinh để rước trong lễ rước Phật. Thời Nam Bắc Triều, Thái Võ Đế nhà Ngụy (408-452) đã có chiếu chỉ thiết lễ rước kiệu Phật, chính vua và hoàng hậu rải hoa cúng dường đoàn xe kiệu rước Phật Sơ Sinh.

Theo sách Phật Tổ Thống Kí, Hiếu Võ Đế nhà Tây Ngụy (467-499) hạ chỉ: “Vào ngày Đản Sanh, các ngôi chùa lớn ở tại Lạc Dương phải trần thiết xe kiệu rước Phật vào cung đình; đồng thời chiếu chỉ quy định mỗi năm phải thiết lễ Phật Đản long trọng như thế, không khí lễ Phật thật hùng vĩ và tưng bừng.” Đặc biệt thời nhà Đường (618-907), thời đại hoàng kim của Trung Hoa, quốc gia hùng cường Phật giáo rất Phát triển, lễ rước Phật được diễn ra càng trọng thể to lớn và linh đình hơn…

Tại xứ sở hoa Anh đào, quốc gia Nhật Bản, từ thời Thánh Đức (574-622), lễ Phật Đản đã được phát triển và thịnh hành, ngoài việc trần thiết xe hoa, kiệu hoa rước Phật đản sanh, các ngôi chùa còn tổ chức phát chẩn, tế bần… đặc biệt là việc phát tâm kết hoa cúng Phật… Ngày nay, ngày Đản sanh đã trở thành ngày cắm hoa, còn gọi là lễ Hội hoa tại quốc gia này.

Tại các nước Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia… ngày lễ Phật Đản, lễ Rước Phật còn tổ chức trọng thể hơn; vì các quốc gia này, ngày Đản sanh còn được kết hợp với ngày lễ đức Phật thành đạo và Niết bàn còn gọi là lễ Tam Hợp, lễ Vesak. Ngày Lễ này đã được cả nhân loại tôn vinh là ngày lễ vô cùng thiêng liêng, lễ Hòa bình, lễ quốc tế Vesak Liên hợp Quốc… và được gần như các nước trên thế giới vinh danh tổ chức tại các trụ sở Liên Hợp Quốc của quốc gia mình từ năm 2000 đến nay.

Tìm Hiểu Lịch Sử Hình Thành Xe Hoa, Kiệu Hoa Phật Đản
Tìm Hiểu Lịch Sử Hình Thành Xe Hoa, Kiệu Hoa Phật Đản

Chính vì thế, ngày nay vào tuần lễ Phật Đản sanh (khoảng từ mùng tám đến 15 tháng tư âm lịch), tại các nước như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào… lễ Rước Phật được tổ chức trang nghiêm và hoành tráng, từng đoàn người kéo dài hàng vài km với kiệu hoa, xe hoa chở tượng Phật được kéo bởi những thớt voi, trang hoàng lộng lẫy, hương hoa, cờ hoa, phướng lọng, trống chiêng vang vọng khắp phố phường…

Lễ rước Phật nhân ngày Phật Đản tại Việt Nam từ xưa tới nay

Tại Việt Nam, lễ rước Phật cũng có lịch sử gần hai ngàn năm; Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỉ thứ nhất, và còn lưu dấu lại những ngôi chùa cổ kính thăng trầm cùng dân tộc như cùa Dâu, chùa Keo… Sách Ngô Chí có đoạn chép: “…Ở Giao Châu, khi ra đường người ta thường nghe tiếng kiểng, lẫn tiếng trống kèn những người rợ Hồ (chỉ các vị Tăng và Phật tử người Ấn) đi theo thắp hương hai bên có từng đoàn xe có mười người…” Đến triều đại nhà Lý (1009-1225) và nhà Trần (1225-1400), hai triều đại thịnh trị quốc gia thái bình phát triển, Phật giáo đã trở thành Quốc giáo, Phật giáo phát triển hy hoàng các nghi thức Phật Đản, rước Phật cũng đã được tổ chức trang nghiêm trọng thể.

Đại Việt Sử Kí Toàn Thư III, tờ 15A, tr.37: “Vua Lý Nhân Tông sau khi cho xây dựng trùng tu chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), hàng tháng cứ đến ngày Rằm, mùng một và mùng tám tháng tư Phật Đản, xa giá ngự đến đặt lễ Cầu an và nghi thức tắm Phật hàng năm làm lệ thường. Ngoài ra thời bấy giờ có tục nghinh rước Phật Pháp Vân, Pháp Vũ rất linh đình…” Đại Việt Sử Kí Toàn Thư IV, tờ 20B, tr.92 chép: “Đích thân vua Lý Cao Tông đến chùa Pháp Vân nghinh rước Phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên để làm lễ cầu mưa, tục này còn duy trì đến thời Hậu Lê.” 

Sách Thơ Văn Lý Trần dịch văn bia Tháp Sùng Thiện Diên Linh đã miêu tả rất chi tiết không khí lễ hội: “Nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an, bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng; tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa…. Sai phụng thường chỉnh đốn kiệu xe, khiến phong bá quét sạch bụi bặm. Khói trầm đàn như mây toả khắp sơn khê, bóng cờ phướng như ráng phô đầy các ngả. Chuông trống vang ầm, khánh tiêu rộn rã. Phía trước xe mây Tam bảo, đằng sau kiệu báu thánh hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung, về hết trẻ già muôn nước. Điện hoa vắt ngang phía trước, chùa Phật mở rộng bên trong. Hội Tăng Ni trai khiết, diễn Giác Đế chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang, đọc kệ đoạn cúi đầu tạ lễ. Cung nga khép nép, nghe kinh xong dâng sữa múa ca…”        

Theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo luôn thăng trầm đồng hành cùng dân tộc; từ thuở các vị vua Hùng dựng nước và giữ nước đã có hình ảnh của ông Bụt (Buddha – Phật) truyền dạy tâm ấn giúp Tiên Dung và Chữ Đồng Tử vượt qua những khó khăn thử thách giữa cuộc đời, lập nghiệp giúp dân… cho đến thời Việt Nam thể hiện chủ quyền dân tộc gần như các vị vua anh minh là những Phật tử anh dũng kiên cường tỏa rạng vinh quang dòng giống con Hồng cháu Lạc: Từ Lý Nam Đế (503-548, Vị vua lập nên nhà Tiền Lý, với khai quốc Vạn Xuân) cho đến Ngô Quyền (898-944, vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam, với chiến thắng  Bạch Đằng nổi tiếng, kết thúc gần một thiên niên kỷ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam). Từ Đinh Bộ Lĩnh (968-979, dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc, với Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập), đến Lý Công Uẩn (974-1028) khai sinh nhà Lý dời Đô từ Hoa Lư về Thăng Long, mở ra một thời đại vàng son thái bình thịnh trị của dân tộc Việt. Từ Trần Thái Tông, Phật Hoàng Trần Nhân Tông… khai sinh một nền quốc giáo, Phật giáo với danh lam Yên Tử thiêng liêng… một triều đại huy hoàng uy danh của Đại Việt ba lần đại thắng Mông Nguyên… đến các đời chúa Nguyễn tiếp nối chí nguyện Phật hoàng Trần Nhân Tông (mở đất: Châu Ô, Châu Rí – mở mang đất Việt – phụng thờ Phật pháp), với Nguyễn Hoàng được mệnh danh là Chúa Tiên, với Nguyễn Phúc Nguyên mệnh danh là Chúa Sãi, Nguyễn Phúc Lan mỹ danh là chúa Hiền, Nguyễn Phúc Tần danh xưng chúa Nghĩa, Nguyễn Phúc Chu – vị vua Phật tử mỹ hiệu là Chúa Phật….. tất cả đều là những người con anh dũng và uy danh của dân tộc Việt, là đệ tử của đức Phật, cho nên họ phát tâm làm phúc thiện, hộ trì chánh pháp cũng như cung kính, long trọng tổ chức các đại Lễ Phật giáo như Phật Đản, Vu Lan… cầu nguyện quốc gia thái bình nhân dân an lạc đúng theo truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.

Xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Phật Giáo như gắn chặt, có mặt hầu hết trên các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, triết học, nghệ thuật, âm nhạc, đạo đức, v.v… đâu đâu cũng lưu lại hình ảnh của Phật Giáo. Đến khi Chúa Nguyễn Hoàng phát nguyện vào Nam khai hoang mở cõi kiến lập chùa Thiên Mụ…. một dãi trời Nam lại hiện bóng từ bi, Phật Giáo lại cùng với dân tộc vào miền đất mới, trong quá trình mở cõi tạo tác sơn hà, Phật Giáo lại chứng minh truyền thống đồng hành cùng dân tộc của mình, và chính nơi miền đất mới, dãi đất miền Trung mến yêu đã hình thành hai trung tâm Phật Giáo mới của Phật Giáo Việt Nam đó là: Trung tâm Phật Giáo thần kinh Thuận Hóa và Phật giáo Bình Định đất võ uy linh.

Việt Nam trong những thập niên trở lại đây, lễ Rước Phật tại đất thần kinh xứ Huế được xem là trang nghiêm ý nghĩa và long trọng nhất. Hình ảnh bảy đóa hồng liên nở rạng tỏa sáng trên dòng hương giang núi ngự, bên chùa Thiên Mụ cổ kính trầm hùng có thể được xem là biểu tượng thiêng liêng cho dân tộc Việt.

Hình ảnh của từng đoàn xe hoa, kiệu hoa rước Phật
Hình ảnh của từng đoàn xe hoa, kiệu hoa rước Phật

Hình ảnh của từng đoàn xe hoa, kiệu hoa rước Phật, cờ phướng rợp trời, có cả ngàn vạn chư Tăng cùng Phật tử thành kính trang nghiêm đưa rước từ chùa Diệu Đế đi khắp phố phường sông Hương qua Tràng Tiền, Đông Ba… về chùa Từ Đàm kéo dài hàng vài cây số quả thật là thiêng liêng và trọng thể biết dường nào. Ngày nay, với sự quan tâm của Chính phủ, của hầu hết người dân Việt, Phật giáo đã thật sự hưng thịnh, lễ rước Phật xe hoa, kiệu hoa… được tổ chức long trọng trang nghiêm cả ba miền Nam Trung Bắc.

Đặc biệt năm nay, PL. 2563 – DL. 2019, Đại lễ Phật Đản Vesak Liên Hợp Quốc lại được long trọng tổ chức ngay trên quê hương Việt Nam, có hơn 100 quốc gia trên thế giới về tham dự, hàng trăm triệu người con Phật trên khắp thế giới đang hân hoan đón mừng ngày Đản Sanh của đức Từ Phụ, và chắc chắn hình ảnh ý nghĩa của lễ Rước Phật bằng xe hoa, kiệu hoa sẽ có mặt khắp mọi tỉnh thành, phố phường trên cả nước.

Trong đó xe hoa, kiệu hoa đặc biệt long trọng và hoành tráng nhất chắc chắn sẽ là trung tâm văn hóa Phật giáo chùa Tam Chúc, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam.

Mùa Phật Đản Vesak LHQ, PL. 2363 – DL. 2019

TK. Thích Quảng Phước, cẩn soạn

Đức Phật nói về nguyên nhân thất bại ở đời

Đức Phật Nói

Có vị Thiên nhân nghĩ đến nỗi khổ của thế gian nên đến thỉnh vấn Đức Thế Tôn về nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của con người sống ở trên đời.

Đức Phật nói về nguyên nhân thất bại ở đời
Đức Phật nói về nguyên nhân thất bại ở đời

Với lòng thương tưởng chúng sinh, Phật(1) lần lượt đưa ra những lời giải đáp, nêu rõ các nguyên nhân khiến con người rơi vào cửa bại vong. Bao giờ cũng thế, lời Phật giản dị nhưng rất thực tế và bổ ích, rất đáng cho chúng ta suy nghĩ và học tập:

Vị Thiên nhân

Về bại vong con người,

Con hỏi Gotama!

Con đến hỏi Thế Tôn,

Cửa vào của bại vong?

Đức Thế Tôn

Thật dễ hiểu thành công, 

Thật dễ hiểu bại vong,

Ưa mến pháp, thành công,

Thù ghét pháp, bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ nhất về bại vong,

Thứ hai, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Ai mến kẻ bất thiện,

Không ái luyến bậc thiện,

Thích pháp kẻ bất thiện,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ hai về bại vong,

Thứ ba, mong Ngài nói, 

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Ngưới tánh ưa thích ngủ,

Thích hội chúng, thụ động,

Biếng nhác, thường phẫn nộ,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy chúng con rõ,

Thứ ba về bại vong,

Thứ tư, mong Ngài nói,

Cửa vào cửa bại vong?

Thế Tôn

Ai với mẹ hay cha,

Già yếu, tuổi trẻ hết,

Tuy giàu không giúp đỡ,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ tư về bại vong,

Thứ năm, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Ai nói dối lường gạt,

Sa-môn, Bà-la-môn, 

Hay các khất sĩ khác,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vây, chúng con rõ,

Thứ năm về bại vong,

Thứ sáu, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Người giàu có tài sản,

Có vàng bạc thực vật,

Hưởng  vị ngọt một mình,

Chính cửa vào bại vong?

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ sáu về bại vong,

Thứ bảy, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong. 

Thế Tôn

Người tự hào về sanh,

Về tài sản giòng họ,

Khinh miệt các bà con,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ bảy về bại vong,

Thứ tám, mong Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Người đắm say nữ nhân,

Đắm sau rượu, cờ bạc,

Hoang phí mọi lợi sắc,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ tám về bại vong,

Thứ chín, mong ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Không vừa đủ vợ mình,

Được thấy giữa dâm nữ,

Được thấy với vợ người,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ chín về bại vong,

Thứ mười, xin Ngài nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Người trẻ tuổi đã qua,

Cưới cô vợ vú tròn,

Ghen nàng không ngủ được,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy, chúng con rõ,

Thứ mười về bại vong,

Thứ mười một, xin nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Đàn bà, hay đàn ông,

Rượu chè, tiêu hoang phí,

Được địa vị quyền thế,

Chính cửa vào bại vong.

Thiên nhân

Như vậy chúng con biết,

Thứ mười một bại vong,

Thứ mười hai, xin nói,

Cửa vào của bại vong?

Thế Tôn

Tài sản  ít, ái lớn,

Sanh gia đình hoàng tộc,

Ở đây muốn trị vì,

Chính cửa vào bại vong.

Bại vong này ở đời,

Bậc trí khéo quán sát,

Đầy đủ với chánh kiến,

Sống hạnh phúc ở đời.

Lời Phật dạy – Những lời vàng ngọc của Đức Phật

Lời Phật dạy – Những lời vàng ngọc của Đức Phật truyền dạy, chúng ta hãy cùng chiêm nghiệm để giác ngộ cuộc sống và hành xử có văn hóa.

Luận Đại Trí Độ: “Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được.”
Luận Đại Trí Độ: “Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được.”

Lời Phật dạy

[ssredlist]
  • Kinh Đại Thừa Nghĩa: “Quay về nương dựa nên gọi là quy y. Hành tướng quy y như con theo cha mẹ, nương dựa phục tùng; như dân nương nhờ vua, như người yếu nương nhờ kẻ mạnh. Nương Phật như thầy, nên gọi là quy y Phật. Nhờ pháp như thuốc, nên gọi là quy y Pháp. Nương Tăng là bạn, nên gọi là quy y Tăng.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Như người có tay, vào trong núi báu, tự do lấy ngọc; người có lòng tin cũng vậy, vào trong Phật pháp, tự do lấy của báu vô lậu.”
  • Kinh Tâm Địa Quán: “Như người không tay tuy đến núi báu, không lấy được gì. Người không lòng tin, dầu gặp Tam bảo cũng không ích gì.”
  • Luận Đại Trí Độ: “Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được.”
  • Kinh Tiểu Địa Quán: “Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền.”
  • Kinh Trung A Hàm: “Ví như nhà vua, tạo lâu đài nơi bên thành, xây đắp chắc chắn, khiến không thể hư nát; bề trong quốc gia yên ổn, bề ngoài ngự phòng oán địch. Phật tử cũng vậy, phải kiên cố lòng tin tưởng đức Như Lai, khi lòng tin đã vững vàng thì quyết không theo những kẻ sa môn ngoại đạo phạm chí ác ma và ác thế gian. Ấy là đã xây dựng được lòng tin như lâu đài bền chắc. Là Phật tử phải bỏ điều ác, điều xấu mà tu các pháp lành.
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh mờ ám, người hiểu giáo lý mà không lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải cùng đủ mới làm cội gốc tu hành.”
[/ssredlist]
Kinh Tiểu Địa Quán: "Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền.”
Kinh Tiểu Địa Quán: “Vào biển Phật pháp, lấy lòng tin làm gốc; qua sông sanh tử, lấy giới pháp làm thuyền.”
[ssredlist]
  • Kinh Lăng Nghiêm: “Tin chơn lý thường trú gọi là lòng tin.”
  • Kinh Tăng Nhứt A Hàm (văn Ba lị): “Vì muốn đến niết bàn, nên tin Phật pháp, cần phải nghe mới được trí huệ, chẳng phải buông lung mà thông suốt; được như vậy thì lo gì đời nầy không vào được cảnh giới cao tột.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Lòng tin làm nhơn cho nghe pháp, nghe pháp làm nhơn cho lòng tin.”
  • Kinh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội: “Đến bạn lành, được nghe pháp mầu nhiệm là được pháp các bậc thánh tôn yêu quí. Đức Như Lai trí tuệ hơn hết, trùm khắp hư không, nói ra giáo pháp, duy có Phật mới có thể hiểu thấu được. Vậy nên các ngươi cần phải nghe nhiều hiểu rộng chánh pháp, mới tin nổi lý chơn thiệt chánh pháp của Ta. Được làm thân người trong cõi người rất khó, mà được gặp giáo pháp Như Lai lại càng khó hơn. Vậy nên nghe được giáo pháp phải tinh tấn tu trì.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nhơn duyên được nghe chánh pháp, là gần gũi bạn lành; nhơn duyên gần gũi bạn lành đó là lòng tin vậy. Phát được lòng tin có hai nhơn duyên là: nghe pháp và suy nghĩ nghĩa lý của pháp.”
  • Luận Khởi Tín: “Nói lòng tin có 4 món: một là lòng tin cội gốc, nghĩa là ưa nghĩ pháp chơn như; hai là tin đức Phật có vô lượng công đức, thường nhớ gần gũi, cúng dường, cung kính phát khởi căn lành để cầu xin nhất thế trí; ba là tin Pháp có nhiều lợi ích, thường nhớ tu hành cho rốt ráo; bốn là tin Tăng hay tu hành hạnh lợi mình và người, thường ưa gần gũi các vị Bồ tát cầu học hạnh như thật.”
  • Kinh Niết Bàn: “Lòng tin lại có 2 món: một là từ nghe mà sanh, hai là từ nghĩ mà sanh. Những người từ nghe sanh mà chẳng từ nghĩ sanh, thì gọi là lòng tin chẳng đầy đủ. Còn có 2 món nữa: một là tin có Đạo, hai là tin có chứng Đạo. Lòng tin người nào chỉ tin có Đạo mà chẳng tin có các người chứng Đạo, ấy gọi là lòng tin chẳng đầy đủ.”
  • Kinh Vô Lượng Thọ: “Nếu có chúng sanh rõ tin Phật trí cho đến thắng trí, rồi tu các công đức để hồi hướng lòng tin. Những chúng sanh này ở trong hoa bảy báu, tự nhiên hóa sanh: xếp bằng mà ngồi trong chừng giây lát, thân thể sáng rực, trí tuệ công đức như các Bồ tát đầy đủ trọn vẹn.”
  • Kinh Đại Bảo Tích: “Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin.”
  • Kinh Xuất Sanh Bồ Đề Tâm: “Nếu cầu Bồ đề để làm lợi ích chúng sanh, ấy là những kẻ vì chúng sanh hơn hết vậy; hạng nầy còn không thể so sánh huống là bậc trên nữa. Vậy nên đã được nghe các pháp này, kẻ trí thường sanh tâm vui pháp sẽ được đại phước không lường và mau được chứng đạo vô thượng.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Hoặc có người nói: Quả vô thượng chánh đẳng chánh giác, do lòng tin làm nhơn. Thật ra chánh nhơn của bồ đề (tức chánh đẳng giác) tuy còn nhiều vô lượng, nhưng nếu nói lòng tin, tức đã bao quát hết rồi vậy.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Bồ đề Tâm là con đường lớn, vì có thể đưa người được vào cõi Nhất thế trí. Bồ đề Tâm là con mắt sáng, vì có thể xem thấy hết thảy đường chánh nẻo tà. Bồ đề Tâm là mặt trăng sáng, vì soi rõ các tịnh pháp đều viên mãn. Bồ đề Tâm là nước sạch, vì rửa sạch tất cả dơ bẩn phiền não. Bồ đề Tâm là ruộng tốt, vì nuôi dưỡng chúng sanh trong sạch.Bồ đề Tâm là hạt giống tất cả đức Phật, vì có thể sanh tất cả pháp các đức Phật.”
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: ” Đại tín tâm tức là Phật tánh, Phật tánh tức là Như Lai.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Trăng Bồ đề trong mát, soi rốt ráo hư không, chúng sanh tâm nước sạch, bóng Bồ đề hiện ngay.”
[/ssredlist]
Kinh Đại Bảo Tích: “Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin.”
Kinh Đại Bảo Tích: “Có lòng tin mới là Phật tử, vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi người có lòng tin.”
[ssredlist]
  • Kinh Tăng Nhứt A Hàm (Văn Ba-lị): Đức Phật biết mở giây sanh tử cho tất cả chúng sanh: Ngài đích thân đối với thần nhơn, chỉ rõ pháp hiểu biết, khiến họ thấy hoặc nghe, đều được an tâm. Đức Phật thật là bậc Đạo nhơn, là Thiện nhơn, là Quyết định nhơn, là Vô lậu nhơn, vì Ngài thấu suốt thân mệnh, chính là bậc Đại nhơn trí tuệ cao cả vậy.
  • (Cũng kinh này) Tỳ kheo nương Phật pháp mà sanh lòng tin: tin Đức Như Lai là: Thế Tôn, đẳng Chánh giác, Minh hạnh Túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng Phu, Thiên nhơn sư. Ngài chứng quả an lành không bệnh; tu nhẫn nại và tinh tấn mức trung đạo, chứng quả chẳng hư ngụy, chẳng mê hoặc. Đúng như thật đối trước các bậc sư chủ: Chỉ rõ đạo nghĩa, an trụ tinh tấn, bỏ pháp bất thiện, phát khởi thiện pháp, nương thiện pháp mà quyết định gắng gỗ bền chắc. Thế mới thành tựu bậc trí huệ chứng Vô thượng trí vậy.
  • Kinh Tiểu A Hàm: “(Văn Ba lị) Ta, tuy trong một nháy mắt, cũng chẳng rời trí lực sâu sắc của Phật Đà mà tỏ rõ nói pháp; nói pháp không ái và không phiền não của Phật Đà; với kẻ khác không còn so sánh. Ta chẳng phân biệt ngày, đêm, lấy con mắt tâm xem thấy hết. Ta tự tin rằng thoạt qua là hết đêm, cho nên trong giây lát chẳng bỏ rời. Ta tin và thích, tâm và niệm, khiến ta quy y Phật giáo vậy. Những người trí huệ cao cả như thế chẳng luận là nơi chỗ nào ta cũng vẫn đến quy y. Dầu cho thân ta già, sức ta yếu, không thể đi đến chỗ ấy được, nhưng tâm ta quyết định thường đi đến chỗ ấy. Thế thì tâm ta và tâm kẻ ấy phù hợp vậy.”
  • Kinh Pháp Hoa: “Hết lòng muốn thấy Phật, chẳng tiếc gì thân mạng, khi Ta và chúng Tăng, đồng đến núi Linh Thứu.”
  • Kinh Đại Bửu Tích: “Phật dạy: Nếu có Bồ Tát đem vui thắng ý, đến chỗ Ta phát khởi ý nghĩ như gặp cha, người kia sẽ được vào trong hàng ngũ Như Lai, như Ta không khác gì.”
  • Kinh Trung A Hàm: “(Văn Ba lị) Thưa Thế Tôn: Nếu pháp này chỉ có Thế Tôn thành tựu, mà Tỳ kheo chẳng đặng thành tựu, hay Tỳ kheo đặng thành tựu mà Tỳ kheo ni chẳng đặng thành tựu; hoặc Tỳ kheo ni đặng thành tựu mà các người tại gia Ưu bà tắc, Ưu bà di và các người còn dục lạc chẳng đặng thành tựu, thời pháp ấy chẳng được hoàn toàn. Nhưng pháp này đức Thế Tôn được thành tựu, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đều được thành tựu. Hơn nữa, những người tại gia nam nữ và các kẻ còn dục lạc thảy đều được thành tựu, cho nên ta tin pháp này là hoàn toàn.”
[/ssredlist]
Kinh Hoa Nghiêm: "Nếu có chúng sanh nào, chưa phát tâm Bồ đề, một khi nghe tên Phật, quyết định thành Bồ đề.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu có chúng sanh nào, chưa phát tâm Bồ đề, một khi nghe tên Phật, quyết định thành Bồ đề.”
[ssredlist]
  • Kinh Tạp A Hàm: “(Văn Ba lị) Vì muốn đến Niết Bàn, tin, vâng các Thánh pháp, nghe, cầu được trí huệ, tinh tấn hay thông suốt.”
  • Kinh Phạm Võng: “Đứng đầu tất cả hạnh là đức tin, vì cội gốc các đức vậy.”
  • Kinh Đại Trang Nghiêm: “Tất cả các công đức, đức tin là sứ mạng; trong các của báu, của đức tin đứng đầu.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Tin là nguồn Đạo, mẹ công đức, nuôi lớn tất cả các pháp lành, dứt trừ lưới nghi, thoát dòng ái, mở chỉ Niết Bàn, đạo Vô thượng; tin lòng trong sạch không dơ bẩn, dứt trừ kiêu mạn gốc cung kính, là của thứ nhất trong kho Pháp, là tay trong sạch lãnh các hạnh; tin hay huệ thí tâm không tham; tin hay vui mừng vào Phật pháp; tin hay thêm lớn trí công đức; tin hay quyết đến cõi Như Lai; tin khiến các căn lành sáng suốt; tin sức bền chắc không thể hư; tin hay dứt hẳn gốc phiền não; tin hay hướng về Phật công đức; tin đối cảnh giới không tham lam, xa lìa các nạn, được không nạn; tin hay vượt khỏi các đường ma, thị hiện đạo Vô thượng giải thoát; tin chẳng phá hư giống công đức; tin hay nuôi lớn cây Bồ đề; tin hay thêm ích trí tối thượng; tin hay thị hiện tất cả Phật.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu có chúng sanh nào, chưa phát tâm Bồ đề, một khi nghe tên Phật, quyết định thành Bồ đề.”
  • Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa: “Nếu người trồng căn lành, nghi thời hoa chẳng nở; lòng tin được trong sạch, hoa nở liền thấy Phật.”
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Bồ tát đối sanh tử, khi đầu tiên phát tâm, một bề cầu Giác đạo, bền chắc chẳng khá lay. Kia một niệm công đức, sâu rộng không ngằn mé, Như Lai phân biệt nói, trọn kiếp không thể hết.
  • Tất cả tâm chúng sanh đều phân biệt hết, tất cả cõi vi trần hãy còn tính được số; mười phương cõi hư không, mảy lông cũng lường được, Bồ Tát sơ phát tâm, rốt ráo chẳng lường được.
  • Kinh Xuất Sanh Bồ Đề Tâm: “Như đấng Đại Phước rất cao kia, chẳng bằng phần mười sáu Đạo tâm; nếu muốn cầu phước như Tu Di, như cát sông Hằng ở cõi Phật, thảy đều tạo chúa, xây các tháp chẳng bằng Đạo tâm mười sáu phần.”
  • Kinh Đại Bảo Tích: “Công đức Bồ Đề tâm, nếu có chất hẳn hỏi, khắp cả cõi hư không, không thể dung chứa hết.”
[/ssredlist]
Kinh Hoa Nghiêm: "Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới.”
Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới.”
[ssredlist]
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu được nghe một câu pháp chưa từng nghe, sanh lòng rất vui mừng, còn hơn được bao nhiêu ngọc báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới.”
  • Kinh Vô Lượng Thọ: “Đức Phật bảo Ngài Di Lặc rằng: Nghe danh hiệu Đức Phật kia, vui mừng nhảy nhót, cho đến một niệm. Phải biết người ấy ắt được lợi lớn. Ấy là đủ công đức cao tột.”
  • Đức Phật dạy: Nghe pháp hay chẳng quên, thấy kinh được rất mừng, ấy bạn lành ta vậy.
  • Kinh Hoa Nghiêm: “Ví như vàng Diêm phù đàn, chỉ thua ngọc Như ý, hơn tất cả các ngọc. Bồ Đề tâm như vàng Diêm phù đàn, cũng như vậy, chỉ thua Nhất thế trí, hơn tất cả các công đức.”
  • Ví như chim Ca lăng tần già, khi còn nằm trong trứng, đã có thế lực mạnh, các loài chim chẳng bằng. Vị Đại Bồ tát cũng như vậy. Còn ở trứng sanh tử, đã phát tâm bồ đề, công đức rất thế lực, hàng Thanh văn Duyên giác làm gì so sánh kịp.
  • Ví như hoa cây Ba Lợi Chất Đa, xông áo một ngày, hoa Chiêm Bồ, hoa Bà Sư, tuy xông ngàn năm, chẳng hay sánh nổi. Hoa Bồ đề tâm cũng lại như vậy, đem công đức xông một ngày, mùi thơm thấu mười phương cõi Phật, hàng Thanh văn Duyên giác, dùng trí vô lậu xông các công đức đến trăm ngàn kiếp cũng chẳng làm sao kịp được.
  • Nghe Pháp khởi lòng tin, vui mừng không nghi ngại, chóng thành Đạo vô thượng; ngang hàng các Như Lai. Tâm trong sạch như đồ đựng nước, hình bóng thường hiển hiện. Nhưng tâm chúng sanh nhơ bẩn như đồ bị nứt, thì chẳng thấy hình bóng Như Lai Pháp Thân. Nếu hay tin, biết trừ kiêu mạn, phát tâm liền được thấy Như Lai, nếu còn dua vậy tâm chẳng sạch, ức kiếp tìm cầu khó gặp thay.
  • Kinh Vô Lượng Thọ: “Kiêu mạn, si tệ, biếng nhác, khó tin nổi pháp này, nhờ đời trước thấy Phật, như vậy ưa nghe Pháp.”
[/ssredlist]

Phật Dược Sư Như Lai là ai?

Phật Dược Sư Như Lai là ai?

Phật Dược Sư(1) Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não vè thân và tâm của chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ đau. Vì Dược Sư Như Lai có bổn nguyện thanh tịnh như vậy nên ánh sáng trong suốt hoàn toàn thanh tịnh như lưu ly vô ngại hiển hiện trên thân của Ngài.

Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử. Vì chúng sinh vô lượng vô biên nên chư Phật cũng thị hiện vô số, tùy theo nghiệp lực, căn tánh của chúng sinh mà các Ngài kiến tạo quốc độ và lập đại nguyện để giáo hóa, đưa chúng sinh thoát khỏi phiền não khổ đau, có đời sống an lạc tự tại. Đức Phật Dược Sư là 1 trong vô số chư Phật có quốc độ và hạnh nguyện riêng của mình.

Dược Sư Như Lai tiếng Phạm gọi là: Bhaisajya-guru Vaidurya-prabharajyah, gọi đủ là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, người ta thường gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, gọi tắt là Dược Sư Phật. Theo Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Kinh chép: “về phương Đông cách thế giới Ta Bà khoảng 10 hằng hà sa Phật độ có cõi Phật tên là Tịnh Lưu Ly, tên của Đức Phật đó là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”.

Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử.
Theo Phật Giáo tất cả chư Phật, Bồ Tát ứng thân thị hiện ra đời vì lòng thương cứu độ chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử.

Vì sao có tên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai?

Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, nhờ trong khi tu hành Bồ tát đạo phát 12 đại nguyện giải trừ hết thảy bệnh khổ cho chúng sinh, khiến họ đầy đủ căn lành và hướng về giải thoát nên khi thành Phật, Ngài trụ ở thế giới Tịnh lưu ly, trang nghiêm như thế giới Cực lạc, cùng với 2 vị Đại Bồ tát là Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu làm quyến thuộc để giáo hóa chúng sinh.

Bổn nguyện của Dược Sư Như Lai là trị tất cả trọng bệnh phiền não vè thân và tâm của chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ đau. Vì Dược Sư Như Lai có bổn nguyện thanh tịnh như vậy nên ánh sáng trong suốt hoàn toàn thanh tịnh (Lưu Ly Quang) như lưu ly vô ngại hiển hiện trên thân của Ngài, và quốc độ của Ngài cũng như vậy nên gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang.

Cũng như các Đức Phật trong mười phương, Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.

Phật Dược Sư Như Lai là ai? Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là ai?
Phật Dược Sư Như Lai là ai? Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là ai?

12 đại nguyện của Đức Dược Sư Như Lai

Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.
Đức Dược Sư có đầy đủ thập hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.
  1. Nguyện khi Ta thành đạo Bồ-đề, thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, hào quang sáng khắp vô lượng thế giới, khiến các chúng sinh cũng được như Ta.
  2. Nguyện khi Ta thành Phật, trong ngoài sáng chói hơn ánh sáng mặt trời, tự tại làm Phật, khiến các chúng sinh ở chỗ tối tăm đều nhờ ơn khai thị.
  3. Nguyện khi Ta thành Phật, đầy đủ vô lượng phương tiện trí tuệ, làm cho chúng sinh đầy đủ các món thọ dụng nơi thân tâm.
  4. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu các chúng sinh tu theo tà đạo đều xoay về chánh đạo, hàng Nhị thừa thì đều hướng về Nhất thừa.
  5. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh theo giáp pháp của Ta mà tu hành, thì đều được hoàn hảo, dù có phạm giới mà nghe đến tên Ta thì cũng trở thành thanh tịnh giới khỏi phải sa vào ác đạo.
  6. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh nào có thân thể hèn yếu hay xấu sa, đui điếc hay câm ngọng, một phen nghe tên Ta, niệm tên Ta thì được khỏi bệnh, lại được tốt đẹp khôn ngoan
  7. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh không bà con thân thuộc, nghèo thiếu ốm đau, không ai giúp đỡ, mà nghe được tên Ta thì thân tâm yên lành quyến thuộc giúp đỡ cho, đến chứng đạo Bồ-đề.
  8. Nguyện khi Ta thành Phật, các nữ nhân thường bị khinh dể thấp kém, nếu nghe được tên Ta thì bỏ thân nữ nhân, thành tướng trượng phu cho đến chứng quả.
  9. Nguyện khi Ta thành Phật, thì các chúng sinh thoát vòng ma đạo ác kiến, về nơi chánh đạo, tu Bồ-tát hạnh mau chứng đạo Bồ-đề.
  10. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh bị pháp vua trừng trị, trói buộc đánh đập, giam vào ngục tối, cắt xẻ v.v. mà nghe tên Ta thì đều thoát khỏi.
  11. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh bị đói khát, cầu ăn mà tạo nghiệp dữ, nếu nghe tên Ta, chuyên niệm thọ trì, thì Ta trước hết cấp cho món ăn được no đủ, sau nói pháp khiến họ tu hành được hoàn toàn an vui.
  12. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh nghèo không có áo mặc, muỗi mòng chích đốt, nóng lạnh, ngày đêm khổ sở, nếu nghe tên Ta chuyên niệm thọ trì, thì Ta theo tâm mong cầu ấy khiến được đầy đủ y phục hoa hương.

Trì tụng và thờ cúng  Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Tranh tượng của Phật Dược Sư hay được vẽ với tay trái cầm thuốc chữa bệnh và tay phải giữ Ấn thí nguyện. Phật Dược Sư thường được thờ chung với Phật Thích Ca Mâu Ni và A Di Đà, trong đó Phật Dược Sư đứng bên trái còn Phật A Di Đà đứng bên phải Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong kinh Dược Sư, hiện nay chỉ còn bản chữ Hán và chữ Tây Tạng, người ta đọc thấy 12 lời nguyện của Ngài, thệ cứu độ chúng sinh, với sự giúp đỡ của chư Phật, Bồ Tát và 12 vị Hộ Pháp và Thiên vương.

Tại Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản và Việt Nam, Phật Dược Sư được thờ cúng rộng rãi.

Về công phu trì niệm hồng danh Đức Phật Dược Sư, mặc dù Ngài có nhiều danh hiệu nhưng trì niệm hồng danh thường là Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật hay Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Theo sách Dược Sư kinh sám (HT.Trí Quang dịch), phần Niệm Phật ghi rõ niệm Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật. Các hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh và niệm đến nhất tâm. Cũng vậy, khi tu tập pháp môn Dược Sư, hành giả niệm danh hiệu Phật Dược Sư cũng phải đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh. Có thể niệm thầm, niệm ra tiếng, lần tràng hạt v.v… và niệm cho đến nhất tâm giống như các phương thức niệm Phật A Di Đà.

Về ý nghĩa Thánh hiệu

Dược Sư, nghĩa đen là thầy thuốc chữa bệnh. Lưu ly là một loại ngọc màu xanh trong suốt. Quang là ánh sáng. Lưu ly quang là ánh sáng ngọc lưu ly. Dược Sư Lưu Ly Quang Phật là vị Phật có danh hiệu Thầy thuốc chữa bịnh, ánh sáng như ngọc lưu ly. Phật Dược Sư hiểu biết và thông suốt tất cả y dược của thế gian và xuất thế gian, Ngài có thể chữa trị hết tất cả những thứ bệnh khổ của chúng sinh, những điên đảo vọng tưởng do tham, sân, si phiền não gây ra. Ánh sáng của Phật Dược Sư thật không nghĩ bàn “Trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn, không có chút nhơ bợn, ánh quang minh chói lọi khắp nơi”. Ánh sáng ấy chiếu đến đâu đều phá hết tăm tối vô minh của chúng sinh, đem lợi lạc và diệt tất cả những bệnh khổ thân tâm của chúng sinh, khiến cho họ xa lìa mê vọng mà hướng đến giác ngộ, giải thoát.

Về công năng của việc trì niệm danh hiệu Phật Dược Sư, có thể nói là không thể nghĩ bàn. Theo kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, đại dụng của danh hiệu Phật Dược Sư, điển hình có năm vấn đề sau:

Diệt sự tham lam mà phát tâm bố thí: Nhờ trì niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà mở rộng tấm lòng, không còn tham lam, ích kỷ chỉ lo tích cóp cho riêng mình đồng thời luôn chia sẻ, ca ngợi và thực hành bố thí.

Công năng của việc trì niệm danh hiệu Phật Dược Sư, có thể nói là không thể nghĩ bàn.

Diệt sự phạm tội mà được sự giữ giới: Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.

Diệt sự ganh ghét mà được sự giải thoát: Do nghiệp lực ganh ghét, đố kỵ người khác nên chịu quả báo hèn hạ, thống khổ. Niệm Phật Dược Sư sẽ khiến cho hành giả phát tâm tu học, diệt trừ khổ não, thành tựu giải thoát.

Diệt sự hại nhau mà được sự thương nhau: Những ý niệm oán kết, thù hận dẫn đến hành động tiêu diệt lẫn nhau, nhờ niệm danh hiệu Đức Dược Sư mà được hóa giải. Không những không còn làm hại nhau mà còn hiểu biết, thương yêu và tôn trọng lẫn nhau.

Được sinh Cực lạc hay các sự chuyển sinh khác: Đối với những hành giả phát tâm niệm Phật A Di Đà, cầu vãng sinh Cực lạc thì niệm Phật Dược Sư là một sự trợ duyên rất quan trọng. Chư Phật, các Đại Bồ tát trong pháp hội Dược Sư luôn trợ hóa cùng Phật A Di Đà, tiếp dẫn chúng sinh về Cực lạc. Ngoài ra, nhờ công đức tu tập Thánh hiệu Phật Dược Sư mà hành giả được đầy đủ phước báo, sinh về các thế giới an lành.

Ngoài ra, nhờ năng lực bổn nguyện của Phật Dược Sư, những chúng sinh thọ trì danh hiệu Ngài được tiêu trừ tất cả bệnh khổ và thành tựu mọi sở nguyện, sở cầu.

Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.
Đối với những tội lỗi, lầm lỡ đã gây tạo, nhờ niệm danh hiệu Ngài mà được chuyển hóa đồng thời phát nguyện sống đạo đức, lương thiện theo Chính pháp.

Bảy tôn tướng của Đức Dược Sư Như Lai

Đức Phật Dược Sư là một đấng giác ngộ có lòng bi mẫn vô biên đối với hết thảy chúng sinh. Ngài hộ trì chúng sinh tránh khỏi những đớn đau về tâm hồn và thể xác, khỏi những hiểm nguy và chướng ngại, và giúp họ trừ diệt ba độc tố – tham trước, sân hận và si mê – cội nguồn của mọi bệnh tật và nguy hại. Ngài là đấng Y vương Toàn giác.

Theo các Kinh điển Phật Giáo thì Đức Dược Sư Như Lai có 7 tôn tượng. Có thuyết cho là mỗi vị có mỗi đại nguyện và ứng thân riêng từng vị. Có thuyết cho là các Ngài từ nhất thể là Đức Dược Sư Như Lai mà phân thân ứng hiện (ứng thân), danh hiệu của các Ngài là: Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai; Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai; Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai; Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai; Pháp Hải Lôi Âm Như Lai; Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai; Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai
Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai
Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai
Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai
Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai
Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai
Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai;
Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai
Pháp Hải Lôi Âm Như Lai
Pháp Hải Lôi Âm Như Lai
Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai
Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như lai
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai

Lược sử tóm tắt về cuộc đời Đức Phật – Thích Ca Mâu Ni

Đức Phật là aiLời người dịch bài viết

Bài viết này được trích dịch từ một tập sách nhỏ có tựa đề “101 điều về Giáo lý” (Dharma 101) – là những câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình tu học của người Tây Phương.

Những câu hỏi như Đức Phật là ai? Đức Phật ở đâu?Niềm tin quan trọng ra sao?tại sao chúng ta phải cúi chào? Bạn là ai? Nghiệp là gì? ….có thể nghe quen thuộc đối với nhiều người nhưng câu trả lời có thể không quen thuộc. Điều này có thể do có sự khác biệt về quan điểm hay về sự hiểu biết giữa các vị Thầy, hoặc sự khác biệt giữa các truyền thống. Ba Thừa chính yếu (Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa) của Phật giáo tại Á Châu có sự khác nhau về lý tưởng, pháp tu và cách trình bày. Ví dụ những câu hỏi về sự giác ngộ có thể có câu trả lời của một vị Thầy Đại Thừa ở Đông Á khác với câu trả lời của một đạo sư Kim Cang Thừa của Tây Tạng.

Một câu hỏi về ý niệm của tánh không Phật giáo sẽ có hai câu giải đáp khác nhau bởi một vị Sư Nam Tông ở Đông Nam Á và một vi Thầy bên Đại Thừa. Nhưng ở Tây Phương, nơi các tông phái của ba truyền thống này đang phân phát bên cạnh nhau, chúng ta nhận cả ba thừa đều gợi lên những câu hỏi chung và những giáo lý căn bản cũng ứng dụng cho tất cả. Bản dịch này được thực hiện để tưởng nhớ 10 năm sau ngày mất của người bạn đạo, đó là đạo hữu Rick Fields (1942-1999) vốn là một biên tập viên của tạp chí Tricycle (Tam Thừa) và tạp chí Yoga Journal.

Dịch giả liên lạc với ông Rick Fields từ năm 1996 đến lúc ông qua đời vào năm 1999 vì bệnh ung thư phổi. Ông Rick Fields đã gởi tặng cho người dịch nhiều tài liệu về Phật giáo thế giới, trong đó có tập sách mà chính ông là tác giả, đó là quyển “Lịch sử Phật giáo Hoa Kỳ” (How the Swans came to the Lake, A Narrative History of Buddhism in America) (Shambhala, 1981), trong đó “Đức Phật là ai ?” cũng được trích dịch từ tập sách dày 450 trang này.

Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm

Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm(1) (sau này là Đức Phật) ra đời năm 624 trước Tây Lịch tại một vương quốc nhỏ ngay dưới chân rặng núi Hy Mã Lạp Sơn. Cha của Ngài là vua của bộ tộc Thích Ca (Skakya). Mười hai năm trước khi ra đời, các tu sĩ Ấn Giáo đã tiên tri rằng Ngài sẽ là một vị vua vĩ đại hoặc sẽ trở thành một nhà hiền triết lừng danh của thế giới loài người. Vì không muốn Ngài trở thành tu sĩ, cha của Ngài đã giữ Ngài bên trong cung điện. 

Đức Phật là ai - Lược sử tóm tắt về cuộc đời Đức Phật - Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật là ai – Lược sử tóm tắt về cuộc đời Đức Phật – Thích Ca Mâu Ni

Thái tử Tất Đạt Đa lớn lên trong sự xa hoa của một bậc vua chúa, không được phép nhìn thấy thế giới bên ngoài, được các vũ nữ giúp vui, và được các tu sĩ Bà La Môn dạy học. Thái tử còn học cưỡi ngựa, bắn cung, đánh kiếm, đánh vật, bơi lội… Khi đến tuổi trưởng thành, Thái tử thành hôn với công chúa Gia Du Đà La và có một con trai.

Ngày nay chúng ta có thể nói là Ngài là người có tất cả mọi thứ trên đời, nhưng Ngài cảm thấy mình thiếu một cái gì đó, và chính điều đó đã lôi kéo Ngài ra khỏi những bức tường của cung điện. Ở ngoài đó, trên những đường phố của kinh thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài đã trông thấy ba cảnh tượng thông thường nhất đối với mọi người khác: một người bị bệnh, một người già yếu, và một xác chết đang được người ta đưa đi hỏa thiêu. Ngài chưa bao giờ được sửa soạn để chứng kiến những cảnh bi thảm như thế này, cho đến khi người đánh xe nói với Ngài rằng tất cả mọi người đều phải chịu sự già yếu, bệnh tật và chết chóc, Ngài cảm thấy mình không thể nào an tâm sống trong sự xa hoa như trước nữa. Trên đường trở về cung điện, Ngài trông thấy một tu sĩ đang bước đi một cách thong dong trên đường phố, và Ngài đã quyết định rời khỏi cung điện để đi tìm giải pháp cho vấn đề đau khổ của cuộc đời.

Trong đêm khuya Ngài lặng lẽ từ giã vợ con mà không đánh thức họ, rồi phi ngựa đến một khu rừng, nơi đó Ngài đã dùng gươm cắt tóc và thay bộ trang phục vua chúa bằng một chiếc áo tu sĩ đơn sơ. Đó là năm Ngài 29 tuổi, (595 BC).

Với hành vi này Thái tử Tất Đạt Đa đã gia nhập vào hạng người từ bỏ xã hội Ấn Độ để tìm giải thoát. Thái tử đã tìm đến học hỏi với nhiều vị thầy khác nhau, từ những vị theo chủ nghĩa duy vật, cho đếnnhững người theo chủ nghĩa lý tưởng và phái ngụy biện. Từ rừng núi đến thị thành, đâu đâu cũng sôi nổi với những cuộc tranh luận và triết lý. Sau cùng Thái tử đã theo học hai vị Thầy nổi tiếng, vị thứ nhất là Đạo Sư Alara-Kalama, thuộc phái Samkhya (phái Số luận), đang có ba trăm đệ tử theo tu học.

Với vị này, Thái tử đã học và đắc ngũ thần thông, đạt đến bậc thiền Vô Sở Hữu Xứ. Nhưng sau đó dù Đạo SưArada Kalama mời Ngài ở lại để dạy đạo như một người đồng đẳng với ông, nhưng Ngài thấy đây không phải là pháp giải thoát tối hậu, nên Ngài đã ra đi. Ngài đến học với vị thầy thứ hai là Đạo SưUddaka Ramaputta (Uất-đầu-lam-phất), người đang có 700 đệ-tử theo học. Sau vài ngày tu học, Ngài đã chứng được tầng thiền Phi-tưởng phi-phi-tưởng. Nhưng đây không phải là con đường giải thoát sinh tử khổ đau, và Tất Đạt Đa cũng đã quyết định từ giả vị thầy này.

Trong sáu năm, Thái tử Tất Đạt Đa cùng với năm người bạn Kiều Trần Như cùng tu khổ hạnh và thiền định, chỉ ăn một hạt cơm mỗi ngày, lấy tâm trí thi đua với thể xác, và chỉ còn da bọc xương. Khi Ngài quyết định dùng nhiều thực phẩm hơn và không áp dụng pháp tu khổ hạnh nữa, năm người bạn kia đã từ bỏ Ngài.

Ngài đến một ngôi làng để khất thực, ở đó một cô gái tên là Sujata mời Ngài dùng một bát cháo sữa với mật ong. Khi sức khỏe phục hồi, Ngài xuống tắm dưới sông Nairanjana (Ni Liên Thiền) rồi ngồi thiền dưới cội Bồ Đề, trên một tấm tọa cụ làm bằng cỏ kusha. Ngài ngồi đó sau khi đã nghe tất cả các vị thầy, học tất cả những kinh sách và thực hành tất cả pháp môn, bây giờ không có gì vướng bận, không có ai để nương tựa, không có nơi nào để đi nữa. Ngài thiền tọa bất động và cương quyết như một quả núi, cho đến bảy ngày sau, Ngài mở mắt ra, trông thấy sao mai vừa mọc trên bầu trời và Ngài hiểu ra rằng mình đã tìm ra cái chưa bao giờ mất, dù là đối với Ngài hay bất cứ một người nào khác trên thế gian này. Vì vậy không có gì để chứng đắc, không có gì để tìm kiếm nữa.

Ngài nói: “Điều kỳ diệu nhất là sự giác ngộ này vốn là chân tánh của chúng sanh, nhưng họ lại không an lạc vì thiếu nó”. Vậy Thái Tử Tất Đạt Đa đã giác ngộ vào năm ba mươi lăm tuổi (589 BC) và trở thành một vị Phật, tức đấng giác ngộ, được tôn vinh là Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), tức là nhà hiền triết thuộc bộ tộc Thích Ca.

Trong bảy tuần lễ sau đó, Đức Phật thọ hưởng pháp lạc tự tại giải thoát của chính mình. Lúc đầu Ngài không có ý định nói về sự chứng ngộ của mình, vì Ngài thấy đây là điều khó hiểu đối với phần lớn loài người, nhưng khi Phạm Thiên (Brahma), vị vua của ba ngàn thế giới, thỉnh cầu Ngài thuyết pháp, vì cũng có những người :’’mắt chỉ bị mờ một chút mà thôi”. Đức Thế Tôn đã chấp thuận.

Hai vị thầy của Đức Phật, Udaka và Ramaputra đều đã qua đời trước đó mấy ngày, vì vậy Ngài đi tìm năm người bạn đồng tu khổ hạnh mà trước kia đã rời bỏ mình. Khi thấy Ngài đi tới Vườn Nai ở thành Ba La Nại (Benares), họ làm lơ với Ngài, vì Ngài đã không tiếp tục thực hành khổ hạnh với họ. Nhưng rồi họ thấy có một cái gì tỏa sáng trong sự hiện diện của Ngài, họ đứng lên, sửa soạn chỗ ngồi và lấy nước cho Ngài rửa chân, rồi ngồi xuống nghe Ngài thuyết pháp. Đó là bài pháp đầu tiên của Đức Phật. Đức Phật đã nói bài pháp Tứ Diệu Đế cho các vị này.

Trong Tứ Diệu Đế của Đức Phật, chân lý thứ nhất, Khổ đế, nói rằng bản chất của cuộc đời này là đau khổ và không thỏa mãn, ngay cả những lúc hạnh phúc cũng có mầm móng của khổ đau nếu chúng ta bám giữ vào chúng, hay khi chúng đã đi vào ký ức, chúng vẫn bóp méo hiện tại vì tâm trí của chúng tacố gắng dựng lại quá khứ một cách tuyệt vọng. Giáo lý của Đức Phật dựa trên sự quan sát trực tiếp đời sống, và là lời phê bình cấp tiến đối với lối suy nghĩ mơ mộng cũng như vô số những lối thoát ly, như chủ nghĩa không tưởng chính trị, môn tâm lý trị liệu, chủ nghĩa hưởng lạc, hay thuyết cứu rỗi hữu thầncủa thần bí học, đây là điểm chính yếu phân biệt giữa Phật giáo với đa số những tôn giáo khác trên thế giới.

Khổ là chân lý thứ nhất và là nền móng để hiểu một cách trọn vẹn chứ không phải để trốn tránh hay để giải thích. Kinh nghiêm về sự khổ, về sự hoạt động của tâm trí, đưa đến chân lý thứ hai là nguyên nhân của Khổ (Tập Đế), thường được mô tả là tham muốn lạc thú, nhưng cũng được giải thích một cách căn bản hơn là bám giữ vào sự sống hoặc sự không hiện hữu, tức chấp có và chấp không.

Việc nghiên cứu tính chất của sự tham muốn này dẫn đến tâm điểm của chân lý thứ hai, đó là ý tưởng tự ngã hay cái ta, với tất cả những điều mong cầu và những điều lo sợ của nó, và chỉ khi nào hiểu đúng về tự ngã này và thấy nó không có tự tính, không có thật một cách vĩnh cữu), thì mới có thể hiểu chân lý thứ ba, sự diệt khổ (Diệt Đế).

Năm tu sĩ nghe bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật ở Vườn Nai trở thành hạt nhân của cộng đồng các tu sĩ Phật giáo, tức là Tăng đoàn (Sangha), là những người đi theo con đường mà Đức Phật đã trình bày trong chân lý thứ tư, con đường đưa đến sự diệt khổ (Đạo Đế), đó là Bát Chánh Đạo, chân chánh trong tám phương diện: ý kiến, ý nghĩ, lời nói, hành vi, nghề nghiệp, nỗ lực, ý thức và thiền định.

Các tu sĩ Phật giáo, tức Tỳ kheo (Bikkhu), sống rất đơn giản, chỉ có một bình bát, một cái áo, một cây kim, một cái lọc nước, một con dao cạo đầu, đó là dấu hiệu của sự ly gia cắt ái. Họ đi khắp miền đông bắc Ấn Độ, hành thiền một mình hay trong những nhóm nhỏ và khất thực.

Tuy nhiên giáo lý của Đức Phật không chỉ dành cho đoàn thể các tu sĩ, Ngài đã dạy họ truyền bá giáo lýcho mọi người “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường, đi khắp nơi vì lợi lạc, vì hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người”.

Trong bốn mươi lăm năm, Đức Phật đã đi qua những thôn làng và những thành phố của Ấn Độ, nói bằng ngôn ngữ phổ thông, dùng những lối nói giản dị mà ai cũng có thể hiểu. Ngài dạy dân làng thực hành chánh niệm trong khi kéo nước giếng, và khi một bà mẹ đau khổ ôm xác một đứa con đến xin Ngài cứu cho nó sống lại, Ngài đã không làm một phép lạ mà bảo bà ta mang về cho Ngài một nắm hạt cải của một nhà nào đó không có ai chết trước đó. Sau khi đi tìm, bà ta trở về tay không, nhưng hiểu ra một sự thật rằng cái chết đến với tất cả mọi người.

Khi được nghe nói đến Đức Phật, từ phú gia đến các bậc vua chúa đều phát tâm cúng dường những khu vườn ngự uyển để xây dựng tinh xá. Đức Phật tiếp nhận những khu vườn này, nhưng Ngài vẫn tiếp tục sống như mình đã từng sống từ năm hai mươi chín tuổi: một tu sĩ khất thực và thiền định dưới gốc cây. Bây giờ chỉ có một điều khác là gần như mỗi ngày sau khi thọ trai vào giữa trưa Ngài thuyết pháp. Không có một bài pháp nào được ghi chép lại trong khi Ngài còn tại thế.

Năm 544 (Trước Tây lịch), Đức Phật nhập Niết Bàn tại thành Câu Thi Na (Kusinagar) ở tuổi tám mươi sau khi ăn một bữa ăn có nấm. Trong số những người tu tập bên cạnh Đức Phật có những người đau buồn. Đức Phật nằm giữa hai cây Sala, đầu hướng về phương bắc, mình nghiêng về bên phải, bàn tay phải để ngửa lót dưới mặt, tay trái để xuôi trên hông trái, chân trái nằm dài trên chân phải, hơi thở nhẹ nhàng đều đặn.

Ngài nhắc với các đệ tử rằng mọi vật đều vô thường và khuyên họ hãy nương tựa vào chính mình và vào giáo pháp. Ngài hỏi có ai muốn hỏi điều gì lần cuối cùng thì hỏi. Sau đó Ngài nói lời di chúc cuối cùng: “Này các đệ tử, hãy nghe Như Lai nói đây: Vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt. Các thầy hãy tinh tấn lên để đạt tới giải thoát”.

Vào mùa mưa đầu tiên sau khi Đức Phật nhập diệt, năm trăm đệ tử Tỳ kheo hội họp tại một hang núigần thành Vương Xá để ôn tụng lại những lời dạy của Ngài. Tại cuộc kiết tập Kinh Điển lần thứ nhất này, Tôn giả A Nan, vốn là thị giả của Đức Phật, được mời nói lại tất cả những bài thuyết pháp của Phật mà mình đã nghe. 

Tôn giả Ưu Ba Ly ôn tụng lại các giới điều của tu sĩ, còn Ngài Đại Ca Diếp thì nhắc lại Luận Tạng, gồm những điều nói về tâm lý và siêu hình học Phật Giáo. Ba loại sưu tập này được viết trên lá bối vài thế kỷ sau đó và được gọi là “Tripitaka” tức là Tam Tạng Kinh Điển, đã trở thành những giáo lý cốt lõi cho tất cả những giáo điển nhà Phật ngày nay.

Dịch giả Thích Nguyên Tạng

Nói thêm về Đức Phật

Đức Phật trong lịch sử, tức Phật Thích Ca Mâu Ni, hay Đức Phật Cồ Đàm (Gautama), sống cách đây khoảng 2.500 năm tại Ấn Độ. Tuy nhiên, Ngài không phải là đức Phật đầu tiên, và sẽ không phải là đức Phật cuối cùng. Ngài thuyết giảng rằng trong thời đại này (eon – một khoảng thời gian rất dài, có thể so sánh với thời gian từ lúc hình thành của vũ trụ mà chúng ta biết), sẽ có 1.000 vị Phật toàn giác thuyết giảng về Phật giáo (sau khi Phật giáo đã bị hoàn toàn lãng quên). Theo các kinh sách Phật giáo, Đức Phật thứ nhất, thứ hai, thứ ba là Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda), Câu Na Hàm Mâu Ni Phật (Kanakamuni), Ca Diếp Phật (Kashyapa), sau đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), Đức Phật trong lịch sử sống cách đây khoảng 2.500 năm, và Đức Phật tiếp theo sẽ là Đức Phật Di Lặc (Maitreya).

Một vị Phật khác với “Chúa trời”, “thần linh” hay “đấng tối cao”… theo cách hiểu của các tôn giáo Ki tô, Do Thái, Hồi giáo và nhiều tôn giáo khác ở chỗ, Đức Phật không phải là đấng sáng tạo ra vũ trụ, không phải là đấng toàn năng có thể ban phúc giáng họa cho con người. Trái lại, Phật là người đã giác ngộ, thấu đạt được sự thật – chân lý – và mang chân lý đó truyền giảng lại cho những người khác, giúp chúng sinh nhờ thực hành tu tập, trưởng dưỡng tâm linh mà cũng thành tựu giác ngộ được như vậy. Nhờ năng lực giác ngộ, một vị Phật có hiểu biết toàn tri, thấu đạt vạn pháp và có thể bằng cách đó đem lại lợi ích to lớn cho các chúng sinh khác. Như vậy, mọi chúng sinh đều tự chủ về cuộc sống cũng như khả năng thành tựu giác ngộ của bản thân, đều có thể đạt đến trạng thái Phật quả (mặc dù có thể phải mất nhiều kiếp). Đức Phật đã chỉ ra con đường đến với chân lý, nhưng không ai khác ngoài mỗi người phải tự mình tiến bước trên hành trình tâm linh của chính mình.

Nếu có 5 đức này, người tu ở đâu cũng lợi ích

Một thời, Thế Tôn trú ở Kimbilà, tại Veluvana, dạy các Tỷ kheo: Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo trú tại chỗ giúp đỡ rất nhiều cho trú xứ ấy. Thế nào là năm?

Có giới và học tập các học pháp. Nghe nhiều và khéo thành tựu nhờ chánh kiến. Vị ấy sửa chữa những gì bị gãy, bị hư hại. Khi đại chúng Tỷ kheo đi đến từ nhiều địa phương khác nhau, vị ấy nói với các gia chủ đi đến như sau: “Nay đại chúng Tỷ kheo đã đến từ nhiều địa phương khác nhau. Các vị hãy làm phước đức. Nay là thời điểm làm các phước đức”. Chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được bốn thiền không phí sức và hiện tại lạc trú.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo trú tại chỗ giúp đỡ rất nhiều cho trú xứ ấy. 

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Trú tại chỗ, phần Giúp  đỡ nhiều, NCPHVN ấn hành, 1996, tr.735)

Phật dạy sáu pháp không thối đọa

01

Lời bàn: 

Theo truyền thống thiền môn, chư vị Tỷ kheo khi du hành và lưu trú trong bất cứ các tự viện hay chùa chiền nào cho đến ba ngày sau thì xem như không còn là khách mà phải thực hành trách nhiệm và bổn phận như Tăng chúng thường trụ ở trụ xứ ấy. Để cho sự có mặt của mình không trở thành gánh nặng và đến đâu cũng được kính quý, mỗi vị Tỷ kheo phải luôn phấn đấu tu học đồng thời góp sức cùng chư Tăng nơi trụ xứ ấy bảo vệ và xây dựng chùa chiền ngày càng phát triển vững mạnh.

Theo kinh nghiệm của Thế Tôn, khi gia nhập hội chúng mới, trước hết vị Tỷ kheo cần phải nỗ lực tu tập, giới hạnh tinh nghiêm. Kế đến là thường xuyên học hỏi, nghe pháp để có nhận thức và quan niệm đúng Chánh pháp. Đồng thời vị ấy tự giác tham gia vào công việc như chấp tác, dọn dẹp, sửa chữa những gì bị hư hại làm cho chùa viện sạch đẹp, khang trang hơn.

Đối với các Tỷ kheo mới du hành đến trụ xứ, Tỷ kheo ấy phải sanh tâm hoan hỷ, kêu gọi các gia chủ cư sĩ cúng dường để gieo trồng phước báo và trợ duyên cho các ngài đầy đủ phương tiện tu hành. Quan trọng nhất là vị Tỷ kheo trong thời gian ở tại trụ xứ ấy đạt được các quả chứng và sống thảnh thơi an lạc.

Nếu hội đủ năm yếu tố trên, một vị Tỷ kheo đi đến nơi đâu sẽ giúp ích cho nơi ấy rất nhiều. Và tất nhiên, vị ấy ở đâu cũng không trở thành gánh nặng, được mọi người thương mến, kính trọng và mong mỏi ở lại lâu dài.

Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, một số Tỷ kheo trẻ cũng khá vất vả trong việc tìm cho mình một trụ xứ để nương tựa tu học. Thực trạng này hẳn có nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết mỗi chúng ta cần phải tự xem lại mình đã làm được những gì để đóng góp cho trụ xứ như lời Phật đã dạy. Thay vì yêu cầu trụ xứ ấy trợ duyên cho mình, hãy hết lòng vì sự phát triển chung, tất yếu mình sẽ được an ổn.

Nỗi sợ ban đầu

Nhiều người thường bị ám ảnh về những việc có thể khơi dậy sợ hãi và buồn khổ. Tất cả chúng ta đều đã có những trải nghiệm buồn khổ trong quá khứ mà ta không thể quên được. Chúng ta luôn nhớ và sống lại những khổ đau của quá khứ.

Nhưng nếu nhớ lại quá khứ mà không có chánh niệm, tỉnh thức thì việc nhớ lại chỉ khiến chúng ta thêm buồn khổ.

Lấy ví dụ, khi còn nhỏ, bạn bị ngược đãi. Bạn đã khổ đau cùng cực. Bạn rất yếu ớt, mong manh, lúc nào cũng có cảm giác bất an. Bạn không biết cách để tự bảo vệ mình. Trong tâm trí, bạn như tiếp tục bị ngược đãi không thôi. Mặc dầu bây giờ đã trưởng thành, không còn là một em bé yếu ớt, mong manh nhưng bạn vẫn tiếp tục buồn khổ vì bạn cứ nhớ lại kỷ niệm đau buồn ngày xưa.

Trong tiềm thức của bạn hình như có chôn giấu một cuốn phim, một hình ảnh. Mỗi khi bạn nhớ về quá khứ thì như là bạn xem lại thước phim hay ngắm lại bức tranh đó và bạn lại buồn khổ. Chánh niệm nhắc ta rằng ta có thể sống trong hiện tại, bây giờ và ở đây. Chánh niệm cho ta biết rằng hiện tại luôn có đó và ta không cần trở về sống lại quá khứ xa xưa. 

Giả sử có một người tát vào mặt bạn. Cái tát đã in dấu trong tiềm thức bạn. Tiềm thức bạn chứa nhiều thước phim, nhiều hình ảnh vẫn tiếp tục linh hoạt trong bạn. Và bạn có xu hướng trở về xem lại những thước phim ấy, ngắm lại những hình ảnh ấy và bạn tiếp tục buồn khổ. Mỗi lần nhớ lại như thế là bạn như bị tát vào mặt lần nữa.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Nhưng đó chỉ là quá khứ. Bạn không còn sống trong quá khứ, bạn đang sống trong hiện tại. Chuyện cũ đã xảy ra thật, nhưng xảy ra trong quá khứ. Bây giờ chỉ còn lại ký ức của những hình ảnh ngày nào. Nhưng nếu bây giờ bạn an trú trong hiện tại thì bạn có thể nhìn về quá khứ với một cái nhìn khác hơn và bạn có thể chuyển hóa nỗi khổ đó. Có thể rằng hồi bạn còn nhỏ, có người đã lấy mất đi một món đồ chơi của bạn và bạn đã biết cách la khóc để tìm cách lấy lại món đồ chơi, hay cười nịnh chị vú để chị ấy trả lại món đồ chơi của bạn. Mặc dầu còn nhỏ, bạn đã biết cười xã giao. Đó là một cách ứng phó để sống còn. Bạn đã học được một bài học mà bạn không hay.

Cảm giác bạn nhỏ bé, mong manh, không đủ sức tự bảo vệ, luôn luôn cần có người hỗ trợ bên mình vẫn còn đó mãi. Nỗi sợ hãi ban sơ và ước muốn ban sơ luôn luôn còn đó. Em bé, với nỗi sợ hãi và ước muốn ban sơ vẫn sống động trong ta.

Nhiều người bị trầm cảm và mãi khổ đau mặc dầu hoàn cảnh hiện tại của họ khá bình an, vững chãi. Đó là vì họ có xu hướng chôn mình trong quá khứ. Họ cảm thấy được thoải mái hơn khi quay về trú ẩn nơi quá khứ, mặc dù quá khứ chứa nhiều khổ đau. Nơi trú ẩn đó là hố sâu thẳm của tiềm thức với những thước phim đau buồn. Rồi mỗi đêm bạn về lại nơi trú ẩn đó, xem lại những thước phim ấy và tiếp tục buồn khổ. Và những lo âu của bạn cho tương lai chẳng qua chỉ là những sợ hãi và ước muốn của quá khứ mà thôi. 

Đừng sợ quá khứ

Kẹt vào quá khứ rất dễ, cho nên phải có một cách để nhắc nhở chúng ta trở về với hiện tại. Tại Làng Mai, chúng tôi sử dụng tiếng chuông. Mỗi khi nghe tiếng chuông, chúng tôi thở hơi thở vào ra trong chánh niệm và tự nhủ: “Lắng lòng nghe. Tiếng chuông huyền diệu đưa về quê hương”. Quê hương đó chính là ngôi nhà thật sự của tôi.

Bạn có thể nói với em bé trong bạn rằng, quá khứ không phải là nhà của ta. Nhà của ta là tại đây, là bây giờ, nơi chúng ta đang thực sự sống. Nơi đây, ta có thể có được những gì nuôi dưỡng và chữa trị. Bao nhiêu sợ hãi, lo lắng, tuyệt vọng vẫn còn đó vì em bé trong ta chưa được giải thoát. Em sợ phải đối diện với hiện tại. Chánh niệm và hơi thở của ta sẽ giúp em ý thức rằng em đang được an toàn và tự do.

Khi xem phim, theo dõi những tình huống bi đát trên màn ảnh, bạn có thể rơi lệ. Bạn tưởng rằng những tình huống đó là thật. Nước mắt của bạn là nước mắt thật, cảm xúc của bạn là cảm xúc thật. Nhưng nếu đến gần màn ảnh thì bạn chỉ thấy những vệt sáng lập lòe. Bạn không thể tiếp xúc với những nhân vật trên màn ảnh, không thể nói chuyện, uống trà hay hỏi han, tâm sự. Ấy vậy mà những nhân vật ấy đã làm cho bạn đau khổ thực sự, đau khổ thể xác cũng như tinh thần. Cũng vậy, ký ức của bạn có thể tạo ra đau khổ thật sự cho dù những ký ức ấy chỉ là những hình bóng xa xưa.

Khi bạn nhận ra rằng thói quen sống lại những chuyện ngày xưa hay phản ứng theo ký ức là do tập khí thì bạn hãy nhớ rằng bạn có thể có một lựa chọn khác. Bạn có thể đối diện giây phút hiện tại với tâm vô tư, không phán xét. Hãy dành quá khứ cho một lúc khác, một lúc tĩnh lặng nào đó, để an ủi em bé thương tích trong bạn, để nói với em rằng em không còn đau khổ nữa. Bạn có thể nắm tay em, đưa em về hiện tại với bao nhiêu mầu nhiệm hiện tiền: “Này em, hãy tới đây với ta, chúng ta đã lớn rồi và không còn sợ hãi nữa. Chúng ta đã vững mạnh. Chúng ta không phải sợ gì nữa.” Bạn phải hướng dẫn em bé trong bạn, phải đưa em về với sự sống hiện tại. Lẽ tất nhiên là ta có thể học hỏi kinh nghiệm từ quá khứ, nhưng đồng thời ta phải an trú trong hiện tại. Nếu an trú vững chãi trong hiện tại, chúng ta có thể suy nghiệm quá khứ một cách tinh tường, học hỏi từ quá khứ mà không bị quá khứ ám ảnh.

Nghĩ tới tương lai mà không sợ hãi

Cũng vậy chúng ta có thể chuẩn bị tương lai mà không bị chìm ngập bởi những dự án cho tương lai. Rất nhiều khi ta chẳng phải đang lên một dự án gì cả mà ta chỉ đang chạy theo những ám ảnh về những kế hoạch trong đầu của ta, chỉ bởi ta lo sợ về một tương lai bất định. Ta phải an trú trong hiện tại khi hành động, chỉ có như vậy, ta mới hoạch định tương lai một cách tốt đẹp nhất. Sống trong hiện tại không có nghĩa là không chuẩn bị cho tương lai. Tuy nhiên đánh mất mình trong lo lắng cho tương lai không giúp ích được gì. Khi an trú trong hiện tại, ta có thể đem tương lai về với hiện tại để có thể nhìn sâu mà không đánh mất mình vì lo lắng, hoang mang. Thực sự có mặt trong hiện tại và chăm sóc hiện tại tốt đẹp chính là ta đang chăm sóc tương lai tốt đẹp.

Quá khứ cũng vậy. Chánh niệm không cấm ta nhìn sâu về quá khứ. Tuy nhiên, nếu ta chìm đắm trong tiếc nuối, buồn khổ của quá khứ thì đó không phải là chánh niệm. Nếu thật sự an trú trong hiện tại thì ta có thể đem quá khứ về hiện tại để quán chiếu sâu sắc. Chúng ta có thể quán chiếu quá khứ và tương lai khi an trú trong hiện tại. Quả vậy, ta có thể xử lý quá khứ và tương lai một cách tốt đẹp nhất nếu ta an trú trong hiện tại.

Nếu bạn có một người bạn đang đau khổ, bạn có thể nói với anh ta rằng: “Này bạn ơi, bạn đang ổn lắm. Hiện tại mọi việc đều đang rất tốt. Tại sao bạn cứ mãi đau khổ? Đừng trở về với quá khứ. Quá khứ chỉ là một bóng ma, không có thật.” Mỗi khi chúng ta nhận ra rằng quá khứ chỉ là một cuốn phim hay một tấm ảnh, chúng ta sẽ được tự do. Đây là phép thực tập chánh niệm.

Hóa ra, ta thật ít thương yêu

Ngày nay khi xung đột, bạo động và nguy cơ chiến tranh hủy diệt trên thế giới ngày càng cao làm cho nhân loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới càng quan tâm hơn về giáo lý từ bi của đạo Phật.

“Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, dạy các Tỷ kheo:

Mong tất cả những ai

Hữu tình có mạng sống

Kẻ yếu hay kẻ mạnh

Không bỏ sót một ai

Kẻ dài hay kẻ lớn

Trung, thấp, loài lớn, nhỏ

Loài được thấy, không thấy

Loài sống xa, không xa

Các loài hiện đang sống

Các loài sẽ được sanh.

Mong mọi loài chúng sanh

Sống hạnh phúc an lạc

Mong rằng không có ai

Lường gạt lừa dối ai

Không có ai khinh mạn

Tại bất cứ chỗ nào

Không vì giận hờn nhau

Không vì tưởng chống đối

Lại có người mong muốn

Làm đau khổ cho nhau.

Như tấm lòng người mẹ

Ðối với con của mình

Trọn đời lo che chở

Con độc nhất mình sanh

Cũng vậy, đối tất cả

Các hữu tình chúng sanh.

Hãy tu tập tâm ý

Không hạn lượng rộng lớn

Hãy tu tập từ tâm

Trong tất cả thế giới

Hãy tu tập tâm ý

Không hạn lượng rộng lớn

Phía trên và phía dưới

Cũng vậy, cả bề ngang

Không hạn chế, trói buộc

Không hận, không thù địch.

Khi đứng, hay khi đi

Khi ngồi, hay khi nằm

Lâu cho đến khi nào

Khi đang còn tỉnh thức

Hãy an trú niệm này

Nếp sống này như vậy

Ðược đời đề cập đến

Là nếp sống tối thượng”.

(ĐTKVN, Tiểu Bộ I, kinh Tập, chương 1, phẩm Rắn, phần Kinh Từ bi [trích], Nxb TP.HCM ấn hành, 1999, tr.506)

Phật giáo hóa chúng ta bằng tâm từ

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Lời bàn: 

Ngày nay khi xung đột, bạo động và nguy cơ chiến tranh hủy diệt trên thế giới ngày càng cao làm cho nhân loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới càng quan tâm hơn về giáo lý từ bi của đạo Phật. Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.

Đây là điều mà mọi người cần suy ngẫm để cùng góp sức bảo vệ hòa bình bằng chính từ tâm của bản thân mình. Tâm từ trong ta vốn sẵn nhưng bị tăm tối của tham vọng, hận thù che lấp. Do vậy, để nuôi lớn tâm từ, mỗi người phải thực tập tập thiền quán từ bi trong đời sống hàng ngày.

Hãy ngồi yên, buông thư toàn thể thân tâm, mở rộng lòng thương hướng đến tất cả mọi người và mọi loài trong khắp cả mười phương thế giới, nguyện cho tất cả chúng sanh luôn được bình an, hạnh phúc. Đây là lòng yêu thương chân thật, rộng mở, không tính toan, phân biệt. Càng rải từ tâm đến chúng sanh bao nhiêu thì lòng thương yêu trong ta lớn dần thêm bấy nhiêu. Cứ thế, luôn ban rải tâm từ đến vô hạn, vô cùng…

Lúc đầu, khi lòng từ của ta còn yếu ớt thì đối tượng hướng tâm thường là phổ quát gồm hết thảy chúng sanh hoặc là những người thân yêu, không thù oán. Về sau, khi lòng từ lớn dần, cần hướng tâm đến những đối tượng cụ thể mà họ đã từng làm ta khổ đau, oán hận, quyết không đội trời chung, thề một mất một còn. Tâm từ như dòng nước ùa về cánh đồng khô cháy, xóa dần đi nứt nẻ quá khứ đau thương, và đất tâm sẽ xanh màu hoa trái.

Một người tu tập tâm từ, mọi người tu tập tâm từ thì thế giới sẽ tràn ngập tình thương và nhân loại sẽ tránh được khổ đau phát xuất từ nguyên nhân xung đột, tranh chấp, hận thù. 

Tâm lắng nghe

Đa số chúng ta hay thích nói mà không thích nghe người khác nói, nên mới có sự tranh chấp, cãi vả, dẫn đến sống với nhau mà không được hòa hợp.

Audio

Ta thích nói nhiều hơn và bắt ai cũng nghe theo ý mình, thậm chí ai không nghe thì mình bắt họ phải nghe, nếu không nghe, mình sẽ hăm dọa và tìm cách làm hại.

Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ tu hạnh chia sẻ và lắng nghe, nên làm lợi lạc cho vô số chúng sinh. Bồ Tát biết nghe tâm sự của người khác để hiểu rõ hoàn cảnh, tâm tư, mà biết rõ nghiệp của họ để tìm cách giúp đỡ và sẻ chia.

Trên bước đường tu của chúng ta, hạnh lắng nghe rất quan trọng và cần thiết. Nếu ta không biết mở rộng tấm lòng từ bi, thương xót nỗi khổ, niềm đau của người khác, thì làm sao mình có thể gần gũi mà  sẻ chia hay nâng đỡ họ.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Cuộc sống hiện tại có quá nhiều áp lực, công việc bộn bề với những điều không được hài lòng, vừa ý, nên ta dễ dàng mất bình tĩnh mà không làm chủ được bản thân, nhất là khi mình bị những mất mát, đau thương bất ngờ về vật chất lẫn tinh thần.

Trong những lúc như vậy, tâm ta rối bời, hoảng loạn, mất sự định tĩnh, mình luôn mơ ước và khát khao có một người bên cạnh để sẻ chia, nâng đỡ. Dù người đó chẳng giúp được gì nhiều, nhưng có họ bên cạnh, ta bớt thêm lo lắng, phiền muộn, khổ đau.

Chỉ cần một thái độ lắng nghe chân thành cũng làm cho ta vơi bớt nỗi đau bất hạnh, nên được lắng nghe và biết chia sẻ nỗi đau của người khác là nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong đời sống hằng ngày. Nhất là trong thời buổi kinh tế thị trường, sự cạnh tranh quyết liệt, chúng ta phải sống vội vã, tất bật mà không có thời gian ngơi nghỉ, làm việc gì cũng phải tính toán, so đo; đôi khi, ta phải dùng nhiều thủ đoạn để triệt tiêu và hủy diệt lẫn nhau.  

Và cứ như thế, có kẻ thắng thì phải có người thua. Kẻ thắng thì tự hào, hãnh diện, nên sinh tâm cống cao ngã mạn, khinh khi người. Người thua thì sinh tâm oán giận, thù hằn, nên tìm cách trả đũa. Chính vì vậy, dòng đời lúc nào cũng mang theo hai tâm niệm khổ đau và hạnh phúc. Kẻ mất thì sinh phiền muộn, khổ đau, tức tối, thù hằn, nên lúc nào cũng oán hận người khác, cuộc sống do đó luôn phải vay trả, trả vay, không có ngày thôi dứt. 

Ta đang sống với những người thân yêu nhất, mà đôi khi cũng sợ phải nghe nhiều vì những lời chát chúa, hằn học, nhai đi nhai lại mỗi ngày. Áp lực nơi công sở càng làm cho ta thêm mệt mỏi, chán chường. Vậy mà mỗi ngày, mình còn phải nghe những âm thanh mong cầu, ham muốn của người thân quá đáng.

Có những người lớn tuổi không được sự lắng nghe của con cháu, nên phải mượn bàn trà và thú chơi cây cảnh để tâm sự, giải bày. Nhiều người vì không biết buông xả, cứ chấp trước vào sự hiểu biết của mình mà bắt mọi người phải làm theo.  

Nhưng ta phải biết suy xét lại, thế hệ của mình và con cháu có việc làm và hiểu biết khác nhau, thử hỏi làm sao có sự nhất quán về vật chất lẫn tinh thần cho được. Chỉ có ta biết cảm thông và tha thứ mà chấp nhận sống với nhau bằng sự yêu thương chân thành mà thôi. 

Nhiều khi ta đang sống với người thân yêu mà mình lại không bằng lòng với những chuyện nho nhỏ đâu đâu, nên đành lòng ôm vào nỗi khổ, niềm đau, tự mình sống trong cô đơn, tuyệt vọng.

Hạnh lắng nghe luôn giúp mọi người vơi bớt nỗi đau bất hạnh, để vươn lên vượt qua dòng đời ngang trái. Như vị thầy thuốc trước khi bắt mạch, kê toa phải luôn lắng nghe lời trình bày và quan sát sắc diện của bệnh nhân. Nhờ biết lắng nghe như vậy, sau khi bắt mạch, vị thầy một mặt trị thân bệnh và đồng thời an ủi người bệnh để trị tâm bệnh, tránh nỗi lo lắng, sợ hãi của bệnh nhân.  

Chữ lắng nghe ở đây có ý nghĩa rất hay, vì ta lắng lặng tâm tư nên mình lắng lòng xuống trong yên tĩnh, không dao động, nhờ vậy mà tất cả mọi tâm tư lăng xăng, vội vã, bức xúc không làm mình phải mất bình tĩnh. Chính vì thế, khi lắng nghe như vậy, ta mới thấu suốt được nguồn tâm của người mà giúp họ an tâm, bình thản trước mọi biến động của cuộc đời.

Chúng ta lắng nghe, tức là sự yên lặng sâu sắc của trái tim hiểu biết mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã trao cho mình. Ta lắng lòng để nghe, hay nghe hết lòng, nghe thật sâu vào từng nhịp thở của con tim. Khi người có thiện chí biết lắng nghe nhờ giữ giới, từ bi và biết nhường nhịn, thì những giận hờn, bực tức, lo ra không thể phát sinh, nhờ vậy ta nghe thật sâu tận đáy lòng của mình.

Ta hãy tập lắng nghe bằng chính con tim của mình nhờ biết giữ giới không giết hại, trộm cướp, lường gạt của người, và dùng những chất say sưa, độc hại như xì ke, ma túy…. Nhờ không giết hại nên ta mới mở rộng tấm lòng từ bi rộng lớn, mà chia sẻ và nâng đỡ người khác. Ta không đưa vào cơ thể những chất độc hại, nên mình sáng suốt, tỉnh táo, mà làm những việc có ích cho mình và người bằng trái tim yêu thương, hiểu biết.

Ta học và tu theo hạnh lắng nghe, nếu không biết giữ ba điều trên thì không bao giờ thành tựu được trọn vẹn, vì đó là nhịp cầu nối kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống mà ai cũng phải biết, để mình và người sống bình yên, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.  

Cho nên, khi lắng nghe, ta phải hiểu thấu chính mình, thì mới nghe được trong sâu thẳm con tim, mà biết cách làm vơi bớt nỗi đau, để ta và người có sự cảm thông và càng yêu thương nhau.  

Vậy ngay từ bây giờ, ai muốn tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, để được lắng nghe thật sâu bằng trái tim yêu thương và hiểu biết? Chúng ta hãy chiêm nghiệm hình ảnh Bồ Tát mà ta đang tôn thờ, kính trọng. Tay trái của Bồ Tát cầm bình thanh tịnh, trong đó chứa nước cam lộ, nước này được rưới tới đâu thì mát mẻ tới đó, tượng trưng cho tấm lòng từ bi rộng lớn. Tay phải cầm cành dương liễu, tượng trưng cho sự bình yên, hạnh phúc. Mỗi khi nghe những lời nói hằn học, chát chúa, thô lỗ, chửi mắng, đánh đập phát ra, Bồ Tát nhẹ nhàng chuyển hóa bằng cách an nhẫn với trái tim thương yêu, hiểu biết, nhờ lắng nghe hết lòng. Cành dương liễu mềm dẻo, nên dù có sóng to gió lớn cũng không thể làm gãy được. Nhờ vậy, ta và người cùng vui sống hòa hợp với nhau mà kết nối yêu thương bằng tất cả tấm lòng.  

Lắng nghe như một nhịp cầu cảm thông, giúp cho ta định tĩnh, sáng suốt, nên phát sinh trí tuệ mà mở rộng lòng từ san sẻ nỗi khổ, niềm đau, để mỗi người chúng ta cùng nhau vươn lên, vượt qua nghịch cảnh cuộc đời.

Nếu ta muốn tu theo hạnh lắng nghe của Bồ Tát Quán Thế Âm, thì trước hết không nên nghe nhiều các chuyện tạp của thế gian, nhất là phim ảnh, sách báo đồi trụy. Vì thấy, nghe nhiều như vậy, ta khó lòng quay lại chính mình mà lắng dịu tâm tư. Ta chỉ đến chùa nghe pháp và cố gắng học hỏi lời Phật dạy bằng sự quán chiếu và suy xét.

Do đó, khi ta đi chùa tụng kinh, nghe pháp vì sự hiếu kỳ, bởi những lời đồn đãi linh ứng, nên mình đâu có thật sự lắng nghe. Khi nghe lời Phật dạy với tâm lắng nghe, nhờ vậy tâm mình lắng trong, nên sáng suốt tiếp nhận những điều hay lẽ phải, nhờ vậy mình mới biết cách chữa lành bệnh cho bản thân và cứu chữa bệnh cho người khác.  

Tóm lại, chúng ta muốn tu theo hạnh từ bi và trí tuệ thì chỉ cần im lặng lắng nghe, đừng vội can thiệp hay phán xét một điều gì, hãy để mọi thứ sâu lắng trong từng trái tim và thớ thịt của mình.

Ta muốn làm chủ được bản thân nhờ tu hạnh lắng nghe thì phải giữ giới trong sạch, sau đó mở rộng tấm lòng từ bi mà chia vui, sớt khổ, không oán giận, ghét bỏ một ai dù đó là người thù, trong tâm mình chỉ có người với người thông cảm với nhau mà thôi.

Ta lắng nghe từ trái tim hiểu biết, nên những người mình thân yêu nhất, dù thời gian đã trôi qua lặng lẽ, mình vẫn luôn cầu chúc họ sống an vui, hạnh phúc nhờ việc biết yêu thương và lắng nghe hết lòng.

Thái Lan: Lễ cúng dường 10.000 chư Tăng trong nước và quốc tế tại giảng đường Wat Phra Dhammakaya

Sáng ngày 22/4/2024, chư Tôn đức Tăng Phật giáo trên khắp mọi miền của đất nước Thái Lan, đại diện các tổ chức Phật giáo đến từ nhiều quốc gia cùng vân tập về Đại giảng đường Wat Phor Dhammakaya, Thái Lan để tham dự lễ Trai Tăng.

67d07643d18f7fd1269e

Theo truyền thống hằng năm, vào ngày 22/4/2024 là ngày cộng đồng Phật giáo khắp nơi trên thế giới tổ chức lễ kỷ niệm tôn vinh Ngày Trái Đất với nhiều hoạt động ý nghĩa tôn vinh Mẹ Trái Đất, cùng nhau đoàn kết bảo vệ môi trường xanh, thực hành lời Phật dạy từ bi, trí tuệ và thiền định để cầu nguyện thế giới hoà bình, chúng sanh an lạc. Vào dịp thiêng liêng này, tại Chùa Wat Phra Dhammakaya đã diễn ra Lễ cúng dường Tứ Sự đến Chư Tăng 10.000 ngôi Chùa trong nước và quốc tế tại tỉnh Pathum Thani, Thái Lan.

Lễ Trai Tăng đến Tăng đoàn Hơn 10,000 vị, nhân ngày Trái đất (Earth Day), ngày người dân trên khắp thế giới cùng chung tay bảo vệ trái đất ngày 22/4/2024, cũng là ngày khánh thọ 80 năm đến Hòa thượng Luang Por Dhammajayo – trụ trì chùa Wat Phra Dhammakaya.

9519ec044bc8e596bcd9

Chùa Wat Phor Dhammakaya rất vinh dự được cung đón Tăng đoàn khách mời danh dự đại lễ quốc tế  Ngày Trái đất (each day) chư Tôn đức Trưởng lão Phật giáo các nước đến từ nhiều quốc gia như: Thái Lan, Myanmar, Sri Lanka, Nepal, India, Bangladesh, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Trung Quốc, Đài Loan, Bhutan, Canada và chư Tôn đức Tăng Việt Nam. 

Sáng ngày 22/4/2024, chư Tôn đức Tăng Phật giáo trên khắp mọi miền của đất nước Thái Lan, đại diện các tổ chức Phật giáo đến từ nhiều quốc gia, cùng hàng trăm nghìn người dân địa phương vân tập về Đại giảng đường Wat Phor Dhammakaya, Thái Lan để tham dự Lễ Trai Tăng Đến Tăng đoàn Hơn 10,000 vị, nhân ngày Trái đất (Earth Day), ngày người dân trên khắp thế giới cùng chung tay bảo vệ trái đất, cũng là ngày khánh thọ 80 năm đến Hòa thượng Luang Por Dhammajayo – trụ trì chùa Wat Phor Dhammakaya.

Quang lâm và chứng minh buổi lễ có Hòa thượng Phra Bhavana Dhammawithet – Phó Trụ trì chùa Dhammakaya, cùng 10.000 chư Tôn đức Tăng trên khắp đất nước Thái Lan.

Nhận lời thỉnh cầu, Đoàn Phật giáo Việt Nam đến tham dự buổi lễ ngày trái đất có: Hòa thượng Thiện Tâm – Phó Chủ tịch HĐTS kiêm Phó ban thường trực ban Phật Giáo Quốc Tế T.Ư GHPGVN ; Hòa thượng Pháp Cao – Thành viên HĐCM GHPGVN, Trụ trì chùa Nam Quang (TP. Hôi An); Thượng tọa Thích Nhật Từ – Ủy viên Thường trực HĐTS, Phó trưởng ban Phật giáo Quốc tế T.Ư GHPGVN, Trụ trì chùa Giác Ngộ (TPHCM); Hòa thượng Thích Tâm Đức – Phó Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại TPHCM; Đại đức Pháp Hiếu – Ủy viên Ban Phật giáo Quốc tế T.Ư, Phó Chánh Văn phòng Ban TTTT T.Ư GHPGVN, Trụ trì chùa Tam Bảo (TP. Đà Nẫng); cùng chư Tôn đức Tăng, Ni tháp tùng đoàn và Chư Tăng Phật tử nhiều quốc gia trên thế giới đồng về tham dự.

a52ddd897a45d41b8d54

Theo truyền thống, hàng năm vào ngày trái đất và ngày khánh thọ Hòa thượng Trụ trì chùa Dhammakaya Luang Phor Dhammajayo thường tổ chức ngày hội cúng dường tập thể thậo phương Tăng chùn để tạo điều kiện cho nhân dân Phật tử tại gia có cơ hội làm phúc, gieo nhân lành cho cuộc sống tương lai.

12081a4bbc8712d94b96

Phát biểu tại buổi lễ đặt bát cúng dường 10.000 vị chư Tăng tại đại giảng đường Wat Phor Dhammakaya, Thái Lan, Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Tâm – cho biết: “Vào ngày trái đất thiêng liêng, người con Phật khắp nơi trên thế giới cùng hướng tâm cầu nguyện cho Trái đất, tôn vinh trái đất như một người mẹ và tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường xanh, bảo vệ sự sống, tôn trọng thiên nhiên cây cối và môi trường, kêu gọi các cá nhân lưu tâm đến hành động của mình, tránh ô nhiễm và lãng phí, đồng thời bảo vệ hệ sinh thái cho các thế hệ tương lai. Buổi lễ thiêng liêng trọng đại tại chùa Dhammakaya là dịp kết nối tâm linh sâu sắc của người con Phật với thế giới tự nhiên như một nguồn năng lượng to lớn của những lời cầu nguyện và thực hành giáo lý Phật Đà bảo vệ môi trường trái đất thân yêu, Cầu nguyện cho đất nước hòa bình và thịnh vượng, Cầu nguyện cho thế giới hòa bình”

0465a6a7006bae35f77a

Phật tử chúng ta tham dự Pháp hội kỷ niệm ngày trái đất và cúng dường lên 10.000 chư Tôn đức Tăng được cung thỉnh từ khắp nơi trên thế giới và toàn đất nước Thái Lan để tăng trưởng phước báo, niềm hoan hỷ và sự an lạc. Việc cúng dường là cho đi để tỏ lòng thành kính, cho nên việc cúng dường giúp con người vượt qua sự ích kỷ, mở rộng tấm lòng, từ bỏ sự ham muốn mà trở về tự thân, nhận biết rõ ràng chánh niệm tỉnh giác”

Chị Rosesawan pevalek – Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Thanh niên Quốc tế tại Thái Lan.

Chị Rosesawan pevalek – Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Thanh niên Quốc tế tại Thái Lan.

Chị Rosesawan pevalek – Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Thanh niên Quốc tế tại Thái Lan, hoan hỷ chia sẻ “Chúng con rất vui mừng tham gia hộ trì buổi lễ đặt bát cúng dường 10000 Chư Tăng trong nước và Quốc tế trong ngày trái đất và kính mừng khánh thọ Hòa thượng trụ trì chùa Dhammakaya Luang Phor Dhammajayo, chúng con nguyện mười phương Phật gia hộ đến Quí Ngài cùng toàn thể nhân dân, Chư Tăng Phật tử được Pháp thể an lạc, hạnh phúc, trong đó Việt Nam và Thái Lan có rất nhiều điểm tương đồng cả về lịch sử, văn hóa, Phật giáo vì vậy quan hệ giao lưu nhân dân, văn hóa giữa hai nước luôn được người dân, Phật tử nhiệt tình hưởng ứng qua các lễ hội Phật giáo và đến nay tiếp tục được củng cố, trong đó giáo lý Đạo Phật là sợi dây tinh thần bền chặt, gắn bó một cách tự nhiên giữa hai dân tộc Việt Nam và Thái Lan”.

Theo Phân ban TT.TT Phật giáo Nam tông Kinh T.Ư GHPGVN.

Trong lòng bình yên thì cuộc sống ngoài kia cũng sẽ bình yên

Nhiều người luôn khát khao có được thứ phép thuật có thể biến đổi cuộc sống chung quanh mình thành bình yên, nhưng họ không biết ngay bên trong bản thân mình đã có được thứ phép thuật đó.

431551836_462501456437538_3831243418145228493_n

Lời Kinh trong lòng bàn tay: “Nếu một người trong lòng đã bình yên thì cuộc sống ngoài kia cũng sẽ bình yên”.

Khi không đủ khả năng thu xếp những ngổn ngang trong lòng, chúng ta sẽ thấy cả thế giới này thật bề bộn.

Khi đôi mắt trở nên dửng dưng vô cảm, khi đôi tay không còn hơi ấm, khi không còn nói được một lời chân thành, nghĩa là trái tim bên trong đã bắt đầu chai cứng lại; và lời nói, đôi tay, ánh mắt ấy sẽ tương tác với cuộc sống chung quanh rồi tạo ra một môi trường sống cho chính mình.

Tất cả những cảm xúc bên trong, dù cố kiềm nén đến đâu, dù cố che giấu thế nào, cuối cùng cũng sẽ thể hiện thành một thực tại bên ngoài.

Trạng thái tâm lý bên trong sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta nhìn nhận và trải nghiệm cuộc sống hàng ngày; cách chúng ta đã sống một ngày như thế nào, có thể, chúng ta cũng sẽ sống một đời như thế đó.

Mặt sông sẽ ồn ào hẳn lên khi trong lòng sông có những tảng đá ngầm.

Đá ngầm làm tăng tốc độ dòng chảy, tạo thành sóng và những xoáy nước, rồi tạo ra âm thanh lan tỏa ra khắp mặt sông. Khi nghe thấy tiếng ồn từ mặt sông, dù không nhìn thấy, nhưng ai cũng biết dưới đáy sông đang có những tảng đá ngầm.

Khi đáy sông bằng phẳng, mặt sông sẽ bình yên.

Khi trong lòng tĩnh lặng và bằng phẳng, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ bình yên.

Không có cách nào có thể giúp dòng sông trở nên tĩnh lặng, trừ khi nhặt bỏ những tảng đá ngầm đang tồn tại dưới đáy sông.

Chúng ta không thể thay đổi được những gì đang diễn ra chung quanh mãi đến khi chúng ta quyết tâm thay đổi bên trong chính mình.

Nhiều người luôn khát khao có được thứ phép thuật có thể biến đổi cuộc sống chung quanh mình thành bình yên, nhưng họ không biết ngay bên trong bản thân mình đã có được thứ phép thuật đó.

Khổ đau là một công việc bên trong, nên bình yên cũng là một việc của bên trong.

Bình yên không nằm ngoài, nó nằm trong trái tim của bạn

Cha mẹ là Phật

Dương Phủ người huyện Thái Hòa, tỉnh An Huy, do căn lành đã trồng sâu nên tiên sinh sớm thể hội cuộc đời vô thường, sớm còn tối mất, công danh như bọt nước ngoài khơi, liền lập chí xuất gia sống đời tỉnh thức.

Nghe nói đạo hạnh của Đại sư Vô Tế ở Tứ Xuyên hết sức cao thâm, vì muốn thân cận minh sư liền từ biệt song thân đến Tứ Xuyên tìm thầy cầu đạo. Vừa mới vào địa phận tỉnh Tứ Xuyên, tiên sinh may mắn gặp một vị hòa thượng đã gần 70 tuổi. Tiên sinh cung kính đảnh lễ lão hòa thượng. Lão hòa thượng từ tường hỏi:

– Con từ đâu đến đây, đến Tứ Xuyên có việc gì không?

Dương tiên sinh cung kính chắp tay đáp:

– A-di-đà Phật! Kính bạch thầy, con ở tỉnh An Huy, muốn đến Tứ Xuyên tham học với Đại sư Vô Tế.

– Con muốn gặp Đại sư Vô Tế, như thế không bằng thấy Phật.

– A-di-đà Phật! Kính bạch thầy, đương nhiên con rất muốn gặp Phật, nhưng quả thật con không biết Phật ở đâu, thỉnh lão hòa thượng từ bi chỉ bảo?

– Vậy con hãy lập tức trở về nhà, nếu gặp người nào trên thân khoác cái chăn bông, chân mang dép ngược, người ấy chính là Phật.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Dương Phủ nghe lão hòa thượng nói thế, hết sức vui mừng, tin nhận không chút nghi ngờ. Ngay lập tức tiên sinh cáo biệt lão hòa thượng, lên đường về quê. Trèo núi vượt đèo hơn cả tháng trời mới về đến nhà. Lúc đến nhà, mặt trời đã xuống núi từ lâu, các ngọn đèn trong xóm cũng dần dần thưa thớt, ông gõ cửa gọi mẹ:

– Mẹ ơi! Con vừa về, mẹ ra mở cửa cho con.

Người mẹ nghe tiếng đứa con trai của mình gọi thì mừng vui khôn tả xiết. Tuy ông bà đồng ý cho con xuất gia học đạo, nhưng trong lòng bà vẫn luôn nhớ nhung khôn nguôi, lúc nào cũng dõi theo từng bước chân của con. Vì thế, vừa nghe tiếng con thì bà vui mừng luýnh quýnh, lật đật ngồi dậy bước vội xuống giường, không kịp mặc áo, kéo đại cái chăn bông khoác lên người, líu quýu mang dép ngược, vội vội vàng vàng chạy ra mở cửa đón con…

Dương Phủ nhìn thấy mẹ khoác chăn bông, chân mang dép ngược chạy ra, tức thời nhớ lời hòa thượng và nhận hiểu được ngay ý nghĩa: cha mẹ chính là Phật sống trong nhà.

Từ đó về sau, ông hết lòng hiếu thuận, phụng dưỡng song thân. Về phương diện vật chất, ông luôn cố gắng cung dưỡng đầy đủ; còn về phương diện tinh thần, ông luôn tự mình làm nhiều việc tốt để cha mẹ vui lòng.

Dương Phủ hưởng thọ đến 80 tuổi, lúc sắp lâm chung vẫn an nhiên tự tại, đọc bốn câu kệ trong kinh Kim Cang rồi an tường ra đi.

“Nhân quả báo ứng hiện đời”

Biên soạn: Đường Tương Thanh

Việt dịch: Đạo Quang

Nguồn: NXB Văn hóa Sài Gòn, 2009)

Triết lý giác ngộ và ý nghĩa văn chương trong Kinh Pháp Hoa (2)

Như phần trước đã đề cập, kinh Pháp Hoa ngoài việc chuyển tải giáo nghĩa giải thoát, khẳng định khả năng và con đường thành Phật cho tất cả chúng sanh thì đồng thời và trước tiên, nó được xem là một tác phẩm văn học.

II. Ý nghĩa văn chương 

Tính văn học được thể hiện rõ nét qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ và các thủ pháp nghệ thuật mang tính gợi mở của bộ kinh. Đây là điểm thường gặp trong hệ thống kinh điển Đại Thừa, người đọc cần phải biết “lãnh ý quên lời”, vượt qua lớp võ ngôn ngữ và hình ảnh biểu trưng để tìm đến ý nghĩa chính muốn chuyển tải, mới không bị rơi vào trạng thái ảo tưởng, thần thánh hóa.

Điểm đặc biệt của Kinh Pháp Hoa là tuy diễn đạt những nghĩa lý cao thâm, nhưng không hề làm khó người đọc, ở chổ đều có sự liên tưởng và giải thích ý nghĩa rõ ràng ngay liền sau mỗi thủ pháp nghệ thuật. Như trong phẩm “Thí dụ” thứ ba nói về hình ảnh những đứa trẻ ham mê chơi giỡn trong nhà lửa, người cha đứng ngoài thấy quá nguy hiểm, nhưng nói sao các con cũng không chịu chạy ra, vì “chưa hiểu gì là lửa, gì là nhà, thế nào là hại, chỉ cứ đông tây chạy giỡn nhìn cha mà thôi”. Người Cha phải dùng những món đồ chơi để dẫn dụ, mới thành công. Kinh liên tưởng những đứa trẻ giống như chúng ta, là những người con của Phật đang ở trong thế giới đầy sự bất ổn của tam giới. Dù vậy, chúng ta vẫn cảm thấy sự thoát ly khỏi thế giới này là chưa hoặc không cần thiết. Vì thế đức Phật phải dùng các quả vị tu hành khác nhau để khuyến khích, nhưng cuối cùng cũng quy về cảnh giới duy nhất, là sự giác ngộ hoàn toàn mới thật sự là rốt ráo, đáng để tất cả hướng về.

Triết lý giác ngộ và ý nghĩa văn chương trong Kinh Pháp Hoa (1)

428176941_796591125841492_1306461378176243709_n

Kinh Pháp Hoa có tất cả “ba châu chín dụ nghĩa kín mầu”, ngoài ảnh dụ về nhà lửa, còn có ảnh dụ về về ba loại xe, tượng trưng cho ba con đường và quả vị tu chứng của một hành giả, bao gồm:

– Xe dê nhỏ yếu chỉ chuyên chở được một người, chỉ cho hàng Thanh Văn, chuyên tâm tu tập pháp Tứ diệu đế để tự thân thoát ly tham, sân, si, khổ đau của sinh tử.

– Xe hươu chỉ cho bậc Duyên Giác chuyên ở chổ riêng lẽ vắng lặng quán sát pháp Thập nhị nhân duyên để chuyển hóa vô minh,… lão tử ưu bi khổ não, hết lưu luyến tam giới, có trí tuệ giải thoát mạnh hơn hàng Thanh Văn.

– Xe trâu được xem là lớn mạnh nhất, có thể chở được nhiều người, chỉ cho hàng Bồ Tát phát tâm thành Phật. Họ là những bậc đã tự ra khỏi tam giới, nhưng vì “có lòng thương xót làm an vui cho chúng sanh”, nên quay lại bằng hạnh nguyện lợi tha, đi vào cuộc đời để giúp đỡ chúng sanh, khiến họ cũng được giải thoát như mình, khi nào tâm nguyện thành tựu sẽ bước lên quả vị Phật.

Kinh Pháp Hoa còn giới thiệu hình ảnh và ý niệm về “Người Cùng Tử” (người con nghèo khổ) sau này được sử dụng rất phổ biến trong Phật giáo. Đó là người con vốn không hề nghèo, mà chỉ vì một phút lầm lỡ, rời bỏ vị cha giàu có, lang thang trôi nổi quên mất gia thế và quê nhà, đến mức phải làm những công việc thấp hèn để mưu sinh. Cũng giống hình ảnh người nghèo có “viên ngọc trong chéo áo” mà không hay biết, phải đi xin xỏ những thứ thấp hèn để nuôi thân, lúc được chỉ ra gia tài tiềm ẩn của mình mới vỡ òa trong hạnh phúc. Những người tu hành cũng vậy, công phu tu tập hằng ngày sẽ giúp họ tìm về với gia tài đồ sộ kia, khi đạt được niềm an ổn tĩnh lặng của tinh thần rồi, thì những vật ngoài thân sẽ không còn quan trọng nữa.

Đời sống tinh thần luôn mang tính quyết định nhất, nếu bạn thật sự có sự phong phú về tinh thần, chắc chắn bạn sẽ có cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc. Và người ta chỉ cúi đầu trước những trái tim vĩ đại, tinh thần vĩ đại, như đức Phật hay đức Chúa. Họ đều là những người vô sản, nhưng nhân cách và năng lượng tích cực được cả nhân loại ca tụng và học theo. Vì vậy không chỉ trong Phật giáo, hay nền triết học phương Đông mà cả những tác phẩm về bàn về hạnh phúc ở phương Tây cũng đều hướng con người bồi đắp sự lớn mạnh, phong phú về tinh thần, đó mới là gia tài thật sự của mình, nó sẽ theo ta không chỉ một đời, mà còn ảnh hưởng đến kiếp sau và cả những thế hệ tiếp nối.

Trở lại kinh Pháp Hoa, có một ví dụ rất thực tế và gần gũi, đó là ví dụ đức Phật như người thầy dẫn đường, như vị bác sỹ chẩn bệnh cho thuốc. Vấn đề là rất nhiều bệnh nhân dù thuốc đã sẳn có, nhưng lại không chịu uống. Cũng như chúng ta, suốt ngày than khổ, nhưng nếu bảo bỏ cái khổ kia đi, lại có trăm ngàn biện minh vì do tại bị. Cũng giống như một ví dụ vui, những người cầu vãng sanh Tịnh Độ, nhưng nếu Phật Di Đà đến tiếp dẫn liền thì rất sợ hãi, hẹn lần lữa vì còn nhiều việc chưa làm xong. Thật chất cái gọi là “chưa xong” đó vốn do mình không nỡ buông mà thôi, trên đời có gì là không thể thay thế không?! Hiểu điều này, tự nhiên chúng ta sẽ bớt cầu xin lại, vì Phật Bồ Tát vốn không phải vị thần ban phước giáng họa, quý ngài chỉ là vị thầy chỉ đường, còn đi hay không, nhanh hay chậm, có kết quả sớm hay muộn là do sự thực hành của bản thân chúng ta quyết định…

Bộ kinh này, càng đọc càng nhận ra nhiều triết lý sống và tu tập hằng ngày, càng thấy thương cho hạnh nguyện độ sanh không mệt mỏi của chư Phật và Bồ tát. Xuyên suốt bộ kinh còn rất nhiều nội dung và tầng nghĩa khác mà mình chưa thể lãnh hội trọn vẹn, nên tạm thời chỉ giới thiệu đến đây, ai có hứng thú xin mời đọc trực tiếp để trải nghiệm thêm nhé!

Con đường của ngoại hình xấu đẹp

Thân hình không đoan chánh nghĩa là ngoại hình có vấn đề không như ý. Như lùn quá hay cao quá, đen quá hay trắng quá, mập quá hay ốm quá, khiếm khuyết hay tật nguyền chỗ này hoặc chỗ kia,… Ngược lại, thân hình đoan chánh là người có hình thể cân đối, vẻ ngoài dễ nhìn, nhiều người có thiện cảm.

“Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Đức Phật nói:

– Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có thân hình không đoan chánh? Nếu có kẻ nam hay người nữ mà tánh nóng nảy, hay bực dọc, vừa nghe chút ít đã nổi cơn giận dữ, nổi ganh ghét mà sanh lo buồn, nổi thịnh nộ tranh chấp. Người ấy thọ lấy nghiệp này, tạo tác đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn đưa đến chỗ ác, sanh vào trong địa ngục. Mãn kiếp địa ngục, lại sanh vào nhân gian, hình thể không đoan chánh. Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo hình thể không đoan chánh, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào tánh nóng nảy, hay bực dọc. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy.

– Này Ma-nạp, do nhân gì, duyên gì mà kẻ nam hay người nữ có thân hình đoan chánh? Nếu có kẻ nam hay người nữ nào tánh không nóng nảy, không hay bực dọc, người ấy nghe lời nói êm ái hay thô bỉ cục cằn không nổi cơn giận dữ, không ganh ghét sanh ra buồn rầu, không nổi thịnh nộ tranh chấp. Người ấy thọ nghiệp, tác thành đầy đủ rồi, đến khi thân hoại mạng chung chắc chắn tiến lên chỗ lành, sanh vào trong cõi trời. Mãn kiếp ở cõi trời lại sanh vào nhân gian, hình thể đoan chánh. Vì sao vậy? Vì con đường này đưa đến thọ báo hình thể đoan chánh, nghĩa là kẻ nam hay người nữ nào tánh không nóng nảy, không nhiều bực dọc. Ma-nạp nên biết, nghiệp này có quả báo như vậy”.

(Kinh Trung A-hàm, phẩm Căn bổn phân biệt, kinh Anh vũ, số 170 [trích])

Thân hình không đoan chánh nghĩa là ngoại hình có vấn đề không như ý. Như lùn quá hay cao quá, đen quá hay trắng quá, mập quá hay ốm quá, khiếm khuyết hay tật nguyền chỗ này hoặc chỗ kia, bản thân thường tự ti mặc cảm, bị người xa lánh. Ngược lại, thân hình đoan chánh là người có hình thể cân đối, vẻ ngoài dễ nhìn, nhiều người có thiện cảm.

Có người mới sinh ra thân thể và diện mạo đã bị khiếm khuyết rồi. Có người lớn lên, do bệnh tật hoặc tai nạn phải mang nhiều thương tích, thậm chí tật nguyền. Chẳng ai muốn mình như vậy cả nhưng cũng không nhiều người biết nguyên nhân của vấn đề xuất phát từ đâu. Ông trời trừng phạt chăng? Số mệnh an bài định sẵn chăng?

Đức Phật đã chỉ ra nguyên nhân do quá khứ tạo nghiệp tánh tình nóng nảy, bực bội, thường hay sân hận, ganh ghét, tranh chấp. Chính việc tạo ra ác nghiệp nóng giận nên khi chết sinh vào cõi dữ, chịu nhiều đau khổ. Khi trả hết nghiệp ở nơi địa ngục tái sinh làm người, do dư báo của ác nghiệp vẫn còn nên chịu ngoại hình không như ý. Con đường đưa đến ngoại hình thô xấu chính là nhiều nóng giận.

Nếu người nào tánh tình không nóng nảy, chẳng bực bội, dù thực tế thế nào cũng không khởi tâm sân hận, chẳng tranh chấp đấu đá với người, sống vui vẻ, hòa đồng, yêu thương thì được phước sinh về các cõi trời. Đến khi hết phước cõi trời sinh làm người, do dư báo thiện nghiệp hoan hỷ vẫn còn nên được phước ngoại hình đẹp đẽ.

Ngay trong hiện tại, người nổi cơn thịnh nộ và hay tranh chấp đấu đá là đã không đẹp rồi. Cả thân lẫn tâm đều xấu xí vì lửa nóng giận và đấu tranh thiêu đốt. Vì thế thường tu tập từ bi và hoan hỷ, nguyện yêu thương và vui vẻ với bất cứ hoàn cảnh nào để cho mình luôn dễ thương và đoan chính ngay hiện đời và những đời sau.